Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

BTL Kinh tế chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.02 KB, 10 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊ-NIN

BÀI TẬP LỚN
Đề tài 8: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ. VỚI TƯ CÁCH LÀ CÔNG
DÂN, HÃY ĐỀ XUẤT CÁC PHƯƠNG THỨC ĐỂ BẢO VỆ LỢI ÍCH KINH TẾ
HỢP PHÁP CỦA MÌNH KHI THAM GIA CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ?

Sinh viên thực hiện: Trần Thị Ước
Mã sinh viên: 11208365
Lớp: KTCT (121)_15
Khóa: 62

1


MỞ ĐẦU
Ngay từ khi mới xuất hiện, con người đã tiến hành các hoạt dộng kinh tế
do vậy hoạt động kinh tế ln giữ vai trị trung tâm trong mọi hoạt động xã hội và
nó là cơ sở cho các hoạt động khác. Trong hoạt động kinh tế, con người ln có
động cơ nhất định. Động cơ thúc đẩy con người hành động. Mức độ hành động
mạnh hay yếu tuỳ thuộc vào mức độ chín muồi của động cơ - tuỳ thuộc vào nhận
thức và thực hiện lợi ích của họ. Lợi ích kinh tế là một trong những động cơ đó, nó
liên quan đến các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia. Nếu lợi ích
kinh tế lớn thì động cơ càng trở nên rõ rệt, ảnh hưởng mọi mặt của đời sống. Xã
hội càng phát triển, kinh tế tăng trưởng càng mạnh mẽ thì tham gia vào các hoạt
động kinh tế là đương nhiên nhưng lại khơng hề dễ dàng. Nó địi hỏi mỗi cơng dân
phải có đủ kiến thức, kĩ năng để tham gia vào hoạt động đó. Nó cũng địi hỏi mỗi


cơng dân phải am hiểu rõ ràng về các quyền lợi của bản thân xem mình được làm
những gì và được hưởng những lợi ích hợp pháp nào. Chính vì vậy, em làm về đề
tài: “Lợi ích kinh tế và đề xuất các phương thức để bảo vệ lợi ích kinh tế hợp pháp
của mình khi tham gia vào các hoạt động kinh tế với tư cách là một công dân”.

NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ VAI TRỊ CỦA LỢI ÍCH KINH TẾ
TRONG PHÁT TRIỂN.
1. Khái niệm và bản chất của lợi ích kinh tế.
*Khái niệm lợi ích kinh tế.
Để tồn tại, phát triển, con người cần được thỏa mãn các nhu cầu vật chất
cũng như tinh thần. Lợi ích thu được khi con người được thỏa mãn nhu cầu của
mình. Lợi ích có thể là vật chất, có thể là lợi ích tinh thần. Trong mỗi điều kiện
2


lịch sử, tuỳ từng bối cảnh mà vai trò quyết định đối với hoạt động của con người là
lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần. Nhưng xuyên suốt quá trình tồn tại của con
người và đời sống xã hội thì lợi ích vật chất đóng vai trị quyết định thúc đẩy hoạt
động của mỗi cá nhân, tổ chức cũng như xã hội.
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt
động kinh tế của con người.
*Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế
Xét về tính chất, lợi ích kinh tế phản ánh quan hệ xã hội giữa các thành
viên trong xã hội với nhau thông qua hoạt động kinh tế. Bởi lẽ, trong điều kiện
kinh tế thị trường, khơng có hoạt động kinh tế nào mà khơng đặt trong mối quan hệ
giữa con người với nhau. Do vậy, lợi ích kinh tế mang tính chất khách quan.
Những nhu cầu kinh tế của con người khi được xác định về mặt xã hội thì nó trở
thành cơ sở của lợi ích kinh tế. Nghĩa là nhu cầu đó phải đặt trong mối quan hệ với
trình độ phát triển, bối cảnh cụ thể của xã hội. Các cá nhân không thể thụ hưởng lợi

ích vượt quá khả năng mà xã hội có thể đáp ứng cũng như đóng góp của cá nhân
đó vào các quan hệ kinh tế -xã hội trong điều kiện lịch sử nhất định. Vì vậy, khẳng
định lợi ích kinh tế là sự thỏa mãn nhu cầu kinh tế của con người nhưng khơng có
nghĩa là nó mang tính chủ quan. Trái lại, sự thỏa mãn nhu cầu đó phải được quyết
định bởi các điều kiện, trình độ phát triển của xã hội, lợi ích kinh tế do đó, mang
tính khách quan.
Xét về bản chất, lợi ích kinh tế là biểu hiện ra bền mặt xã hội của các quan
hệ lợi ích. Nghĩa là lợi ích phản ánh bản chất quan hệ kinh tế. Các thành viên trong
xã hội xác lập các quan hệ kinh tế với nhau vì trong quan hệ đó hàm chứa những
lợi ích kinh tế mà họ có thể có được. Về khía cạnh này, Ph. Ănghen viết: “những
quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định nào đó biểu hiện trước hết dưới hình thái
lợi ích”1. Các quan hệ xã hội ln mang tính lịch sử, do vậy, lợi ích kinh tế trong
mỗi giai đoạn cũng phản ánh bản chất xã hội của giai đoạn lịch sử đó.
Về biểu hiện, gắn với các chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích tương
ứng: chủ doanh nghiệp thì lợi ích trước hết là lợi nhuận, người lao động trước hết
lợi ích kinh tế là tiền công. Tất nhiên, với mỗi cá nhân con người, trong các mối
quan hệ xã hội tổng hợp gắn với con người đó, mặc dù có khi thực hiện hoạt động
kinh tế, trong nhất thời, không phải ln đặt mục tiêu lợi ích vật chất lên hàng đầu.
1

3


Song, về lâu dài, đã tham gia vào hoạt động kinh tế thì lợi ích kinh tế là lợi ích
quyết định. Nếu khơng thấy được vai trị này của lợi ích kinh tế sẽ làm suy giảm
động lực hoạt động của các cá nhân. Nghiên cứu về sự phân phối giá trị thặng dư
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cho ta thấy, mỗi chủ thể tham gia vào q trình
phân phối giá trị thặng dư đó, với vai trị của mình mà có được những lợi ích tương
ứng. Đây chính là nguyên tắc đảm bảo lợi ích phù hợp với vai trò của các chủ thể.
Vậy, khi đề cập tới phạm trù lợi ích kinh tế có nghĩa là hàm ý rằng, lợi ích

đó được xác lập trong quan hệ nào, vai trò của các chủ thể trong quan hệ đó thể
hiện chủ thể đó biểu hiện thư thế nào, chẳng hạn họ là chủ sở hữu, hay nhà quản lý;
là lao động làm thuê hay trung gian trong hoạt động kinh tế; ai là người thụ hưởng
lợi ích, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể đó, phương thức để thực hiện lợi
ích cần phải thơng qua các biện pháp gì…Trong nền kinh tế thị trường, ở đâu có
hoạt động sản xuất kinh doanh, ở đó có quan hệ lợi ích và lợi ích kinh tế.
2. Vai trị của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế được biểu hiện vô cùng
phong phú. Mặc dù vậy, điểm chung của hết thảy các hoạt động đó là hướng tới lợi
ích. Xét theo nghĩa như vậy, có thể khái qt vai trị của lợi ích kinh tế trên một số
khía cạnh chủ yếu sau:
Lợi ích kinh tế là mục tiêu của các hoạt động kinh tế. Con người tiến hành
các hoạt động kinh tế trước hết là để thỏa mãn các nhu cầu vật chất, nâng cao
phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của mình. Trong nền kinh tế
thị trường, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất tùy thuộc vào
mức thu nhập. Do đó, mức thu nhập càng cao, phương thức và mức độ thỏa mãn
các nhu cầu vật chất càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế đều phải hành động để
nâng cao thu nhập của mình. Thực hiện lợi ích kinh tế của các giai tầng xã hội, đặc
biệt của người dân vừa là cơ sở bảo đảm cho sự ổn định và phát triển xã hội, vừa là
biểu hiện của sự phát triển. “Nước độc lập mà dân không được hưởng ấm no, hạnh
phúc thì độc lập cũng khơng có ý nghĩa gì”2.
Lợi ích kinh tế là động lực của các hoạt động kinh tế. Về khía cạnh kinh tế,
tất cả các chủ thể kinh tế đều hành động trước hết vì lợi ích chính đáng của mình.
Tất nhiên, lợi ích này phải đảm bảo trong sự liên hệ với các chủ thể khác trong xã
hội. Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất trước hết phụ thuộc

2
4



vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ mà xã hội có được. Mà tất cả các
nhân tố
đó lại là sản phẩm của nền kinh tế và phụ thuộc vào quy mơ và trình độ phát triển
của nó. Theo đuổi lợi ích kinh tế chính đáng của mình, các chủ thể kinh tế đã đóng
góp vào sự phát triển của nền kinh tế. Vì lợi ích chính đáng của mình, người lao
động phải tích cực lao động sản xuất, nâng cao tay nghề, cải tiến công cụ lao động;
chủ doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đáp ứng
các nhu cầu, thị hiếu của khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm,
thay đổi mẫu mã, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong phục vụ người tiêu dùng...
Tất cả những điều đó đều có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản
xuất, của nền kinh tế và nâng cao đời sống của người dân.
Lợi ích kinh tế là động lực của các hoạt động xã hội. Phương thức và mức
độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc địa vị của con người trong hệ
thống quan hệ sản xuất xã hội nên để thực hiện được lợi ích của mình các chủ thể
kinh tế phải đấu tranh với nhau để thực hiện quyền làm chủ đối với tư liệu sản
xuất. Đó là cội nguồn sâu xa của các cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong lịch sử
- một động lực quan trọng của tiến bộ xã hội. “Động lực của tồn bộ lịch sử chính
là cuộc đấu tranh của các giai cấp và những xung đột về quyền lợi của họ” và
“nguồn gốc vấn đề trước hết là những lợi ích kinh tế mà quyền lực chính trị phải
phục vụ với tư cách phương tiện”3. Như vậy, mọi vận động của lịch sử, dù dưới
hình thức như thế nào, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đề lợi ích, mà trước hết là
lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế cịn là cơ sở thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi ích
văn hóa. Nguyên nhân quan trọng là đời sống vật chất quyết định đời sống tinh
thần; kinh tế quyết định chính trị, văn hóa - xã hội. Lợi ích kinh tế được thực hiện
sẽ tạo điều kiện vật chất cho sự hình thành và thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã
hội, lợi ích văn hóa của các chủ thể xã hội.
3. Những đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế bao hàm những đặc trưng cơ bản sau:
Lợi ích kinh tế mang tính khách quan. Phương thức và mức độ thỏa mãn

các nhu cầu vật chất trực tiếp ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của con người.
3
5


xã hội càng phát triển, đòi hỏi về phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật
chất của con người càng cao. Đồng thời, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu
cầu vật chất phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan: số lượng, chất lượng hàng
hóa, dịch vụ; thu nhập của các chủ thể... Bản chất khách quan địi hỏi lợi ích kinh
tế phải được tơn trọng và giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế phải xuất phát từ các
điều kiện khách quan.
Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của quan hệ phân phối. Thu nhập là biểu
hiện, thước đo việc thực hiện các lợi ích kinh tế vì mức thu nhập trực tiếp quyết
định phương thức và mức độ thỏa mãn nhu cầu của ccacs chủ thể trong cơ chế thị
trường. Phân phối thu nhập lại được thực hiện theo những nguyên tắc khác nhau,
tùy thuộc trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và cơ chế
kinh tế. Nếu các chủ thể kinh tế nhận thức đúng đắn các nguyên tắc phân phối,
mức thu nhập hợp lý mà họ được hưởng và hành động phù hợp với nhận thức thì
lợi ích kinh tế trở thành động lực cho sự phát triển. Ngược lại, những địi hỏi
khơng hợp lý về thu nhập hay lợi ích kinh tế sẽ là rào cản cho sự phát triển.
Lợi ích kinh tế là quan hệ xã hội. Lợi ích kinh tế của mỗi chủ thể không
giản đơn tùy thuộc vào số lượng, chất lượng hành hóa và dịch vụ họ nhận được, mà
luôn được đặt trong quan hệ so sánh, tương tác với những chủ thể khác. Điều đó có
nghĩa là, bản chất của lợi ích kinh tế là quan hệ xã hội. Vì vậy, giải quyết vấn đề lợi
ích kinh tế về thực chất là giải quyết quan hệ giữa con người với nhau. Đó là tạo sự
cơng bằng, hợp lý và đồng thuận trong phân phối thu nhập.
Lợi ích kinh tế mang tính lịch sử. Phương thức và mức độ thỏa mãn các
nhu cầu vật chất của con người do nhiều nhân tố quy định, mà các nhân tố đó lại
khơng ngừng vận động, biến đổi nên lợi ích kinh tế cũng khơng ngừng vận động,
biến đổi. Điều đó có nghĩa là lợi ích kinh tế mang tính lịch sử. Tính lịch sử của lợi

ích kinh tế địi hỏi việc nghiên cứu, giải quyết vấn đề này phải đặt trong những
hồn cảnh cụ thể; trong tiến trình vận động, biến đổi không ngừng.
Từ nội hàm, những đặc trưng chủ yếu của lợi ích kinh tế, có thể thấy rằng:
Lợi ích kinh tế là phạm trù xuất hiện khi các hoạt động kinh tế mang tính xã hội; là
sự thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người được quy định bởi trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và địa vị của họ trong hệ thống các quan hệ sản xuất
xã hội; là kết quả trực tiếp của quan hệ phân phối và được thể hiện bằng thu nhập;
là động lực của các hoạt động kinh tế khi có sự cơng bằng, hợp lý và đồng thuận
của các chủ thể trong phân phối thu nhập.

6


Trong nên kinh tế có các chủ thể như: cá nhân, tập thể, xã hội, giai cấp, nhà
nước, dân tộc,... Tương ứng với mỗi chủ thể đó là một hình thức lợi ích kinh tế: lợi
ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích giai cấp, lợi ích nhà nước, lợi ích quốc gia, dân
tộc,...
Trong các hình thức lợi ích kinh tế, lợi ích cá nhân là cơ sở, nền tảng của
các lợi ích khác. Bởi lẽ, nhu cầu cơ bản, sống còn trước hết thuộc về các cá nhân,
quyết định hoạt động của các cá nhân khác; mặt khác, thực hiện lợi ích cá nhân là
cơ sở để thực hiện các lợi ích khác vì cá nhân cấu thành nên tập thể, giai cấp, xã
hội,... “Dân giàu” thì “nước mạnh”. Do đó, lợi ích cá nhân chính đáng cần được
pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Lẽ dĩ nhiên, lợi ích cá nhân cần phải được đặt trong
mối quan hệ biện chứng vợi lợi ích xã hội nói chung.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế.
Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Là phương thức và
độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, lợi ích kinh tế trước hết phụ thuộc
vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, mà điều này lại phụ thuộc vào trình
độ phát triển lực lượng sản xuất. Do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế của các chủ thể càng tốt. Như vậy, nhân tố

đầu tiên ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của các chủ thể là lực lượng sản xuất. Chính
vì vậy, phát triển lực lượng sản xuất trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
các quốc gia.
Thứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội. Quan
hệ sản xuất, mà trước hết là quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quyết định vị trí, vai
trị của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia hoạt động kinh tế - xã
hội. Do đó, khơng có lợi ích kinh tế nằm ngồi những quan hệ sản xuất, mà nó là
sản phẩm của những quan hệ sản xuất, là hình thức tồn tại và biểu hiện của các
quan hệ sản xuất. Chính vì vậy, theo Ph. Ăng-ghen, các quan hệ kinh tế của một xã
hội nhất định biểu hiện trước hết dưới hình thức lợi ích.
Thứ ba, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước. Sự can thiệp của
nhà nước vào nền kinh tế thị trường là tất yếu khách quan, bằng nhiều loại cơng cụ,
trong đó có các chính sách kinh tế - xã hội. Chính sách phân phối thu nhập của nhà
nước làm thay đổi mức thu nhập và tương quan thu nhập của các chủ thể kinh tế.
Khi mức thu nhập và tương quan thu nhập thay đổi, phương thức và mức độ thỏa
mãn các nhu cầu vật chất cũng thay đổi, tức là lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích
kinh tế giữa các chủ thể cũng thay đổi.

7


Thứ tư, hội nhập kinh tế. Bản chất của kinh tế thị trường là mở cửa hội
nhập. Khi mở cửa hội nhập, các quốc gia có thể gia tăng lợi ích kinh tế từ thương
mại quốc tế, đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp, hộ gia
đình sản xuất hàng hóa tiêu thụ trên thị trường nội địa có thể bị ảnh hưởng bởi
cạnh tranh của hàng hóa nước ngồi. Đất nước có thể phát triển nhanh hơn nhưng
cũng phải đối mặt với các nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, ...
Điều đó có nghĩa là hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động mạnh mẽ và nhiều chiều
đến lợi ích kinh tế của các chủ thể.
II. PHƯƠNG THỨC ĐỂ BẢO VỆ LỢI ÍCH KINH TẾ HỢP PHÁP CỦA

BẢN THÂN KHI THAM GIA CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ.
1. Lợi ích kinh tế hợp pháp của các nhân khi tham gia các hoạt động kinh tế
xã hội.
Lợi ích là một trong những động lực hoạt động của con người, của sự biến
đổi xã hội và là một trong những vấn đề căn bản, có ý nghĩa quyết định bản chất
các mối quan hệ trong xã hội. Suy cho cùng, sự phát triển xã hội là kết quả của
những hoạt động có ý thức của con người “đang theo đuổi những mục đích nhất
định”. Lợi ích cá nhân, đó là tất cả những lợi ích vật chất, tinh thần gắn liền với
từng cá nhân cụ thể và dùng để thỏa mãn các nhu cầu riêng tư cụ thể của cá nhân
đó, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của cá nhân; bao gồm: lợi ích vật chất, lợi
ích tinh thần, lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, ...
Lợi ích chính đáng là động cơ thơi thúc hành động của mỗi con người;
việc giành, bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp bao giờ cũng là động lực mạnh mẽ
nhất, trực tiếp nhất thôi thúc con người ta hoạt động. Lợi ích chính là nhân tố quan
trọng nhất trong chuỗi quy định nhân quả dẫn dắt sự hoạt động của con người: nhu
cầu - lợi ích - mục đích - hoạt động.
Lợi ích cá nhân khơng chỉ đơn giản nằm trong mỗi cá nhân cụ thể, nó có
thể nằm trong một chủ thể nhất định nào đó khi ta xét lợi ích của chủ thể đó với tư
cách độc lập, tách biệt với các chủ thể khác, tuy nhiên, trong phạm vi bài tập lớn
này, chủ thể của lợi ích cá nhân chỉ được xét ở góc độ là ở trong mỗi cá nhân.
2. Phương thức bảo vệ lợi ích chính đáng của bản thân khi tham gia các hoạt
động kinh tế.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta đã chính thức đưa ra khái niệm “kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, coi đó là mơ hình tổng quát, là đường
lối chiến lược nhất quán của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Hiện nay,
8


nền kinh tế này vẫn đang phát triển vô cùng mạnh mẽ. Khi tham gia vào các hoạt
động kinh tế, người lao động nói riêng hay tất cả cơng dân trong độ tuổi lao động

cần thực hiện nghĩa vụ cũng như được hưởng những quyền lợi nhất định. Nhưng
có rất nhiều những trường hợp lợi ích chính đáng của họ lại bị xâm phạm, gây ra
sự mất công bằng và khơng đảm bảo lợi ích của cá nhân. Bản thân em cũng đang
trong độ tuổi lao động, vậy em cần phải gì để có thể bảo vệ lợi ích chính đáng của
mình khi tham gia các hoạt động kinh tế? Sau đây là một số những phương thức
mà em đưa ra:
Thứ nhất đó chính là bản thân em phải hiểu rất rõ về những quyền lợi, lợi
ích chính đáng mà bản thân mình được hưởng. Nếu bản thân khơng biết về những
điều cơ bản này thì khi lợi ích chính đáng của mình hay của người khác khơng
được đảm bảo thì cũng khơng biết để địi lại lợi ích đó.
Thứ hai, liên kết chặt chẽ tác với cơng đồn để cơng đồn bảo vệ quyền
lợi cho bản thân về: giờ lao động, tiền lương, ...
Thứ ba, báo cáo với tổ chức có vai trị, chức năng và quyền lực trong
việc bảo vệ lợi ích chính đáng khi lợi ích bản thân bị xâm phạm.
Thứ tư, tìm hiểu rõ ràng các chế độ đãi ngộ, các khoản quyền lợi của
mình được ghi trong hợp đồng lao động hoặc trong cam kết khi các chủ thể lao
động hợp tác với mình và thực hiện đúng theo hợp đồng đưa ra.
KẾT LUẬN
Động lực của sự phát triển xã hội suy cho cùng là kết quả hoạt động có ý
thức của con người nhằm theo đuổi những lợi ích nhất định. Lợi ích là một trong
những động lực cơ bản của sự phát triển xã hội cũng như động lực thúc đẩy hành
động của mỗi cá nhân. Chính vì vậy, quan tâm thực hiện nhu cầu, lợi ích của cá
nhân và xã hội, giải quyết các quan hệ lợi ích trong xã hội đó chính là tạo ra động
lực phát triển xã hội nhằm đạt được những mục tiêu cao hơn. Động lực lợi ích luôn
được Đảng ta quan tâm giải quyết (đặc biệt từ khi đổi mới đến nay), đặt ra vấn đề
lớn đó là phải bảo đảm lợi ích, sự kết hợp hài hịa các lợi ích và đảm bảo phương
thức thực hiện lợi ích cơng bằng, hợp lý cho mọi người, cho các chủ thể, nhất là lợi
ích kinh tế. Trong đó, quan hệ lợi ích giữa cá nhân, tập thể và xã hội là quan hệ lợi
ích cơ bản của xã hội, việc giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
9



ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay là một vấn đề quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
theo mục tiêu của đất nước. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế thị trường ở
nước xuất hiện nhiều mâu thuẫn lợi ích, địi hỏi phải giải quyết, trong đó mâu
thuẫn căn bản hiện nay đó là mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa cá nhân và xã hội, nhất
là trên lĩnh vực sở hữu, phân phối. Những mâu thuẫn vốn có của các quan hệ lợi
ích dưới những tác động từ những mặt trái của kinh tế thị trường nó trở nên ngày
càng phức tạp, đặc biệt là mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, từ đó
đặt ra nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội luôn chứa đựng những mâu thuẫn, việc giải quyết quan hệ lợi ích này khơng
phải theo nghĩa triệt tiêu mâu thuẫn, mà đó là tạo ra một trạng thái hài hòa, cân
bằng năng động, tránh những thái cực cực đoan trong nhận thức và hành động thực
tiễn. Việc giải quyết các mâu thuẫn này một cách hài hòa cần ác định các quan
điểm rõ ràng, có tính định hướng cho sự phát triển, đặc biệt cần kết hợp các lợi ích
cá nhân - tập thể - xã hội và “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết”, phù
hợp với lợi ích của nhân loại tiến bộ. Trên cơ sở đó thực hiện đồng bộ các giải
pháp thơng qua các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về sở
hữu, phân phối nhằm hướng tới sự hài hịa lợi ích giữa các chủ thể, nhằm mục tiêu
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT
BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ - HOÀNG VĂN KHẢI
2. Các-mác Ph. Ăng- ghen, Tồn tập, tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, 1995.

10




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×