Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

TIỂU LUẬN MÔN CƠ SỞ VĂN HÓA VỀ ÁO DÀI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 49 trang )

MƠN HỌC: CƠ SỞ VĂN HĨA VIỆT NAM

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
TÌM HIỂU TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG VIỆT NAM:
ÁO DÀI

1


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
………………………………………………………
………………………………………………………
………………………………………………………
………………………………………………………
………………………………………………………
………………………………………………………
………………………………………………………
………………………………………………………
………………………………………………………
………………………………………………………
………………………………………………………
………………………………………………………
………………………………………………………
………………………………………………………

Điểm:……………………
KÝ TÊN
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu...................................................................................1
Phần nội dung.................................................................................2




CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ SỰ TÍCH VỀ
CHIẾC ÁO DÀI.............................................................................2
1.1.

Nguồn gốc lịch sử của Áo dài........................................................2

1.2.

Lịch sử hình thành.........................................................................5

1.3.

Sự hình thành...............................................................................14

1.4.

Các kiểu Áo dài............................................................................22
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN VÀ SỰ CÁCH TÂN CỦA ÁO
DÀI QUA TỪNG GIAI ĐOẠN...................................................34
2.1.

Sự phát triển của Áo dài...............................................38

2.2.

Sức hấp dẫn của Áo ......................................................40

2.3.


Những nét mới và sự cách tân của Áo dài...................20

KẾT LUẬN VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO


Phần mở đầu
Trang phục là một trong ba yêu cầu của đời sống vật chất (ăn, mặc, ở), đây là
sản phẩm văn hố sớm nhất của xã hội lồi người. Theo thời gian, trang phục
cũng thay đổi theo quá trình phát triển của lịch sử. Đối với mỗi một quốc gia,
trang phục cũng trở thành một yếu tố quan trọng tạo nên nét đẹp văn hóa
riêng biệt qua từng thời kỳ, mang tính đậm đà và vẻ đẹp của mỗi dân tộc. Là
người Việt Nam, khi nhắc tới tới chiếc áo dài Việt Nam là ta hình dung ra
ngay một nét đẹp về trang phục truyền thống của người Việt từ thời xa xưa.
Bộ trang phục này thường được mặc trong các dịp trọng đại vì nó mang vẻ
đẹp thướt tha, trang nghiêm, thùy mị,… Và hơn nữa trang phục áo dài cả nam
và nữ đều có thể mặc được, nó ngày càng trở nên phổ biến và trở thành nét
đẹp về thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.
Là sinh viên năm nhất và với mong muốn được tiếp thu, học hỏi và lĩnh hội
những nét đẹp trong văn hóa của cuộc sống, muốn được tìm hiểu sâu về
những nét đẹp về trang phục của đất nước mình.
Chính vì những lý do trên, em quyết định chọn đề tài: “Tìm hiểu trang phục
truyền thống Việt Nam” và cụ thể là “Áo dài”.

4


Phần nội dung
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ SỰ TÍCH VỀ
CHIẾC ÁO DÀI

1.1.

Nguồn gốc lịch sử của Áo dài.
Biểu trưng mạnh mẽ cho dân tộc Việt Nam của tà áo dài. Trải qua nhiều
thăng trầm, chiếc áo dài trở thành một hình ảnh gắn liền và là niềm tự hào của
người Việt. Để có được vị trí như hơm nay, áo dài cũng đã trải qua một bề dày
lịch sử với nhiều mốc đáng nhớ.
Mọi người dân Việt Nam đều biết áo dài là trang phục truyền thống của
quốc gia mình. Nhưng nếu hỏi về nguồn gốc của áo dài thì có lẽ khơng phải ai
cũng biết và hiểu sâu sắc. Trước tiên ta phải tìm hiểu về tên “áo dài”. Nếu
theo giọng Nam, áo dài sẽ được đọc là “ Ao yai”, cịn ở miền Bắc thì được
đọc là “ ao Zai”. Đối với người dân Việt Nam cái tên “Áo dài” đã trở nên thân
thuộc từ lâu.
Thật ra cho đến nay vẫn chưa ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thuỷ ra đời
từ lúc nào và hình dáng ra sao vì khơng có nhiều tài liệu ghi nhận. Y phục xa
xưa nhất của người Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng
Ngọc Lũ cách đây khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang
phục với hai tà áo xẻ. Sử gia Đào Duy Anh đã viết: “ Theo sách sử ký chép thì
người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên của chúng ta, mặc áo dài về bên tả ( hình
thức tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân
quận Cửu Chân dung kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đỏ
chép thì ta có thể suy luận rằng trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về
tay trái, mà sau bắt chiếc người Trung Quốc mới mặc gài về tay phải. Vì thế
5
có thể coi kiểu sơ khai của áo dài xưa nhất
là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ


thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà khơng buộc lại, áo
mặc phủ ngồi yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng màu buông thả.

Không thể xác định niên đại chính xác của áo dài, bởi ngay tà áo được
coi là quốc phục của người Việt cũng phải trải qua nhiều thăng trầm của lịch
sử, thời gian, du nhập nhiều nền văn hóa qua nhiều giai đoạn mới có ngày
hơm nay. Tuy nhiên, ngay trên những tranh khắc của Trống đồng Ngọc Lũ
cách đây vài nghìn năm đã thấy thấp thống bóng dáng của tà áo dài, tranh
khắc trang phục của phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ.

6

Hình 1


Tại sao nói trang phục với hai tà áo xẻ lại là bóng dáng của áo dài, vì nét
đặc trưng mạnh mẽ nhất của áo dài chính là hai tà áo. Cho dù trải qua bao
nhiêu ngàn năm với bao nhiêu biến thể, nét duy nhất còn nhận ra được trang
phục truyền thống của người Việt không bị lai tạp với các nền văn hóa khác
chính là hai tà áo dài.Có nhiều người cho rằng áo dài Việt là một bản khác của
sườn xám của phụ nữ Trung Quốc, nhưng chiếc sườn xám chỉ xuất hiện vào
khoảng 1920, còn tà áo dài Việt đã có từ rất lâu trước đó. Điều đó chứng tỏ áo
dài là một nét văn hóa của riêng Việt Nam, chỉ người Việt mới có. Và khi nói
đến khía cạnh thẩm mỹ, văn hóa và trang phục truyền thống của người Việt
Nam, người ta thường nghĩ ngay đến tà áo dài và chiếc nón lá, thật vậy, trải
qua từng thời kỳ, từng giai đoạn cùng với những diễn biến của quá trình phát
triển lịch sử, tà áo dài Việt Nam tồn tại cùng với thời gian, được xem là trang
phục truyền thống mang tính lịch sử lâu đời của người Việt.
Vua chúa ngày xưa vì quyền lợi giai cấp và huyết thống, họ đã có những
chủ trương phản truyền thống, phản dân tộc và đã bị quần chúng đấu tranh
loại bỏ. "Quần hai ống" và "áo dài" của phụ nữ Việt Nam tuy xuất phát cùng ở
trong mục đích ấy, nhưng may thay, nó đã thừa kế được cái đẹp của phụ nữ
phương Bắc cũng như phương Nam, phù hợp với dáng người Việt Nam, nên

nó đã được chấp nhận và trở nên một tài sản văn ohoa1 của người phụ nữ Việt
Nam.

7


1.2.

Lịch sử hình thành.
Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo
tứ thân nhưng khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà khơng buộc lại. Áo
mặc phủ ngồi yếm lót, váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các
cơ búi tóc trên đỉnh đầu hoặc quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau
bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn, đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa
đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì phải làm việc đồng áng hoặc
bn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn
vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau
trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng
gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ.
Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù
bươn chải, gánh gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn,
muốn có một kiểu áo dài được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao
động và gia tăng dáng dấp trang trọng khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với
biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu bé lại trở thành vạt con; thêm
một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Áo ngũ thân che kín thân hình
khơng để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi thành bốn) tượng
trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ
năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có
bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ
thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương.


8


1.2.1.

Thời chúa Nguyễn Phúc Khốt

Hình 2
Vũ Vương Nguyễn Phúc Khốt được xem là người có cơng khai sáng và
định hình chiếc áo dài Việt Nam.Chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa Trung
Hoa, cho đến thế kỷ 16 lối ăn mặc của người Việt Nam vẫn thường hay bắt
chước lối của người phương Bắc, đặc biệt dưới thời các chúa Nguyễn xứ
Đàng Trong do nhu cầu khai phá khẩn hoang, đón nhận hàng vạn người Minh
Hương (còn gọi là người Khách Trú hay đọc trại thành "cắc chú") bất mãn với
nhà Thanh sang định cư lập nghiệp, mặc dù người Việt cũng có lối ăn mặc
riêng. Trước làn sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ
Vương Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân
chúng xứ Đàng Trong phải theo đó thi hành. Trong sắc dụ đó, người ta thấy
lần đầu tiên sự định hình cơ bản của chiếc áo dài Việt Nam, như sau: "Thường
phục thì đàn ơng, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc
hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, khơng được xẻ
mở. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm
việc thì được phép ..." (sách Đại Nam9Thực Lục Tiền Biên). Trong Phủ Biên
Tạp Lục, Lê Quý Đơn viết "Chúa Nguyễn Phúc Khốt đã viết những trang sử
đầu cho chiếc áo dài như vậy".


Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng định chiếc áo dài với
hình thức cố định đã ra đời và chính thức được cơng nhận là quốc phục dưới

triều chúa Nguyễn Vũ Vương (1739-1765). Vào thời này, các văn bản tại Việt
Nam dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm, áo dài viết bằng chữ Nôm là 襖襖.
Một vài tài liệu quy kết việc ra đời của chiếc áo dài quốc phục là do
những tham vọng riêng tư của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do muốn xưng
vương và tách rời Đàng Trong thành quốc gia riêng, nên ban sắc dụ về ăn mặc
như trên cho khác đi, không phải với người khách trú mà với Bắc triều (trong
quy định này đã có cả chỉ thị phụ nữ phải mặc quần hai ống). Sau thấy quần
hai ống khêu gợi quá, Vương mới giao cho triều thần pha phối từ mẫu áo dài
của người Chăm (giống như áo dài phụ nữ Việt Nam ngày nay, nhưng không
xẻ nách) và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (chiếc sườn xám) để "chế" ra cái
áo dài của phụ nữ Việt Nam. Chiếc áo dài đầu tiên giống như áo dài người
Chàm và có xẻ nách. Thật ra chiếc sườn xám cũng chỉ ra đời quãng thập niên
1930, và quan điểm trên quá thiên nặng về tính chống phong kiến nên vơ hình
chung đề cao vai trò của Vũ Vương như là "nhà thiết kế áo dài hiện đại đầu
tiên".
1.2.2.

Thời vua Minh Mạng.
Cho đến thế kỷ 17 truyền thống mặc váy vẫn tồn tại ở Việt Nam như đã
ghi trong sách Lê Triều Thiên Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm
1665 với sắc lệnh nhắc nhở: "... áo đàn bà con gái khơng có thắt lưng, quần
khơng có hai ống từ xưa đến nay vốn đã có cổ tục như thế...". Vậy có thể nói
rằng bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (1802-1819). Sở
dĩ có sự ước đốn này, vì mặc áo ngũ thân thì phải mặc quần chớ không thể
mặc váy. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn
bà mặc váy và bắt phải mặc quần hai10ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca
dao than vãn:


Tháng Tám có chiếu vua ra.

Cấm quần khơng đáy, người ta hãi hùng!
1.2.3.

Áo dài kiểu mới.
Hình 3: Các bộ phận của một chiếc áo dài kiểu mới
Năm 1947 trong bối cảnh Việt Nam mới tuyên bố độc lập và các phong
trào "diệt giặc đói, giặc dốt" đang được phát động, nhằm phát động phong

trào tiết kiệm, ngày 20 tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh, với bút hiệu Tân
Sinh, đã viết một cách vắn tắt rõ ràng và dễ hiểu bài "Đời sống mới" trong đó
vận động người dân bỏ thói quen mặc áo dài để thay bằng áo vắn vì mặc áo
dài đi đứng, làm việc bất tiện, lượt thượt, luộm thuộm. Áo dài tốn vải, khoảng
hai cái áo dài may được ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được
200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới.
Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài khơng cịn là
trang phục thơng dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài ở miền
bắc vĩ tuyến 17.
1.2.4.

Áo dài Le Mur.

11


Hình 4
"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường, một họa sĩ
vào thập niên 1930 đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân
để biến nó chỉ cịn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối

dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân

trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ
yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước
được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên
sườn. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho
là "lai căng" thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở.
Thêm nữa áo Le Mur mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày
cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Lối tân thời này đã bị
một số dư luận khi đó tẩy chay và cho là "đĩ thõa" (như được phản ảnh không
hề thiện cảm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng).
Theo tài liệu thu thập được thì hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường là người đầu
tiên đã cải tiến chiếc áo dài cho phụ nữ Việt Nam. Ông sinh năm 1912 tại Sơn
Tây. Năm 17 tuổi, ông trúng tuyển vào trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội và
tốt nghiệp vào năm 1934.

12


Ông là người đã đóng góp rất nhiều trong việc sáng chế các kiểu quần áo
cho phụ nữ Việt Nam. Vào đầu thập niên 1930, chiếc áo dài thuần tuý của
Việt Nam bắt đầu thay đổi, giới phụ nữ bắt đầu mặc áo mầu và năm 1934, hoạ
sĩ Cát Tường đã tung ra một loạt các loại mẫu áo dài tân thời trong tập san
Đẹp 1934 và báo Phong Hoá thời bấy giờ, dưới cái tên “Lemur”.
Sau đó, ơng tiếp tục thiết kế nhiều mẫu áo dài cho phụ nữ, nữ sinh và áo
ngắn mặc trong nhà. Ngoài chuyện cải tiến áo dài cho phụ nữ, và đóng góp
vào việc thiết kế các kiểu y phục thích hợp với thân hình, lại làm tăng vẻ đẹp
của phái nữ, hoạ sĩ Cát Tường cịn cải tiến và mỹ thuật hố chiếc xích lơ đạp
thời bấy giờ và được dân chúng ủng hộ nhiệt tình.
Tiếc thay, vào ngày 17 tháng 12 năm 1946, ông bị dân quân bắt tại Hà
Nội và đưa đi biệt tích.Mặc dù họa sĩ đã ra đi một cách bất ngờ gần 75 năm
trước, nhưng bóng dáng của chiếc áo dài mà hoạ sĩ tài ba Cát Tường thiết kế

vẫn tiếp tục xuất hiện tại Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới. Tà áo dài tha
thướt, nhã nhặn, kín đáo và duyên dáng làm tăng thêm vẻ đẹp của người phụ
nữ Việt Nam, và là niềm hãnh diện cho người Việt.

1.2.5.

Áo dài Lê Phổ
13


Hình 5

Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi
của áo Le Mur, đồng thời đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân
vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ơm sát thân người, trong khi hai vạt
dưới được tự do bay lượn. Sự dung hợp này quá hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới
và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đây áo dài Việt
Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó, và từ bấy đến nay dù trải bao
thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn
giữ nguyên.

14
1.2.6.

Áo dài với tay giác lăng.


Hình 6
Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo
dài với cách ráp tay raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn

đề khó khăn nhất khi may áo dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên
nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ
xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay raglan làn
vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến
chiếc áo dài ơm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm
tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết kế.

15
1.2.7.

Áo dài Miniraglan.


Hình 7: Nữ sinh mặc áo dài đến trường
Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản này, áo
dài tay raglan có tà chỉ dài tới gối, nhưng hai ống quần rộng lòa xòa phủ kín
đơi chân. Hai đặc điểm này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ
thương.
1.2.8.

Áo dài cổ truyền.
Hình 8

Cuối năm 1958 khi bà Trần Lệ Xuân còn tại vị Đệ Nhất Phu Nhân của
nước Việt Nam Cộng Hoà, bà đã thiết
16 kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ đi
phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền, cổ hở, cổ khoét, dân gian gọi là áo dài
Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu. Không chỉ lạ về mẫu áo, chiếc áo dài hở cổ



cịn được ‘phá cách’ với họa tiết trang trí trên áo: nhành trúc mọc ngược. Một
số nhà phê bình phương tây cho rằng nó hợp lý với thời tiết nhiệt đới của
miền nam Việt Nam. Nhưng kiểu áo này khiến những người theo cổ học tức
giận và lên án nó không hợp với thuần phong mỹ tục. Loại áo dài khơng có cổ
này vẫn phổ biến đến ngày nay và phần cổ được kht sâu cho trịn chứ khơng
ngắn như bản gốc.

1.3.

Sự hình thành.

1.3.1.

Một biểu tượng của Việt Nam.

Hình 9: Áo dài nam, nữ truyền thống và khăn, trong đám cưới
Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài
Việt Nam vừa truyền thống lại cũng 17
vừa hiện đại. Trang phục dành cho nữ
này không bị giới hạn chỉ mặc tại một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi nơi,
dùng làm trang phục cơng sở, đồng phục đi học, mặc đi chơi hay mặc để tiếp


khách một cách trang trọng ở nhà. Việc mặc loại trang phục này không hề
rườm rà hay cầu kỳ, những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với một quần lụa hay
vải mềm, dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được; nếu cần trang trọng
(như trang phục cô dâu) thì thêm áo chồng và chiếc khăn đóng truyền thống
đội đầu, hoặc một chiếc miện Tây phương tùy thích. Đây chính là điểm đặc
biệt của thứ trang phục truyền thống này.
Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tơn đẹp mọi thân hình. Phần trên

ơm sát thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng. Hai tà
xẻ chí trên vịng eo khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng
thướt tha, tôn vẻ nữ tính, vừa kín kẽ vì tồn thân được bao bọc bởi lụa mềm,
lại cũng vừa khiêu gợi vì chiếc áo làm lộ ra sống eo.
Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ may
riêng cho một người, dành cho riêng người đó; khơng thể có một cơng nghệ
"sản xuất đại trà" cho chiếc áo dài. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi
may xong phải qua một lần mặc thử để sửa nhỏ nữa mới hoàn thiện.

1.3.2.

Trong thơ ca và hội họa.

18


Hình 10: Áo dài màu trắng

Hình11: Áo dài màu
Áo dài màu đỏ (thường là áo dài dùng trong lễ cưới, lễ ăn hỏi của người
Việt). Hình ảnh phụ nữ/con gái Việt Nam với chiếc áo dài truyền thống đã
được nhiều nhà nghệ sĩ ghi lại, nổi bật nhất là trong thơ và nhạc. Bài thơ nổi
tiếng về chiếc áo dài có thể kể là "Áo lụa Hà Đơng" của Ngun Sa, bài này
được phổ nhạc thành một bài hát nổi tiếng và là cảm hứng cho một bộ phim
điện ảnh cùng tên, với những câu:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đơng...
"Ngày xưa Hoàng Thị" của thi sĩ Phạm Thiên Thư kể về chuyện tình
thuở học sinh với cơ gái họ Hồng, cơ xuất hiện trong bài với những nét phác
họa:


19

Áo tà nguyệt bạch


Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài".
Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc bài này cũng không quên làm nổi bật hình
ảnh áo dài khi sửa thành:
Ơm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay...
Áo dài cũng in đậm nét trong những vần thơ nghịch ngợm của Nguyễn
Tất Nhiên:
Tháng giêng em bikili
Tỉnh lỵ còn nguyên nét Việt Nam
Đài các chân ngà ai bước khẽ
Nguyện theo tà lụa cả phương Đông
(Tháng giêng, chim)
Đưa em về dưới mưa
áo dài sầu hai vạt
khi chấm bùn lưa thưa...
(Em hiền như Ma-soeur)
Trong thơ Bùi Giáng, màu áo dài của ký ức được nâng lên thành huyền
thoại:
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh
20

(Áo xanh)


Và có lẽ trong những vần thơ rất dung dị sau đây của Huy Cận cũng có
hình bóng của chiếc áo dài trắng nữ sinh:


Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lịng
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng
(Áo trắng).

Hình 12: Tranh Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân
Bức tranh "Thiếu nữ bên hoa huệ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân sáng tác
năm 1943, là một trong những tác phẩm hội họa hiện đại Việt Nam đầu tiên
và nổi tiếng bậc nhất, miêu tả một cô gái mặc áo dài trắng ngồi bên một bình
hoa huệ tây (hoa loa kèn).
Chiếc áo dài cũng phảng phất hay xuất hiện nhiều trong các ca khúc
Việt Nam. Trong nhạc Trịnh Cơng Sơn có thể nhìn thấy khá nhiều. Theo hồi
ký, chính những bước chân hồng cung của những nữ sinh áo tím Huế đã làm
cho nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài "Diễm xưa" nổi tiếng. Hay trong bài "Hạ
trắng", hình ảnh áo dài cũng chập chờn:

21

Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay...


(Hạ trắng)
"Bé ca" của Phạm Duy viết cho con gái mới lớn, có bài "Tuổi ngọc" tả
về niềm hân hoan của cô bé khi bước chân vào trung học, lần đầu khốc lên
mình "một chiếc áo như mây hồng":

Xin cho em một chiếc áo dài, cho em đi mua xuân tới
rồi
Mặc vào đời rồi ra, mừng lạy chào mẹ cha
Hàng lụa là thơm dáng tuổi thơ
Phạm Duy cũng không quên nhắc về chiếc áo này trong một giấc mơ
hịa bình từ thập niên 1940: “Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên
lề cuộc đời, áo dài đùa trong nắng cười... “ (Quê nghèo)
Bài "Một thoáng quê hương" của Từ Huy nổi tiếng một thời với câu:
Tà áo em... bay, bay, bay, bay... trong gió nhẹ nhàng...
Nhạc sĩ Sỹ Luân cũng có bài "Áo dài ơi" vui tươi :
Có chiếc áo dài tung tăng trên đường phố
Những lúc buồn vui vu vơ nào đó
Ánh mắt hồn nhiên vơ tư dễ thương á hà…...
...Áo dài vui áo dài hát bao nắng xuân đang về khắp nơi
Áo dài nói áo dài cười mang hạnh phúc đến cho mọi
người
Áo dài vui vui áo dài hát hát bao nắng xuân đang về
khắp nơi

22

Áo dài nói nói áo dài cười cười mang hạnh phúc đến
cho mọi người


Nhạc sĩ Huỳnh Nhật Tân với bài "Cô gái Việt Nam":
Em, cô gái kiêu sa trong tà áo dài Việt Nam
Em, duyên dáng thơ ngây trong vườn nắng đẹp bình minh
Em chân bước mượt mà, em tay trắng ngọc ngà, đẹp lộng
lẫy thướt tha.

Em như đóa hoa xinh trong tà áo dài Việt Nam
Em yêu quý quê hương, yêu tà áo dài Việt Nam...
Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng với ca khúc "Một đời áo mẹ áo em" kể lại lịch
sử và sự gắn kết nhiều thế hệ của chiếc áo dài.
Nhạc sĩ Jo Marcel và ca khúc "Áo dài Việt Nam":
...Người Việt Nam trong chiếc áo dài
Người Việt Nam tha thướt bước về
Vẻ đẹp Việt Nam ngàn đời không phai
Cùng tha thướt bước trên đường của xứ khách
Cùng nắm tay nhau chia xẻ buồn vui
Cùng tiếp tay nhau duy trì nét đẹp
Vẻ đẹp của người Việt Nam
Gần đây, nhạc sĩ Nguyễn Đức Cường với ca khúc "Em trong mắt tôi":
Em đẹp không cần son phấn… xinh thật xinh… thật xinh... rất hiền...Khơng
quần jeans… giầy cao gót… em chọn riêng mình em áo dài… duyên dáng...
Giống như hoa kia bên thềm… ngát hương khơng khoe sắc màu… ngàn đóa
23 nhàng tung bay tà áo dài... Em phụ
hoa đang rực rỡ không sánh bằng... Nhẹ

nữ Việt… Ánh lên bao rạng ngời người Phương Đông…


Các nhạc sĩ tiền chiến cũng hay ca ngợi áo dài như bài "Tà áo xanh"
của Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Và cảm xúc về chiếc áo dài cũng làm nên những
câu hát nổi tiếng của Hoàng Trọng:
Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím
Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím
Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau
Tháng năm càng lướt mau
Biết bao giờ trông thấy nhau

(Ngàn thu áo tím)

1.4.

Các kiểu Áo dài.

1.4.1.

Áo dài nữ giới.
Thuở xưa phụ nữ Việt Nam từ Bắc xuống Nam đều mặc váy. Đến ngày
nay chiếc váy đó chỉ cịn rải rác ở một số vùng đồng bằng sông Hồng và vùng
Thanh Nghệ. Chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam.
Như lịch sử còn ghi lại cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh kéo dài gần
200 năm. Ở miền Bắc vua Lê chúa Trịnh trị vì, ở Miền Nam các chúa Nguyễn
24
miệng nói thuần phục nhà Lê song thực
chất họ đã lấy Phú Xuân làm thủ phủ

của đằng trong để củng cố địa vị cho sự nghiệp: “ Vạn đại dung thân”. Năm


1744 trong dân gian miền Nam bỗng lưu truyền một câu sấm “ Bát đại thời
hồn trung đơ” (tức là ở lại kinh đô Thăng Long ngay). Câu sấm này làm cho
chúa Nguyễn Phúc Khốt giật mình. Triều thần của Nguyễn Phúc Khốt đã
họp bàn để tìm ra hướng giải quyết “ hồn” Trung Đơ. Một thời gian sau các
đại quan đã trình bày với chúa Nguyễn rằng “ Muốn thực sự có một vương
quốc mới để đổi mạng trời thì phải thay đổi lễ nhac, thay đổi văn hố”. Văn
hố đó là trang phục. Năm 1819, cách ăn mặc của người dân vẫn giống như
giáo sĩ Borri đã thấy ở Thuận Quảng từ hơn hai thế kỷ trước đó với quần lụa
đen và áo may sát người dài đến mắt cá chân

Riêng ở miền Bắc khoảng năm 1910 - 1920, phụ nữ thích may thêm một
cái khuyết phụ độ 3cm bên phải cổ áo, và cài khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo như
thế sẽ hở ra cho quyến rũ hơn và cũng để diện chuỗi hột trang sức nhiều vòng.
Phần nhiều áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may có lớp lót. Lớp áo
trong cùng thấm mồ hơi, vì thế được may đơn bằng vải mầu trắng để không
sợ bị thôi mầu, dễ giặt. Một áo kép mặc kèm với một áo lót đơn ở trong đã
thành một bộ áo mớ ba. Quần may rộng vừa phải, với đũng thấp. Thuở đó,
phần đơng phụ nữ từ Nam ra Bắc đều mặc quần đen với áo dài, trong khi phụ
nữ Huế lại chuộng quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế hay mặc loại
quần chít ba, nghĩa là dọc hai bên mép ngoài quần được may với ba lần gấp,
để khi đi lại quần sẽ xịe rộng thêm.
Và kể từ đó phân biệt với phụ nữ hai miền thì phụ nữ miền Bắc mặc váy
phụ nữ miền Nam mặc quần có đáy ( hai ống) như đàn ông. Với con mắt
phong kiến, võ vương thấy phụ nữ mặc quần hai ống trông khêu gơi quá nên
ông bèn cho triều thần nghiên cứu tham khảo áo dài của người Chăm (Giống
áo ài Việt Nam ngày nay nhưng không xẻ nách) và chiếc áo dài thượng Hải
25 Việt Nam. Vì thế có thể coi chiếc áo
( xẻ đến đầu gối) để từ đó chế ra áo dài

dài của người phụ nữ đầu tiên giống như chiếc áo dài của ngừời Chàm nhưng


×