Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Bài tập học kỳ môn Đại cương văn hóa Việt Nam (10 điểm) Đề bài “Tìm hiểu về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của Việt Nam”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.04 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
Trang:


MỞ ĐẦU
Bất cứ quốc gia nào, xã hội nào cũng có những loại tín ngưỡng
truyền thống do nhiều thế hệ lưu lại. Một quốc gia có tuổi càng
cao, có chiều dài lịch sử càng nhiều, gắn liền với nền văn hóa bản
địa là có một số tín ngưỡng bản địa. Riêng Việt Nam, tín ngưỡng
nhân gian gồm có: Tín ngưỡng phồn thực, Tam phủ, Tứ phủ, Thờ
động vật và thực vật, Tín ngưỡng sùng bái con người. Trong các
hình thái tín ngưỡng dân gian, thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín
ngưỡng cổ truyền mang tính phổ quát của người Việt Nam. Là
người Việt Nam thì " mọi người đều thờ cúng tổ tiên, mọi người
đều thờ ông bà”.
Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị
trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam,
là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị: tin rằng tổ tiên mình là thiêng
liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ
phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con
cháu gặp may mắn, khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành
và cũng quở trách con cháu khi làm những điều tội lỗi...
Ở nước ta, thờ cúng tổ tiên không chỉ là tín ngưỡng phổ biến ở
người Việt - tộc người đa số - mà còn lưu giữ ở một vài tộc người
khác như người Mường, người Thái... Trải qua bao thăng trầm, biến
cố của lịch sử, trong khi nhiều tôn giáo, tín ngưỡng dân gian khác
đã phải chịu cảnh long đong, bị kết tội “mê tín dị đoan” nhưng tín
ngưỡng thờ tổ tiên đã và vẫn chiếm được vị trí thiêng liêng trong
đời sống tinh thần của người Việt. Ý thức “con người có tổ, có
tông” được bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này


2


sang thế hệ khác, dù họ sống trên tổ quốc mình hay lưu vong nơi
xứ người. Đặc biệt đây là hình thức tín ngưỡng được các thể chế
chính trị (Nhà nước) từ xưa đến nay trân trọng thừa nhận, dù rằng
với những mức độ khác nhau. Cùng với tiến trình lịch sử của dân
tộc, nó là sự bồi lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của
con người Việt Nam.
Chính vì vậy, để tìm hiểu kỹ hơn về loại hình tín ngưỡng này
cũng như lấy nó làm chủ đề nghiên cứu cho bài tập học kỳ môn
đại cương văn hóa của mình, em xin chọn đề bài: “Tìm hiểu về tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên của Việt Nam”.

3


NỘI DUNG
I. Khái quát chung về tín ngưỡng
1. Khái niện tín ngưỡng
Hiện nay, khái niệm tín ngưỡng được hiểu theo nhiều cách
khác nhau tùy theo cách tiếp cận của mỗi người. Thuật ngữ “Tín
ngưỡng” được sử dụng với nhiều nghĩa. Trong số đó, có những
nghĩa cơ bản thường gặp là:
- Khái niệm dùng để chỉ những hình thức sơ khai của tôn giáo
(hay còn gọi là tôn giáo nguyên thủy).
- Khái niệm dùng để chỉ những trạng thái tâm lý đặc biệt của
con người (cá nhân hoặc cộng đồng) bao gồm: sự tôn thờ, thành
kính và sợ hãi đối với những đối tượng đã được thần thánh hóa (từ
ý niệm đến các sự vật cụ thể - chẳng hạn như bái vật giáo).

- Khái niệm dùng để chỉ các hoạt động mang sắc thái tâm linh
của cá nhân và cộng đồng (theo đó, nó bao gồm cả tôn giáo). 1
Có thể nói Tín ngưỡng là những trạng thái tâm lý đặc biệt của
con người, như sự sợ hãi, sự tôn thờ, thành kính, tin tưởng ngưỡng
mộ và sùng bái... đối với những đối tượng đã được thần thánh hóa.
Nhìn chung tín ngưỡng chính là sự cảm nhận của con người về thế
giới mà họ đang sống, về cuộc sống xung quanh họ. Tín ngưỡng
thể hiện niềm tin của con người, niềm tin đặc biệt tạo cho ta một
cảm giác thiêng liêng, giúp người ta có thể nhận thức được sự vật
mà lại khiến ta không thể lí giải nổi, tạo cho ta một sức mạnh đặc
biệt trong cuộc sống hiện đại. Tín ngưỡng là hiện tượng có tính
chất thiêng liêng, thần bí thể hiện niềm tin về một thế giới vô hình
1 TS. Phạm Thái Việt (Chủ biên) – TS. Đào Ngọc Tuấn, Đại cương về Văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Văn
hóa – Thông tin, Trang 53;

4


sau khi chết về sự tồn tại của linh hồn người chết và sự tác động
đến cuộc sống hiện tại của con người. Dường như ở đâu có niềm
tin thì ở đó hình thành nên tín ngưỡng, đó là yếu tố cơ bản tạo nên
đời sống tâm linh người Việt. Nhưng ta cần phân biệt tín ngưỡng
với tôn giáo. Nếu như tôn giáo có người sáng lập, có giáo lý, giới
luật, tầng lớp tăng lữ, cộng đồng tín đồ...là một tổ chức xã hội
mang tính tổ chức cao, hướng đến đời sống tâm linh siêu việt với
sức ảnh hưởng, phạm vi mang tính rộng rãi, cấp độ quốc tế thì tín
ngưỡng mang trong mình tính địa phương nhỏ hẹp, không đầy đủ
các yếu tố như tôn giáo nên thường gắn liền với đời sống trần tục
một cách chặt chẽ thông qua tiềm thức của các cá nhân. Tín
ngưỡng là bộ phận không thể thiếu của văn hóa dân gian.

2. Phân biệt tín ngưỡng với tôn giáo
Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để
giải thích thế giới và để mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng
đồng. Tín ngưỡng đôi khi được hiểu là tôn giáo. Điểm khác biệt
giữa tín ngưỡng và tôn giáo là ở chỗ: tín ngưỡng mang tính dân
tộc nhiều hơn tôn giáo, tín ngưỡng có tổ chức không chặt chẽ như
tôn giáo. Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến tín
ngưỡng của một dân tộc hay một số dân tộc có một số điểm
chung còn tôn giáo thì không mang tính dân tộc. Tín ngưỡng
không có một hệ thống diều hành và tổ chức như tôn giáo nếu có
thì hệ thống đó cũng lẻ tẻ và rời rạc. Tín ngưỡng nếu phát triển
đến một mức độ nào đó thì có thể thành tôn giáo.
Trong giới nghiên cứu, thuật ngữ “tín ngưỡng” thường được
phân biệt với thuật ngữ “tôn giáo” dựa trên những khác biệt sau:
5


Tôn giáo có phạm vi ảnh hưởng lớn (thường đạt cấp độ quốc
tế), còn tín ngưỡng thường mang tính địa phương nhỏ hẹp.
Tôn giáo có người sáng lập, có giáo lý, giới luật, tầng lớp tăng
lữ và cộng đồng tín đồ. Do đó, tôn giáo là một hiện tượng xã hội
mang tính tổ chức cao, hướng đến đời sống tâm linh siêu việt.
Trong khi đó, tín ngưỡng lại không hội đủ các yếu tố nói trên, và
thường gắn với đời sống trần tục một cách chặt chẽ thông qua
tiềm thức của các cá nhân.
Chính vì mang đậm tính chất địa phương nên tín ngưỡng luôn
là một bộ phận không thể thiếu của văn hóa dân gian.
II. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam
1. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là gì?
Tổ tiên theo quan niệm của người Việt Nam, đó trước hết là

những người cùng huyết thống, cha mẹ, ông bà, cụ, kỵ,... là những
người đã sinh thành ra mình, có công nuôi dưỡng chăm sóc mình,
con cháu luôn luôn phải hiếu kính với tổ tiên. Tổ tiên cũng là
những có người có công tạo dựng lên cuộc sống hiện tại như các vị
“Thành hoàng làng” các “Nghệ tổ”. Không chỉ thế, tổ tiên còn là
những người có công bảo vệ làng xóm, quê hương, đất nước khỏi
nạn ngoại xâm như Trần Hưng Đạo đã trở thành “Cha” được tổ
chức cúng, giỗ vào tháng 8 âm lịch hàng năm. “Tháng tám giỗ
cha” diễn ra ở rất nhiều nơi trong cộng đồng người Việt. Ngay cả
“Thành hoàng” của nhiều làng cũng không phải là người đã có
công tạo dựng lên làng, mà có khi là người có công, có đức với
nước được các cụ xa xưa tôn thờ là “Thành hoàng”. Tổ tiên trong

6


tín ngưỡng của người Việt Nam còn là “Mẹ Âu Cơ”, còn là “Vua
Hùng”, là người sinh ra các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam.
Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua đó tìm
ra "mối liên hệ" giữa người sống với người chết, giữa người ở thế
giới hiện tại và thế giới tâm linh. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có
thể coi là một hình thức tôn thờ con người trong gia đình mìnhnhững người đã qua đời mà con cháu vẫn luôn nhớ đến, kính
trọng, tin rằng họ luôn luôn ở bên cạnh mình. Tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại của linh hồn và mối liên hệ giữa
người đã chết và những người còn sống. Một mặt con cháu bày tỏ
lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành, lúc họ đã chết cũng như
khi còn sống. Mặt khác, nó cũng thể hiện trách nhiệm và chữ hiếu
của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Trách nhiệm được biểu hiện
không chỉ trong việc giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của
gia đình, dòng họ, đất nước mà còn ở trong các hành vi thờ cúng

cụ thể.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được thể hiện: Trong gia đình,
dòng họ; trong làng xã hay trên phạm vi của cả nước. Tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên rất giản dị: Người Việt Nam tin rằng ở bên kia thế
giới, những người đã khuất vẫn sống với thế giới riêng của mình,
bên này có gì bên kia cũng thế, coi âm linh như thế giới song song
với cuộc sống thực tại vậy, và họ tin rằng tổ tiên mình là thiêng
liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, tổ
tiên có thể phù hộ cho con cháu khi gặp những tai ách, khó khăn;
vui mừng khi con cháu gặp may mắn, gặp điều lành và cũng quở
trách con cháu khi làm những điều tội lỗi...
7


Cùng thử sức với thời gian, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã
đang và vẫn chiếm được vị trí thiêng liêng, đặc biệt trong đời sống
tinh thần của mỗi con dân đất Việt. “Con người có tổ, có tông” là ý
thức trong mỗi người, được bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đặc biệt hơn đây là hình
thức tín ngưỡng được Nhà nước trân trọng thừa nhận, dù rằng với
những mức độ khác nhau tùy vào từng thời điểm, chế độ. Cùng
song hành với tiến trình lịch sử của dân tộc, tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên chính là sự bồi lắng, kết tinh những giá trị đạo đức quý báu
của con người Việt Nam.
Ở nước ta đã và đang dung dưỡng một hệ thống tín ngưỡng
dân gian rất phong phú, đa dạng, nhưng tiêu biểu hơn cả vẫn là
tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhắc nhở
thế hệ những người đang sống phải nhớ đến nguồn, “ăn quả nhớ
người trồng cây”, biết kính trọng, phụng dưỡng, có hiếu với ông
bà, cha mẹ lúc sinh thời và thờ phụng khi mất. Chính sự thanh

cao, tinh khiết của nó đã trở thành đạo lý, lẽ sống, trở thành nét
đẹp trong truyền thống văn hoá của dân tộc. Con người đã là
người dân gốc Việt - họ đều có chung điểm hướng về, đó là hướng
về với vùng đất Tổ, đều coi trọng người sinh thành và dưỡng dục
mình nên người. Điều này ta có thể bắt gặp trong những lời ru,
câu ca dao khi ta còn nằm nôi:
" Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con."
8


hay:
"Ơn cha nặng lắm ai ơi
Nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang"
Còn có rất nhiều những câu thơ, lời hát thể hiện công ơn
những người đã sinh thành, nuôi dưỡng với tấm lòng thành kính,
biết ơn, và một lòng yêu tha thiết nhất của con cháu.
Thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam là một tín ngưỡng có sức sống
lâu bền, có gốc rễ sâu xa trong cộng đồng người Việt trải qua
những thăng trầm của lịch sử, tín ngưỡng này vẫn luôn còn tồn tạ
và ngày càng phát triển hơn. Điều đó nói lên sức sống trường tồn
của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong lòng dân tộc.
2. Cơ sở hình thành
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên xuất hiện từ khi nào? Cho đến nay
có khá nhiều các giả thuyết, nó được hình thành vào thời Bắc
thuộc, cùng với những ảnh hưởng của văn hóa Hán. Nhưng một số
vấn đề được trao đổi: liệu thời điểm ra đời có thể sớm hơn không,
mối quan hệ giữa yếu tố bản địa và yếu tố du nhập trong việc hình

thành tín ngưỡng này diễn ra như thế nào? Chúng ta hãy tìm hiểu
từ nền tảng văn hóa - xã hội của cộng đồng cư dân Việt.
a. Cơ sở tâm linh
Cơ sở quan trọng đầu tiên trong việc hình thành bất cứ tôn
giáo tín ngưỡng nào là quan niệm tâm linh của con người về thế
giới. Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận
thức “vạn vật hữu linh” - mọi vật đều có linh hồn, và bắt đầu từ
giới tự nhiên xung quanh mình. Vì thế, loại thần cổ sơ nhất được
9


người ta sùng là các nhiên thần, đặc biệt là thần cây, thần núi,
thần sông.... Bằng cách huyền thoại hóa, các vị nhiên thần đã
được mang khuôn mặt của con người (hiền hậu hay dữ tợn), tâm
lý của con người (vui mừng hay giận giữ). Có thể nói việc nhân
hóa các thần tự nhiên đã tạo ra một bước chuyển cho việc hình
thành hệ thống nhân hóa. Đây cũng chính là giai đoạn con người
bắt đầu khám phá về bản thân mình. Đến một thời điểm nào đó,
mối quan hệ giữa cái hữu hình và cái vô hình, nhất là cái sống và
cái chết đã làm con người bận tâm. Vẫn với quan niệm vật linh kể
trên, họ tin rằng trong mỗi con người đều có phần “hồn” và “vía”.
Không có ý thức cao siêu về thiên đàng hay địa ngục của Kitô
giáo hay thuyết luân hồi chuyển kiếp đầu thai của đạo Phật, trong
nhận thức dân gian, thể xác và linh hồn vừa gắn bó, vừa tách biệt.
Chúng gắn bó khi sống và tách biệt khi chết, thể xác đã hòa vào
cát bụi nhưng phần hồn vẫn tồn tại chuyển sang sống ở một thế
giới khác. Cõi âm ấy cũng có mọi nhu cầu như cuộc sống dương
gian. Theo quan niệm dân gian, chết cũng là một dạng “sống”
trong một môi trường khác.
Niềm tin vào người đã khuất có mối liên hệ vô hình, đó có thể

là phù trợ hoặc cản trở, đối với những người con đang sống.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ra đời từ lâu và
được hình thành trên cơ sở niềm tin vào sự bất tử của linh hồn tổ
tiên và bắt nguồn từ ước muốn mang tính bản năng - ước muốn
trường thọ của con người. Chính con người đã thiêng liêng hoá
tình cảm thương, thái độ kính trọng người có công tạo dựng cuộc
sống. Niềm tin vào sự hiện tồn của tổ tiên góp phần cân bằng
trạng thái tâm lý, nhiều khi còn là cứu cánh, là sự giải toả nỗi cô
10


đơn, bất hạnh của con người trước cái chết. Tâm lý người Việt xuất
phát từ nhận thức “vạn vật hữu linh” - mọi vật đều có linh hồn.
Đến một thời điểm nào đó, mối quan hệ giữa cái hữu hình và cái
vô hình, nhất là cái sống và cái chết đã làm con người bận tâm, họ
tin rằng trong mỗi con người đều có phần “hồn” và “xác”. Chúng
gắn bó khi sống và tách biệt khi chết, nếu thể xác hòa vào cát bụi
thì phần hồn vẫn tồn tại chuyển sang sống ở một thế giới khác.
Cõi âm ấy cũng có mọi nhu cầu như cuộc sống dương gian. Theo
quan niệm dân gian, chết cũng là một dạng “sống” trong một môi
trường khác. Mối quan hệ giữa những người sống và những người
chết cùng chung huyết thống lại càng gắn bó hơn. Trong vòng hai,
ba đời thì đó còn là những kỷ niệm rất cụ thể và sâu sắc. Chết
không phải là hết họ vẫn sống vô hình bên cạnh con cháu. Niềm
tin vào cái chết chẳng qua là một cuộc trở về gặp tổ tiên, ông bà
và tổ tiên có thể sẽ dõi theo, phù hộ độ trì cho con cháu, đã là cơ
sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Bằng nghi lễ thờ cúng
tổ tiên, con người thể hiện một cách suy nghĩ về cái chết và cuộc
sống sau khi chết, giải toả nỗi kinh sợ khi phải đối mặt với nó.
Điều này làm cho cái chết trở nên thật nhẹ nhàng, con người

không còn quá ám ảnh bởi cái chết. Sự xa cách về thời gian và
không gian trở nên thật gần gũi… Tổ tiên cũng giống như các vị
thần linh khác có thể giáng tai hoạ xuống con cháu, vì thế cần
phải kính trọng, thờ cúng thường xuyên thì tổ tiên mới không làm
hại, mới che chở, bảo vệ, phù giúp.
b. Cơ sở về ý thức cội nguồn và lòng hiếu thảo
Bên cạnh tin vào những người đã khuất, ý thức tôn trọng cội
nguồn và đức tính hiếu thảo của người Việt cũng là cơ sở quan
11


trọng hình thành nên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên còn được bắt nguồn từ lòng hiếu thảo của con cháu.
Quan hệ giữa bố mẹ đang sống với con cái là hiện thân của mối
quan hệ giữa tổ tiên với con cháu sau này. Sự kính hiếu cha mẹ
được tiếp nối bằng sự tôn thờ, sùng bái tổ tiên. Bổn phận kính
trọng, biết ơn, báo hiếu, đền ơn công sinh thành dưỡng… dục của
bố mẹ cũng là bổn phận báo hiếu, ơn đền tổ tiên. Thờ phụng tổ
tiên là cách thể hiện lòng hiếu thảo, sự thành kính biết ơn các bậc
đã sinh thành, nuôi nấng mình. Tuy nhiên, con cháu chỉ được tổ
tiên bao dung, che chở phù hộ khi sống xứng đáng với ước nguyện
của tổ tiên, sống sao cho tốt đời, đẹp đạo. Mặt khác, con cháu chỉ
tôn kính, qui thuận và thờ phụng tổ tiên khi tổ tiên xứng đáng là
tấm gương sáng cho con cháu noi theo. Trách nhiệm được biểu
hiện không chỉ trong các hành vi sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục
truyền thống của gia đình, dòng họ, đất nước) mà còn ở trong các
hành vi cúng tế cụ thể. Từ đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần
được hình thành. Tín ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên tồn tại ở
nhiều dân tộc Đông Nam Á song nó vẫn được xem như là tín
ngưỡng đặc trưng cho người Việt về tính phổ biến của nó đối với

cộng đồng, hầu như trong mỗi gia đình người Việt đều có bàn thờ
gia tiên.
Người Việt Nam thường trọng tình nhẹ lý, cọi trọng tình cảm
và được thể hiện sâu sắc qua cuộc sống hàng ngày cũng như tín
ngưỡng của mình. Con người vừa chịu quan niệm “sống vì mồ vì
mả, ai sống vì bát cơm” mong được nhận “phúc ấm của tổ tiên”
nhưng lại lo trách nhiệm để phúc cho con cháu “đời cha ăn mặn
đời con khát nước”. Bởi vậy mà khi cúng lễ tổ tiên, một mặt con
12


người hướng về quá khứ, định hướng cho hiện tại, giáo dục truyền
thống gia đình, đạo lý làm người cho con cháu và mặt khác đã
chuẩn bị cho tương lai. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một tín
ngưỡng bình dị gắn liền với mỗi người dân đất Việt và giàu tính
thực tiễn. Bằng việc thờ cúng tổ tiên, thế hệ trước nêu gương cho
thế hệ sau không chỉ vì trách nhiệm đối với các bậc sinh thành mà
còn để giáo dục dạy dỗ con cháu lưu truyền, tiếp lửa duy trì nòi
giống. Lời cầu xin che chở, phù trợ cho cuộc sống hàng ngày của
họ được bình yên, suôn sẻ, điều đó giúp con người cảm thấy thanh
thản về mặt tâm linh, điểm tựa tinh thần quan trọng cho cuộc
sống. Có chăng chính bởi lẽ đó mà khả năng phổ biến trong không
gian và thời gian của tín ngưỡng này ngày càng rộng lớn và phát
triển
Có thể khẳng định yếu tố đóng vai trò quyết định đến việc
duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là sự tôn kính,
lòng biết ơn đối với các thế hệ đi trước, là tình yêu thương và lòng
hiếu thảo của con cháu đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ.
Dân Việt trọng lễ nghĩa, hiếu thảo với cha mẹ và có hiếu với
ông bà tổ tiên, với nguồn gốc của mình bởi:

"Cây có gốc mới nở ngành xanh ngọn
Nước có nguồn mới bể rộng nông sâu"
Xin tổ tiên phù hộ cho gia quyến bình an, đó là tâm niệm
của tất cả người Việt Nam. Trên đây là những nguồn gốc xã hội,
nhận thức và tâm lý của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Song để làm
sáng tỏ vấn đề, cần thiết phải xem xét những đặc trưng chủ yếu
nhất, tức là bản chất của nó.
13


c. Cơ sở kinh tế- xã hội
* Cơ sở kinh tế:
Xã hội cổ truyền của người Việt cũng có những cơ sở kinh tế
nhất định cho việc hình thành và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên. Trước hết đó là nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Đây
chính là môi trường thuận lợi cho sự xuất hiện tín ngưỡng đa thần.
Xét về phương diện kinh tế, làng xã Việt Nam đã gần như một đơn
vị độc lập và tương tự như thế, là tế bào của nó - hộ gia đình nhỏ.
Đây là nhân tố quan trọng gắn bó các thành viên của gia đình
cùng một thế hệ và giữa các thế hệ. Mở rộng ra, các gia đình cư
trú quần tụ theo họ, và nhiều họ tập hợp thành làng. Trước làng,
con người không tồn tại với tư cách cá nhân mà dưới danh nghĩa
gia đình dòng họ - những đơn vị huyết thống. Có thể nói nền kinh
tế tiểu nông ấy là mảnh đất thuận lợi cho việc củng cố và phát
triển ý thức dân tộc cũng như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng
xã.
Trong khía cạnh kinh tế có một điểm quan trọng tạo nên nét
khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam và Trung
Hoa. Do đặc trưng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa nên
Việt Nam sản xuất lúa nước theo truyền thống tiểu canh kết hợp

với nuôi gia súc. Vì vậy sản xuất không đòi hỏi tập trung nhân
công theo quy mô lớn như ở nơi sản xuất lúa mỳ khô, công cụ xản
xuất cũng nhỏ, gọn, nhẹ, mọi thành viên trong gia đình từ phụ nữ,
trẻ em đều sử dụng dễ dàng. Kết hợp tất yếu của quy trình này
khiến người Việt gắn bó với gia đình, thường là gia đình hạt nhân
chặt hơn với dòng họ. Hầu như gia đình nào cũng có bàn thờ tổ
14


tiên (dù thờ chính hay thờ vọng) nhưng không phải dòng họ nào
cũng có từ đường.
* Cơ sở lịch sử- xã hội:
Hình thức tổ chức xã hội cũng là yếu tố quan trọng trong việc
hình thành tín ngưỡng. Sự ra đời của chế độ thị tộc phụ hệ là kết
quả của việc công cụ sản xuất phát triển kéo theo sự phân công
lao động giữa trồng trọt, chăn nuôi và thủ công ngày càng rõ rệt.
Từ yêu cầu sản xuất đến nhu cầu lãnh thổ đã nâng địa vị của
người đàn ông lên hàng đầu. Khi trình độ sản xuất phát triển, của
cải xã hội làm ra ngày càng nhiều làm xuất hiện một lớp tích luỹ
được nhiều của cải và dẫn tới có quyền uy chi phối người khác và
là mầm mống cho sự phân chia xã hội thành giai cấp. Trong xã hội
có gia cấp, vị trí của người đàn ông trong gia đình và ngoài xã hội
ngày càng được củng cố - cơ sở đích thực trong quá trình chuyển
đổi sang việc thờ cúng tổ tiên là con người thực cùng chung dòng
máu. Cùng với sự biến đổi từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ,
trình độ sản xuất của xã hội ngày càng cao, của cải làm ra ngày
càng nhiều. Bằng uy tín của mình, những người đàn ông đã củng
cố và thiêng hóa sự thờ cúng tổ tiên. Trong xã hội có giai cấp, vị trí
của người đàn ông trong gia đình và ngoài xã hội càng được khẳng
định, tạo điều kiện cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên phát triển

mạnh. Nền kinh tế tiểu nông theo kiểu tự cung tự cấp đã tồn tại
lâu dài trong xã hội Việt Nam cũng là một cơ sở cho sự hình thành
và duy trì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Mỗi một gia đình là một cơ
sở kinh tế độc lập, sản xuất và tiêu thụ. Các thành viên trong gia
đình gắn bó chặt chẽ với nhau trong lao động sản xuất và trong
đời sống lấy gia đình là trung tâm.
15


Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ra đời và duy trì trong
những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Từ hình thức liên minh
cộng đồng nguyên thủy đến hình thức liên kết gia đình sơ khai
theo trục huyết thống nam đã là một chặng đường lịch sử khá dài.
Theo con đường “ chung tộc danh về phía bố”, các gia đình nhỏ
liên kết lại với nhau thành họ. Đây là loại đơn vị ngoại hôn vì các
thành viên trong họ liên kết với nhau bằng sợi dây huyết thống và
cùng chung một vị thủy tổ.
d. Ảnh hưởng của một số tư tưởng tôn giáo đến tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên ở Việt Nam
Không chỉ chịu tác dụng của chế độ phụ quyền, tín ngưỡng thờ
cũng tổ tiên còn chịu ảnh hưởng từ ba dòng tôn giáo chính ở Việt
Nam. Đó là:
- Nho giáo: Theo Khổng Tử, sự sống của con người không phải
do tạo hóa sinh ra càng không phải do bản thân tự tạo ra mà nhờ
cha mẹ, sự sống của cha mẹ lại gắn với ông bà và cứ như vậy thế
hệ sau kế tiếp thế hệ trước, chính bởi vậy mà thế hệ sau phải biết
ơn thế hệ trước. Cùng với tư tưởng tôn quân, quyền huynh thế phụ
đã củng cố thêm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở nước ta ngày một
thể chế hóa.
- Đạo giáo: Nếu Khổng giáo đặt nền tảng lý luận về đạo đức,

về trật tự kỉ cương xã hội cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt thì Đạo giáo đã góp phần củng cố niềm tin vào sự tồn
tại và năng lực siêu nhiên của linh hồn những người đã chết thông
qua một số nghi lễ thờ cúng như: gọi hồn, bùa chú, ma chay, tang
lễ, mồ mả và đốt vàng mã.
16


- Phật giáo: Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến sự giữ gìn và
phát triển tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt.Đó là những quan
niệm về cái chết, sự luân hồi trong cuộc đời, kiếp này, kiếp sau.
Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo có ảnh hưởng lớn lao đến sự
phát triển của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt nhưng không
phải sao chép y nguyên. Người Việt Nam quan niệm rằng cha mẹ
tổ tiên luôn lo lắng, quan tâm cho con cái ngay cả khi họ đã chết.
Người sống chăm lo đến linh hồn người chết, vong hồn người chết
sẽ quan tâm đến sự sống của người đang sống.
3. Bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Về bản chất, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không phải là một
tôn giáo. Bở mặc dù nó có những nghi lễ cụ thể nhưng không có
những tín điều, giáo lý chặt chẽ mà mỗi nơi có những biến tấu
khác nhau từ Bắc vào Nam. Mục đích cuối cùng của việc thờ cúng
tổ tiên là thể hiện sự tôn kính, thương yêu của người đang sống
đối với người đã chết và hi vọng người chết đi sẽ phù hộ, ban
phước lành cho những người trong gai đình, dòng họ. Nó mang ý
nghĩa tìm về cội nguồn.
Bản chất:
- Thờ cúng những người trong cùng dòng họ, máu mủ đã
khuất theo từng đơn vị gia đình, gia tộc
- Nó mang tính chất là một hình thái tín ngưỡng, thờ tự, cúng

lễ, cầu mong linh hồn ông bà tổ tiên phù hộ cho hiện thực cuộc
sống của con cháu
- Nó có cả khía cạnh uống nước nhớ nguồn:
“Công cha như núi Thái Sơn,
17


Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
a. Thờ cúng để lưu giữ kí ức về tổ tiên
Tổ tiên hay những người đã khuất vẫn luôn tồn tại trong ký ức
của mỗi người, bằng sự sống động, tính nồng nhiệt của cái tình
cảm mà chúng ta gọi là chữ "hiếu", biết tôn kính những người đã
cho ta sự sống và ý thức nuôi giữ ký ức về họ, truyền nối việc thờ
cúng mãi mãi cho con cháu chúng ta, bằng cách đó tạo cho ta cái
ảo tưởng, một niềm tin tốt lành không ảnh hưởng đến ai rằng họ
còn tồn tại mãi. Việc thờ cúng người chết là tôn kính ký ức về họ,
cơ sở chữ hiếu và tình cảm về sự vĩnh hằng của gia đình và nòi
giống.
b. Nhắc nhở ý thúc về cội nguồn:
“Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” là những
đạo lý tốt đẹp của cha ông ta từ xưa đến nay, việc thờ cúng tổ tiên
thành cẩn phải xuất phát từ lòng hiếu kính nhớ ân thâm nghĩa
trọng, nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người ngay từ lúc còn
thơ bé:
"Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn,
Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu.
Người ta nguồn gốc từ đâu?
Có cha có mẹ rồi sau có mình."
Trải qua biết bao thăng trầm lịch, Việt Nam đã chứng kiến biết
bao sự đổi thay mạnh mẽ trong quá trình giao lưu văn hóa, tín

ngưỡng nhưng với phẩm chất ứng phó linh hoạt, mềm dẻo trong
phẩm chất cong người, ta đã hội nhập với văn hóa thế giới một
18


cách tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo, Việt Nam vẫn giữ được những
nét văn hóa độc đáo- bản sắc văn hóa dân tộc, điển hình chính là
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Có thể nói, thờ cúng tổ tiên là một tín
ngưỡng truyền thống của dân tộc, thể hiện đạo lý uống nước nhớ
nguồn của người dân Việt.

Tín ngưỡng này đã trở thành một

chuẩn mực đạo đức và nguyên tắc làm người, mang ý nghĩa lớn về
mặt tổ chức cộng đồng trong xã hội truyền thống, củng cố khối
đoàn kết cộng đồng. Thờ cúng tổ tiên, ông bà đã trở thành tín
ngưỡng gốc xuyên suốt quá trình lịch sử Việt Nam, nó là sợi dây
liên kết tình đoàn kết và là cội nguồn của những tín ngưỡng khác.
4. Các biểu hiện của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Có lẽ, không nhất thiết phải là mâm cao cỗ đầy, chỉ cần một
nén nhang lên bàn thờ tổ tiên trong ngày lễ, ngày rằm, ngày
mồng một ngày Tết, hay ngày giỗ tổ tiên đã thể hiện được tấm
lòng thành kính, hướng về cội nguồn, tưởng nhớ những người thân
đã khuất của cong cháu trong gia đình . Từ lâu, thờ cúng tổ tiên
ông bà đã trở thành một tín ngưỡng, là một phần không thể thiếu
trong đời sống tâm linh của người Việt Nam. Người Việt yêu nghĩa
nhân, hiếu thảo với cha mẹ và có hiếu với ông bà tổ tiên. Tín
ngưỡng ấy được thể hiện qua một số biểu hiện sau:
a. Bàn thờ gia tiên trong mỗi gia đình
Trong mỗi gia đình, bàn thờ cúng tổ tiên được đặt ở vị trí trang

trọng nhất- thường là những nơi cao nhất, trang trọng nhất trong
nhà. Việc bài trí bàn thờ gia tiên thường không giống nhau, phụ
thuộc vào quan niệm tâm linh và cả điều kiện kinh tế của gia đình,
nhưng hầu hết đều có: bài vị, bát hương, đĩa đèn, bình hoa, chén
19


rượu, mâm đựng hoa quả… Và bàn thờ tổ tiên cũng trở thành nơi
con cháu khấn vái trong những ngày tuần, ngày giỗ, ngày Tết,
hoặc khi có hiếu hỷ, việc to, việc nhỏ với mong muốn được gia tiên
phù hộ. Mọi biến cố trong gia đình đều được gia chủ báo cáo với
gia tiên.
b. Thờ cúng
Thờ cúng tổ tiên tại gia đình được tiến hành quanh năm.
Không chỉ cúng lễ vào các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp,
cưới xin…, không chỉ trong những ngày lễ tiết như Tết nguyên
đán, Thanh minh, Hàn thực, Đoan ngọ…, ngày mồng một, ngày
rằm theo chu kỳ trăng, mà các vị tổ tiên còn được con cháu kính
cáo mọi chuyện kể cả vui lẫn buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ
đạt, dựng vợ gả chồng… Con cháu còn kính mời các vị về hưởng
thụ hoa trái đầu mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc. Người Việt
dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù
hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công. Tổ tiên thì che chở, dẫn
dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi
dương và cõi âm.
Sau khi đặt đồ lễ lên bàn thờ, gia trưởng (có thể là chủ hộ
hoặc con trưởng nam hoặc cháu đích tôn...) khăn áo chỉnh tề, thắp
hương, đứng trước bàn thờ, vái 3 vái và khấn. Hương thắp trên
bàn thờ bao giờ cũng thắp theo số lẻ: một, ba, năm nén. Sau khi
gia trưởng khấn lễ, lần lượt đến mọi người trong gia đình vái trước

bàn thờ. Trước khi khấn, vái ba vái ngắn, khấn xong vái thêm bốn
vái dài và ba vái ngắn. Khi mọi người đã lễ vái xong, chờ cho tàn
một tuần nhang, gia trưởng tới trước bàn thờ lễ tạ và thắp thêm
tuần nhang nữa. Sau đó, gia trưởng hạ vàng mã trên bàn thờ đem
20


hoá vàng. Lúc hoá vàng người ta thường lấy chén rượu cúng vẩy
lên đống tàn vàng, có như vậy người dưới âm mới nhận được số
vàng người sống cúng. Lúc này có thể hạ đồ lễ xuống.
Thông qua nghi lễ thờ cúng thể hiện đạo lý "Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây" hay "Cây có gốc mới nở cành xanh ngọn, nước có
nguồn mới bể rộng sông sâu". Chữ "hiếu" là cái gốc của mỗi con
người. Công cha, nghĩa mẹ như núi cao, nước nguồn cho nên phải
hiếu thảo với cha, mẹ khi còn sống, thành kính, biết ơn, tiếc
thương khi cha, mẹ về với tổ tiên. Lòng hiếu thảo là giá trị đạo đức
quý báu, thiêng liêng cao đẹp trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Việt Nam.
c. Tang ma, giỗ, tảo mộ (thanh minh), chăm nom mộ tổ tiên
Lễ thức trong tang ma được coi là lễ thức quan trọng bậc
nhất để đưa ông bà, cha mẹ vừa mất về gặp tổ tiên và gia nhập
vào hàng các vị tổ tiên (những người vừa mới mất được lập bàn
thờ riêng cho tới khi giỗ hết, cải táng sạch sẽ mới được phép thờ
chung với tổ tiên. Sau lễ tang ma, lễ giỗ là nghi thức rất được chú
trọng trong tâm lý người Việt. Vì kính trọng tổ tiên, người Việt coi
việc tang ma là trọng sự, gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên.
Thời gian cúng giỗ là những ngày húy kỵ của tổ tiên được
tính theo lịch âm. Trong các ngày giỗ có ba ngày chú ý nhất: tiểu
tường (giỗ đầu), đại tường (giỗ hết), trừ phục (lễ cởi bỏ đồ tang).
Các ngày giỗ thường kỳ trong các năm sau được coi là cát kỵ (giỗ

lành). Trong ngày giỗ, người ta làm cỗ bàn mời thân bằng cố hữu
quen thuộc. Ở làng quê nông thôn, ngày giỗ là dịp để người ta mời
lại những người đã từng mời mình đi ăn uống, người ta gọi là trả
21


nợ miệng. Giỗ có thể làm to hoặc làm nhỏ tuỳ theo gia cảnh và
nhiều khi lại tuỳ thuộc vào mối liên hệ giữa người sống và người
chết. Theo phong tục, con trai trưởng là người có trách nhiệm tổ
chức hoặc cháu đích tôn tổ chức (chỉ khi nào trưởng nam không
may tuyệt tự, không có con trai nối dõi thì mới đến con thứ).
Nhưng không vì thế mà những người con thứ, cháu thứ, cháu
ngoại bỏ ngày giỗ ông bà, cha mẹ. Đến ngày giỗ, con cháu phải tề
tựu đông đủ, mang đồ lễ cúng tới để gửi giỗ. Trước ngày giỗ,
trưởng nam làm lễ cáo với Thổ công để xin phép với Thổ công cho
hương hồn người đã khuất được về phối hưởng bởi vì người ta cho
rằng "đất có Thổ công, sông có Hà bá", chỉ khi có phép của Thổ
công hương hồn người đã khuất mới vào được trong nhà. Đồ lễ
cúng trong giỗ đầu và giỗ hết phải chuẩn bị rất chu đáo. Theo quy
định xưa, vào ngày giỗ đầu, trang phục tang lễ mũ gậy, áo xô lại
được con cháu mang ra mặc. Đồ mã được gửi cho người chết cũng
theo quy định: ở lễ tiểu đường đó là “mã biếu” vì người chết phải
sử dụng để biếu các ác thần mong tránh sự quấy nhiễu (dân gian
quan niệm cõi âm như cõi trần), ở lễ Đại tường và lễ Trừ phục (một
ngày tốt được chọn sau lễ Đại tường để đốt bỏ tang phục) đồ mã
còn cần nhiều hơn: mọi vật dụng sinh hoạt cho người chết (quần
áo, giầy dép, xe cộ), thậm chí cả các hình nhân bằng giấy để
xuống cõi âm phục vụ cho họ. Sau khi hóa (đốt) những đồ mã này,
đổ một chén rượu lên đống tàn vàng để vật mã trở thành vật thật,
tiền thật dưới cõi âm. Người ta còn hơ một chiếc đòn gánh, gậy

trên ngọn lửa hóa vàng, hoặc dựng một cây mía bên cạnh với lời
giải thích “để các cụ gánh vác về”.

22


Bên cạnh cúng giỗ theo gia đình, Gia tộc cũng có những qui
định tín ngưỡng cho việc thờ cúng Thủy tổ dòng họ. Mặc dù đã
qua nhiều đời nhưng ngày giỗ họ vẫn được lưu truyền nhờ việc ghi
chép gia phả. Trong ngày giỗ Thủy tổ, tất cả con cháu trưởng các
chi, ngành, nhánh buộc phải có mặt. Các con cháu khác tùy vào
hoàn cảnh mà mang đồ tới góp giỗ. Lễ giỗ Tổ được tổ chức chu
đáo và duy trì đều đặn hàng năm.
Bên cạnh các nghi lễ cúng tế trong gia đình và gia tộc còn
phải kể thêm vào hệ thống nghi thức tế lễ tổ tiên một hình thức
Tảo mộ. Cứ vào dịp tháng ba âm lịch hàng năm, con cháu trong
nhà sẽ đi thăm mộ, cúng tế sửa sang mồ mả hay còn gọi đó là Tết
Thanh minh. Việc cúng tế tại mộ thường diễn ra đơn giản hơn
nhiều so với cúng tại nhà, nhưng trước khi cúng trước mộ người
thân người ta phải khấn cáo xin phép thổ công. Thăm nom sang
sửa mồ mả tổ tiên, một mặt là hình thức thể hiện lòng hiếu thảo
của con cháu, mặt khác bởi quan niệm mồ mả vô cùng quan trọng
đối với cuộc sống của cả gia đình, gia tộc. Người Việt cho rằng,
nếu vị trí đặt mồ mả không tốt, hướng không đúng thì con cháu
làm ăn sẽ lụi bại, không thể nào phát triển được.
d. Đồ cúng.
Đồ lễ dâng cúng gia tiên bao giờ cũng phải thanh khiết,
không con cháu nào được động tới. Cỗ bàn nấu xong, cúng gia
tiên trước con cháu mới được ăn sau. Khách tới ăn giỗ có mang đồ
lễ để cúng, thường là vàng hương, trầu rượu, trà nến, hoa

quả. Trong mâm cơm cúng, con gà cúng phải to, tròn, chắc nịch,
có đôi chân đẹp và được bày biện cẩn thận. Mâm cơm cúng cũng
phải đủ món luộc, xào, canh, miến, cùng với bình rượu, li nước, lọ
23


hoa, trầu cau, bánh kẹo và mâm ngũ quả để mời ông bà về ăn.
Tiền âm, vàng mã cũng phải được chuẩn bị chu đáo để ông bà có
hành trang, lộ phí để lên đường. Lễ vật dâng cúng trong lễ tạ năm
mới gồm: Nhang, hoa, ngũ quả, trầu cau, rượu, đèn nến, bánh
kẹo, mâm lễ mặn hoặc chay cùng các món ăn đầy đủ, tinh khiết.
Có cây mía để các cụ gánh hàng hóa về trời. Sau khi lễ xong, hóa
vàng phải hóa riêng phần tiền vàng cho Gia Thần trước, sau đó
đến Gia tiên (Tức ông bà cụ kỵ). Lễ hóa vàng, người ta thường đốt
các loại vàng mã như giấy vàng, giấy bạc, vàng thoi tiền… cùng
quần áo, giày dép, nhà cửa, xe… Sau khi đốt, người ta thường vẩy
một chén rượu cúng vào đống tro vàng mã để đồ cúng được
chuyển đến đúng người nhận. Một số nhà còn hơ các cây mía trên
ngọn lửa hóa vàng để người dưới âm có gậy chống. Lễ hóa vàng
được người Việt Nam rất chú trọng. Tùy theo hoàn cảnh mỗi gia
đình mà cách chuẩn bị khác nhau. Đó được gọi là lễ tạ gia tiên gia
thần và chư vị thánh thần, phật. Theo quan niệm dân gian, có lễ
tạ thì tấm lòng của chủ nhà mới được người âm chứng giám.
III. Vai trò của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong bối
cảnh hiện nay
1. Vai trò của tín ngưỡng tổ tiên trong bối cảnh hiện
nay
Thờ cúng tổ tiên là biểu hiện của đạo lý làm người, là nhu cầu
hướng về cội nguồn của gia đình và dân tộc, đạo lý " uống nước
nhớ nguồn". Với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, chữ hiếu không chỉ

dừng lại ý thức, giáo dục đạo đức mà dần dần đã trở thành những
khuôn mẫu thường xuyên nhắc nhở con cháu phải có trách nhiệm
với quá khứ, hiện tại và tương lai. Tín ngưỡng này còn góp phần
24


duy trì mối quan hệ vô hình nhưng bền chặt giữa quá khứ với hiện
tại, giữa những người đang tồn tại ở dương gian vói những ngừơi
đã “khuất núi”. Khi vui, khi buồn con cháu thường thắp nén nhang
với chén nước trắng đạm bạc, mời ông bà tổ tiên về để giãi bày
gia sự, để chứng giám, nhằm chia vui, cộng khổ. Đôi khi đó chỉ là
đĩa xôi, miếng thịt, trước cúng sau ăn, nhưng điều đó giúp người ta
vẫn cảm thấy yên tâm, thanh thản hơn khi cầu mong có sự phù hộ
độ trì của tổ tiên. Có thể nói thờ cúng tổ tiên là nét đẹp của văn
hoá. Điều này đã được thủ tướng Phạm Văn Đồng ghi nhận: “Từ xa
xưa dân tộc Việt Nam ta không có tôn giáo theo nghĩa thông
thường của nhiều nước khác. Còn nói tôn giáo là thờ cúng thì mọi
người đều thờ cũng ông bà, mọi họ đều Thờ cúng tổ tiên... Từ góc
độ văn hoá, tôi thấy đây là một đặc trưng đáng trọng của người
Việt Nam, ở chỗ nó là sự tưởng nhớ những người có công trong
việc tạo lập cuộc sống ngày nay trong mỗi gia đình và làng xóm”.
Tưởng nhớ đến tổ tiên không chỉ là hoài niệm về quá khứ, mà chủ
yếu là noi gương cha ông để sống đẹp đẽ sao cho không phải hổ
thẹn với tổ tiên.
Trong quá hình thành, tồn tại và phát triển của mình tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã góp phần tạo dựng những giá trị
truyền thống, như: lòng hiếu thảo, đức nhân ái, tính cần cù, ý thức
cộng đồng, ham học tập, yêu quê hương, đất nước... tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên như đã khái quát trên có thể nói là vĩnh hằng
cùng với sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Trong đó yêu nước là

giá trị đạo đức hàng đầu trong hệ thống đạo đức truyền thống của
dân tộc Việt Nam. Đó là những giá trị hết sức quý báu cần được
bảo lưu, kế thừa, nghiên cứu, khai thác và phát huy để phục vụ
25


×