Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

TIỂU LUẬN MÔN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.97 KB, 7 trang )

BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KỲ MÔN: CỞ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
Chủ đề: Lễ hội “Đúc Bụt”ở thôn Phù Liễn – xã Đồng Tĩnh - huyện Tam Dương –
tỉnh Vĩnh Phúc.
Bài làm
Việt Nam là một quốc gia có diện tích nhỏ nhưng lại có nền văn hoá đặc sắc với sự
quần tụ sinh sống của hơn 50 tộc người có những phong tục, truyền thống, ngôn ngữ,
có sự trải nghiệm cũng như nguồn vốn tri thức bản đại cực kỳ đa dạng và phong phú.
Là một quốc gia khởi thuỷ của nền nông nghiệp lúa nước, vụ mùa, sông nước, thiên
nhiên gắn chặt với người Việt từ hàng ngàn năm, cùng với bề dày hàng ngàn năm lịch
sử đã giúp hình thành nên những truyền thống văn hóa rất có giá trị, gắn bó và trường
tồn đến ngày hôm nay. Một trong những truyền thống ấy là lễ hội.
Lễ hội là một phần tín ngưỡng quan trọng trong đời sống người Việt ở khắp mọi vùng
đất từ đồng bằng phì nhiêu đến những đỉnh cao chót vót, những dải biên giới, miền
duyên hải và hải đảo xa xôi, và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lễ hội là một
loại hình sinh hoạt cộng đồng được tổ chức theo phương pháp cảnh diễn hóa (sân
khấu hóa) với nhiều nội dung, hình thức phong phú nhằm vừa tôn vinh những giá trị
thiêng liêng, vừa thỏa mãn các nhu cầu văn hóa tinh thần của con người và góp phần
thắt chặt các quan hệ xã hội. Là một hình thức sinh hoạt văn hóa tổng hợp, lễ hội được
cấu thành bởi hai yếu tố lễ và hội, tương ứng với các mặt: tinh thần, tôn giáo -tín
ngưỡng, linh thiêng là yếu tố lễ; vật chất, văn hóa-nghệ thuật, đời thường là yếu tố
hội, cả hai yếu tố gắn bó, hòa quyện với nhau không thể bỏ đi một yếu tố nào mà
không làm mất đi bản thân nó. Lễ và hội hướng con người tới “cái thiêng” và gắn bó
con người lại với nhau, có sức hấp dẫn lôi cuốn các tầng lớp xã hội, trở thành một nhu
cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thế kỷ.
1
Cứ mỗi độ xuân về, trên đất nước ta diễn ra hàng nghìn lễ hội khác nhau.Cũng như
bao làng quê khác, hàng năm vào tháng Giêng - mùa lễ hội - nhân dân thôn Phù Liễn
- xã Đồng Tĩnh - huyện Tam Dương – tỉnh Vĩnh Phúc lại tổ chức lễ hội truyền thống:
Hội “Đúc Bụt”. Tương truyền lễ hội “Đúc Bụt” là một hình thức sinh hoạt văn hoá
dân gian đã có từ rất lâu, nhằm ôn lại quá trình chiêu mộ nghĩa sĩ, tập hợp lực lượng,
rèn đúc vũ khí của Ngọc Kinh công chúa, một nữ tướng tài ba, chí dũng vẹn toàn,


hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng đền nợ nước, trả thù nhà, diệt giặc Tô Định
những năm 40 sau Công nguyên đã từng được ghi vào chính sử.
Truyện kể rằng Ngọc Kinh công chúa (Mỹ Tự được Vua Bà phong sau khi dẹp xong
Tô Định, Trưng Trắc lên ngôi vua), nguyên là một phụ nữ tài đức vẹn toàn đã có
chồng và hai người con trai, khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, Bà đã để các con ở
lại quê, theo về với Hai Bà đánh giặc, được Hai Bà cử về quê Phù Liễn mộ quân, rèn
đúc vũ khí, chuẩn bị lực lượng. Tại đây, Bà đã ẩn mình dưới dạng nhà sư, tu luyện tại
chùa Phù Liễn, dạy cho dân biết làm sĩ, nông, công, cổ (Sĩ là dạy dân học hành, nâng
cao hiểu biết, bồi đúc lòng căm thù giặc Hán xâm lược; Nông là dạy dân cày cấy,
trồng trọt, săn bắn làm ra sản phẩm chủ động nuôi sống người và cung cấp lương thực
cho nghĩa sĩ; Công là nghề phụ trợ, ở đây là nghề rèn đúc sản xuất công cụ sản xuất và
vũ khí đánh giặc; Cổ là cổ giả, nghĩa là sự lưu thông hàng hoá, đồng thời cũng là hình
thức thông tin, dò la tin tức giặc ). Từ đó, Đức Bà đã dần xây dựng được lực lượng
đông đảo, bao gồm những người dân Phù Liễn và các vùng xung quanh, cùng với 65
quận thành trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng giành độc lập.
Sau này, để tưởng nhớ công lao, nhân dân Phù Liễn đã lập Đền thờ Bà và quen gọi là
Đền thờ Đức Bà lưu truyền đến ngày nay. Và hàng năm cứ đến ngày 8 tháng giêng
(ngày hoá của Đức Bà), nhân dân lại tổ chức lễ hội diễn lại các tích trò xưa, và trong
đó, tích trò “Đúc Bụt” được đặc biệt quan tâm và không thể thiếu trong ngày lễ hội.
Để chuẩn bị cho lễ hội, thường vào trung tuần tháng Chạp ta năm trước các quan viên,
bộ lão trong làng đã họp bàn, quyết định tổ chức mở lễ hội, phân công công việc và
2
chọn lựa những người trực tiếp tham gia, những người trực tiếp tham gia, những
người được chọn lựa đều phải đạt các nghi lễ theo lệ làng, về cơ bản đó phải là những
trai thanh, gái lịch hoặc người già phải gương mẫu, song toàn, gia đình ấm êm, hoà
thuận, được hàng xóm mến phục tin yêu Trong đó nghiêm ngặt nhất là bầu chọn ông
chủ lễ, chủ trò và 3 thanh niên chọn làm Bụt. Những người tham gia gồm: Ông Chủ
tế, 3 thanh niên khoẻ mạnh, chưa có vợ, gia đình song toàn, gương mẫu; Một ông thợ
Đúc Bụt (cũng là người chủ trò) kèm theo có các công việc bổ củi, kéo bễ, nấu đồng,
quạt lò, che lọng (mỗi công việc có một người thực hiện); Một vị sư và năm bà vãi

phục vụ; Một ông giáo học (có tráp, bút kèm theo) và năm học trò; Nghề nông có: một
thợ cày, một thợ cấy, một người làm trâu kéo cày, một người phát bờ, một người cuốc
góc, một người nhổ mạ, một người tát nước, một người câu ếch. Tất cả khoảng 30
người trực tiếp tham gia diễn trò.Các công việc chọn người, chuẩn bị đồ dùng, dụng
cụ được dân làng chuẩn bị kỹ càng, chu đáo từ trước tết Âm lịch để ăn tết xong cả
làng sẽ vào hội.
Đúng ngày 8 tháng Giêng Âm lịch; ngay từ sáng sớm, tất cả người dân trong làng và
các vùng xung quanh đã nô nức tập hợp về khu vực sân Đình làng, Ban tế làm lễ tế
thân tại Đình, sau 3 tuần tế, ông Chủ tế xin âm dương và phân công quan viên đi Đúc
Bụt, các quan viên cùng dân làng chuẩn bị xôi, trầu cau, chiếu.v.v và những người
đã được lựa chọn tham gia các tích trò Sĩ, nông, công, cổ nêu trên cùng 3 thanh niên
đã lựa chọn kỹ tiến ra vùng ao (hoặc ruộng) đã tát cạn hết nước từ hôm trước (thông
thường là ở gần bờ kênh Liễn Sơn, cách đình làng khoảng 500m) tới nơi, 3 thanh niên
tự xuống ao, lấy bùn trát kín toàn thân, sau đó, quan viên sẽ dùng 1 sợi dây buộc
ngang 1/3 (theo chiều rộng) một chiếc chiếu cói, rồi để xoè phần dưới chụp lên đầu
mỗi Bụt một chiếc riêng “Bụt” đi giữa, trên đỉnh đầu, phần chiếu buộc phía trên có đặt
một bó mạ xanh, sau đó quan viên và dân làng làm lễ rước “Bụt” về đình.Thoạt tiên,
sau khi chùm chiếu xong, các cụ phụ lão dùng trầu cau đã được chuẩn bị sẵn, bón cho
mỗi “Bụt” một miếng, rồi cả đoàn người cùng ông Chủ lễ từ từ tiến về đình trong
tiếng chiêng, trống, cờ xí và các điệu múa dân gian. Trên đường đi sẽ diễn ra tất cả 3
3
lần mời trầu do các tốp phụ lão khác nhau lần lượt bón cho “Bụt” thì cả đoàn rước
mới về tới sân đình.Khi đoàn rước “Bụt” về tới đình, ông Chủ tế sẽ làm thủ tục xin
phép Thần Thành Hoàng, 3 “Bụt” sẽ chạy nhanh vào khoảng trống ở sân Đình đã
được định sẵn, ngồi thành hàng ngang, quay mặt vào gian chính giữa cửa đình, xung
quanh nhân dân quây thành một vòng tròn có đường kính khoảng 15m, đồng thời tất
cả các tích trò đều được diễn ra ngay trong vòng tròn đó, trong tiếng chiêng trống, hò
reo vui vẻ của cả biển người.
Các trò được diễn ra như sau:Những người làm ruộng, trâu kéo cày, người cầm cày
chạy theo ngược với chiều kim đồng hồ, cùng các tốp thợ nhổ mạ, tát nước, phát bờ,

cuốc góc, câu ếch cùng vừa diễn động tác, vừa chạy theo người thợ cày.Ở một góc,
ông giáo học đang lên lớp giảng bài cho học sinh và tích trò trung tâm là ông chủ trò
(vai người thợ Đúc Bụt) có thợ phụ trợ là bổ củi, quạt lò kéo bễ để nấu đồng trong
một chiếc nồi đất to (đường kính từ 0,60 - 0,8m), ông thợ đúc chân đi tập tễnh, thi
thoảng lại bị thợ phụ đá cho một cái (nhằm gây cười); cũng như vậy anh thợ cuốc bờ
thì để lưỡi cuốc ngoảng ra ngoài, người đi câu ếch làm phao bằng bông hoa đỏ, giỏ
thủng đáy lại treo ngược lên càng làm cho không khí vui nhộn hơn.Trong quá trình
diễn trò thi thoảng 3 “Bụt” ở giữa vòng tròn được 2 người phụ nữ đem xôi, trầu bón
cho nhưng chỉ bón nhử mà thôi. (Phải chăng đây là một tục hèm của lễ “Cầu Đinh”).
Khi các tích trò diễn ra liên tục khoảng 40-45 phút, nghĩa là nguyên liệu đồng trong
nồi nấu đã đến nóng chảy, ông thợ đúc dùng gáo múc đồng trong nồi đổ vào các “Bụt”
(chính xác hơn là các “khuôn Bụt”), sau đó dùng “kìm” (1 thanh tre tươi to bản bẻ
gập) xoay Bụt (cho rời khỏi khuôn) cũng theo chiều ngược với chiều kim đồng hồ,
đồng thời, nhà Sư xuất hiện gieo quẻ xin âm dương, khi được, ông thợ Đúc lập tức
cầm 3 chiếc chiếu trùm lên “Bụt” ném ra ngoài và đập vỡ nồi nấu đồng. Đồng thời 3
thanh niên làm khuôn Bụt nhanh chóng chạy biến ra ngoài và kết thúc trò diễn, nhân
dân reo hò tranh nhau cướp chiếu, 3 chiếc chiếu sẽ được cướp giật thực sự từ tay
người này đến tay người khác, đến khi rách nát tả tơi, hoặc có người khoẻ mạnh hơn
người, cướp được và tránh không để ai đuổi cướp lại được, nhất là chiếc chiếu giữa có
4
bó mạ xanh ban đầu thì chắc chắn năm đó vợ chồng họ sẽ sinh con trai. Vì vậy Hội rất
đông và cũng có nhiều người ở rất xa mà chưa sinh quý tử đến dự Hội hy vọng cướp
được dù một mảnh chiếu rách là cũng đạt nguyện vọng. (Một điều lạ là mặc dù lễ hội
năm nào cũng tổ chức, trong đám đông tranh cướp huyên náo như vậy nhưng chưa hề
xảy ra thương tích!).
Buổi chiều, các trò chơi phụ trợ được tổ chức đến tối gồm thi đấu bóng chuyền, cờ
tướng, chọi gà và các trò hài
Lễ Hội “Đúc Bụt” mùng 8 tháng Giêng ở Phù Liễn (xã Đồng Tĩnh) là một hình thức
văn hoá dân gian truyền thống tồn tại và phát huy cho đến nay, nhằm ôn lại một
truyền tích đẹp về “Đức Bà” (Ngọc Kinh công chúa), cùng nhân dân hưởng ứng lời

kêu gọi của Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, đánh đuổi Tô Định - đại diện cho thế
lực xâm lược, đô hộ của Nhà Hán ở thế kỷ đầu Công nguyên; đồng thời có thể thấy,
trong cuộc sống của một cộng đồng, không thể thiếu sự phối hợp, dung hoà của những
ngành nghề sơ khai của một nền văn minh lúa nước là nông nghiệp, thủ công nghiệp,
trao đổi hàng hoá và dần phát triển trở thành những nghề truyền thống, trong sự phân
công lao động ở những giai đoạn phát triển tiếp theo của xã hội.Trong suốt quá trình
diễn tích trò của hội “Đúc Bụt” mọi sự vận hành đều được diễn ra trong một vòng tròn
khép kín theo chiều ngược với chiều kim đồng hồ (mà theo các cụ già trong làng kể
lại thì từ xưa tới nay vẫn thực hiện như thế, không hiểu vì sao nhưng không ai dám lên
ý kiến thay đổi cả).Điều này dễ gợi một sự liên tưởng tới cách bố trí các hoa văn trên
trống đồng cổ. Cũng là các mô típ trang trí hoa văn lên các cảnh sinh hoạt trong đời
sống, lễ hội của người Việt cổ, được hoá trang (hay mô phỏng) thành những hình
chim, thú.v.v hay cách điệu hoá và cũng đều xoay quanh những hình tròn đồng tâm
ngược chiều kim đồng hồ.Thêm vào đó, trong địa bàn xã Đồng Tĩnh hiện nay rải rác,
nhân dân cũng có và phát hiện một số công cụ bằng đá mài như: rìu đá, bàn đá và hiện
vật bằng đồng. Có niên đại vào khoảng đầu công nguyên (thuộc giai đoạn văn hoá
Phùng Nguyên muộn). Vậy thì phải chăng hội “Đúc Bụt” ở Phù Liễu muốn mô phỏng
5
một nghề tuy mới ra đời nhưng đóng vai trò quan trọng trong đời sống? Nghề Đúc
Đồng - các sản phẩm của nghề này sẽ dần thay cho các công cụ đá có vai trò như là
một yếu tố quyết định để làm thay đổi một hình thái sản xuất trong lịch sử loài người.
Quan niệm ngày khai xuân, cả làng mở hội vui vẻ cầu mong cho vạn vật sinh sôi nảy
nở, mùa màng bôi thu, giống nòi phát triển, một quan niệm phồn thực là quan niệm
đẹp và biện chứng của cư dân nông nghiệp thể hiện ở việc đặt lên chiếc chiếu giữa
một bó mạ xanh, tục cướp chiếu được diễn ra rất nhiệt tình, thậm chí rất quyết liệt,
cách bón trầu, xôi nhử của 2 phụ nữ bón cho “khuôn Bụt” và qua kinh nghiệm lâu
đời của nhân dân địa phương thì hình thức “cầu Đinh” ở lễ hội này khá điển hình và
cũng rất hiệu nghiệm.Song song và phụ trợ cho tích truyện “Đúc Bụt” trong lễ hội
cũng diễn ra các trò hài, các cuộc thi đấu thể thao cờ tướng nhằm rèn trí, nâng cao thể
lực, sức khoẻ, tạo thêm sự vui vẻ phấn chấn trong lao động, sản xuất, tất cả đã tạo nên

phẩm chất đẹp của người Việt và trở thành bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội có một vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống của người dân mỗi thôn, xóm,
làng, bản, là nếp sinh hoạt văn hóa dân gian, một món ăn tinh thần không thể thiếu
của nhân dân ở mọi vùng quê. Hơn thế, lễ hội còn là ngày hội cố kết cộng đồng, biểu
trưng của những giá trị của đời sống tâm linh, đời sống xã hội và văn hóa của cộng
đồng, là nơi người dân được hưởng thụ và sáng tạo văn hóa và thỏa mãn khát vọng trở
về nguồn cội. Các hoạt động lễ hội tại làng Phù Liễn là nét đẹp truyền thống mang
tính gắn kết cộng đồng và thể hiện tinh thần “uống nước nhớ nguồn” của người dân
Phù Liễn nói riêng cũng như của dân tộc Việt Namnói chung.
6
7

×