Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

scribfree.com_final ĐỀ TÀI 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.88 KB, 23 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
___🙣🕮🙣___

BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC
TẾ VÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC
HIỆN NAY
LỚP –CC01- NHÓM -9- HK 221
NGÀY NỘP - 25 / 9 / 2022 Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ

Sinh viên thực hiện

MSSV

Huỳnh Thanh Phúc

2052211

Nguyễn Trần Minh Quân

1952944

Nguyễn Trấn Quốc

2053384

La Trúc Quỳnh

2053390


Hoàng Phương Quyên

1852705

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022


BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM VÀ BẢNG ĐIỂM BTL
Mơn: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Nhóm/Lớp: CC01

Tên nhóm: 9

Năm học: 2022-2023

HK221

ĐỀ TÀI 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐỐI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ
VÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC HIỆN NAY
STT

Mã số SV

Họ

Tên

Nhiệm vụ được
phân công


1

2052211

Huỳnh Thanh

Phúc

2.1 + Tổng kết

2

1952944

Nguyễn Trần
Minh

Quân

2.3

3

2053384

Nguyễn Trấn

Quốc

2.2


4

2053390

La Trúc

Quỳnh

1.1 + Mở đầu và kết
luận

5

1852705

Hồng Phương

Qun

1.2

%
Điểm
BTL

Họ và tên nhóm trưởng : Huỳnh Thanh Phúc
Email :
Nhận xét của GV:
GIẢNG VIÊN

(Ký và ghi rõ họ, tên)

NHÓM TRƯỞNG
(Ký và ghi rõ họ, tên)

Điểm
BTL


tên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

4

1. Lý do chọn đề tài

4

2. Nhiệm vụ của đề tài

4

PHẦN NỘI DUNG

5

I. Đảng lãnh đạo thực hiện đối ngoại, hội nhập quốc tế và biện pháp bảo vệ chủ quyền

biển, đảo của Tổ quốc hiện nay
5
1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, tư tưởng chỉ đạo và một số chủ trương, chính sách lớn về
mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng
5
1.1.1 Mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng
5
1.1.2 Tư tưởng chỉ đạo và một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối
ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng
6
1.2. Biện pháp trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam của Đảng và Nhà nước.
7
II. Vận dụng trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiện nay
2.1. Đánh giá thực tế bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước hiện nay
2.1.1 Thực trạng biển, đảo của đất nước hiện nay
2.1.2 Một số hạn chế trong việc bảo vệ chủ quyền biển,đảo
2.1.3 Hành động của Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo
2.2 Quan điểm của các bên trong vấn đề tranh chấp biển, đảo

12
12
12
13
14
15

2.3. Nhiệm vụ của sinh viên trong góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc.
17
PHẦN KẾT LUẬN


20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

21


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Biển đảo quê hương luôn là một phần máu thịt trong mỗi người con dân đất Việt, biển
đảo Việt Nam nói riêng và biển Đơng nói chung đã trở thành một hữu thể không tách rời.
Cuộc sống của nhân dân ta từ bao đời nay đã gắn bó với biển, đảo trên những con thuyền ra
khơi đánh dấu chủ quyền và bảo vệ bờ cõi đất nước. Vấn đề chủ quyền biển đảo luôn là một
trong những vấn đề được đặt lên hàng đầu trong các mục tiêu của quốc gia, bởi chủ quyền
biển đảo cũng chính là chủ quyền lãnh thổ dân tộc, bảo vệ chủ quyền biển đảo là bảo vệ
cuộc sống và tương lai của chúng ta.
Cùng với bảo vệ chủ quyền biển, đảo, q trình tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế là một xu
thế khách quan. Đây là một bước đi tất yếu, và Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Đặc
biệt, Đại hội X của Đảng đã khẳng định: “Tồn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển
nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức cho các quốc
gia, nhất là các nước đang phát triển”. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang
từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Nhiệm vụ của đề tài
-

Làm rõ mục tiêu, nhiệm vụ, tư tưởng chỉ đạo và một số chủ trương, chính sách lớn về
mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng Cộng sản Việt Nam


-

Phân tích và đưa ra các biện pháp trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Đảng và Nhà
nước.
Phân tích thực trạng, đánh giá thực tế đồng thời làm rõ trách nhiệm của sinh viên
trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo hiện nay.


PHẦN NỘI DUNG
I. Đảng lãnh đạo thực hiện đối ngoại, hội nhập quốc tế và biện pháp bảo
vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiện nay
1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, tư tưởng chỉ đạo và một số chủ trương, chính sách lớn về mở
rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng
1.1.1 Mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng
Dựa trên đánh giá toàn diện những thành tựu, vị thế và sức mạnh của đất nước trong 35
năm đổi mới, bối cảnh trong và ngoài nước, cơ hội chiến lược cũng như thách thức đặt ra,
Đại hội XIII tiếp tục kế thừa nội dung xuyên suốt đường lối đối ngoại của Đảng trong thời
kỳ đổi mới, đồng thời phát triển và bổ sung nhiều nội dung mới cho hoạt động đối ngoại
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Về mục tiêu, Đại hội XIII khẳng định “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trong
các hoạt động kinh tế đối ngoại trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp
quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”, điều đó có nghĩa lợi ích của
quốc gia – dân tộc luôn là ưu tiên hàng đầu trong công tác đối ngoại, mọi hoạt động hợp tác
đều dưa trên nguyên tắc nỗ lưc đạt được lợi ích quốc gia – dân tộc ở mức tối ưu nhất trong
khuôn khổ hồ bình và an ninh quốc tế.
Về nhiệm vụ, để góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế đối ngoại, bảo đảm cao nhất lợi
ích quốc gia – dân tộc, Đại hội XIII đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, đánh giá, dự báo tình hình, nhận diện thời cơ và thách thức từ sớm. Đại hội XIII
đã nhấn mạnh “tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại,
không để bị động, bất ngờ”. Đây là nhiệm vụ quan trọng bởi vì chỉ khi biết người biết ta

mới có thể thuận lợi phát triển và bảo vệ đất nước trong một thế giới vận động không ngừng
này.


Hai là, giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định. Đặc thù của đối ngoại chính là sử dụng
các biện pháp, cách thức hồ bình để ngăn ngừa, hồ giải và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh,
xung đột nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.
Ba là, tiên phong huy động các nguồn lực bên ngoài cho phát triển đất nước. Với tư
tưởng “phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm”, đối ngoại tiếp tục tranh thủ các
cam kết, thoả thuận quốc tế để mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, đẩy mạnh cơng nghiệp
háo, hiện đại hố đất nước.
Bốn là, nâng cao vị thế và uy tín đất nước. Đại hội XIII xác định đẩy mạnh và nâng tầm
đối ngoại đa phương, phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là
ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Công và các khuôn khổ hợp tác cũng
như trong những vấn đề quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và
điều kiện của đất nước.
Các nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó giữ vững hồ bình, ổn
định khu vực là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; phát triển đất nước là nhiệm vụ trung
tâm; nâng cao vị thế và uy tín đất nước là nhiệm vụ quan trọng.
1.1.2 Tư tưởng chỉ đạo và một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại,
hội nhập quốc tế của Đảng
Để đối ngoại có thể hồn thành tốt các nhiệm vụ, định hướng nói trên, Đại hội XIII đã đề
ra chủ trương “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng,
ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Chủ trương này thể hiện rõ sự trưởng thành
của ngành ngoại giao Việt Nam, đồng thời cũng là một yêu cầu vừa mang tính chiến lược,
vừa mang tính cấp thiết. Dù có vị trí, chức năng và vai trị khác nhau, song ba trụ cột đối
ngoại ln có quan hệ chặt chẽ, bỗ trợ cho nhau, cùng thực hiện đường lối đối ngoại của
Đảng hướng đến mục tiêu chung vì lợi ích quốc gia – dân tộc.
Bên cạnh đó Đại hội XIII cũng đề ra các giải pháp chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
tồn diện, sâu rộng trên các lĩnh vực kinh tế, văn hố, khoa học, cơng nghệ và giáo dục đào

tạo.
Về lĩnh vực kinh tế, hệ thống cơ chế, chính sách được hồn thiện, cải cách thể chế, luật
pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thúc đẩy hội nhập kinh tế theo hướng phù hợp với


các cam kết quốc tế, phát triển doanh nghiệp Việt Nam thành nòng cốt của kinh tế đất nước
“đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường,
một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những
biến động bên ngoài”1. Đồng thời đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác kinh tế,
đầu tư và thương mại song phương với các đối tác, thiết lập các khuôn khổ hợp tác “thực
hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều
kiện, mục tiêu của đất nước trong từng gia đoạn”2.
Về lĩnh vực văn hoá, đẩy mạnh hợp tác với các đối tác truyền thống và các đối tác tiềm
năng; đa dạng hố về hình thức và nội dung giao lưu văn hoá; đổi mới tư duy, sáng tạo
trong hội nhập văn hoá, “Mở rộng và nâng cao hiệu quả ngoại giao văn hố, đóng góp thiết
thực vào quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc gia và tang cường sức mạnh tổng hợp của đất
nước”3.
Về lĩnh vực khoa học, công nghệ và giáo dục, đào tạo, xây dựng, củng cố, hoàn thiện hệ
thống luật pháp, thể chế thúc đẩy đổi mới sáng tạo giáo dục – đào tạo, hỗ trợ cho Việt Nam
thực hiện các điều ước quốc tế và cam kết quốc tế đã ký kết, đồng thời “đẩy mạnh chuyển
đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng
tạo”4. Tăng cường các chương trình hợp tác song phương trong các lĩnh vực giáo dục, khoa
học và công nghệ.
1.2. Biện pháp trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam của Đảng và Nhà nước.
Bảo vệ chủ quyền biển, đảo là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Đây là
yếu tố quyết định sự phát triển lâu dài của đất nước. Trong bối cảnh tình hình thế giới và
khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, vấn đề cần quan tâm hiện nay là tăng cường sức
mạnh quốc gia, phát triển thế trận quốc phòng trên biển nhằm bảo vệ chủ quyền biển, đảo
vững mạnh.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia

Sự thật, Hà Nội, tr. 135.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, tr. 135.
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, tr. 50.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, tr. 115.
1


Là một quốc gia có biển, an ninh hàng hải có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Việt
Nam, tác động không nhỏ đến phát triển kinh tế biển, bảo đảm quốc phịng, an ninh, bảo vệ
mơi trường hịa bình của đất nước. Tuy nhiên, hiện nay tình hình tranh chấp chủ quyền lãnh
thổ và các vấn đề an ninh phi truyền thống như khủng bố, cướp biển, buôn lậu, tranh chấp
ngư trường, khai thác tài nguyên biển gây ô nhiễm môi trường,… ngày càng trở nên phức
tạp và khó lường.
Hiện có bốn vấn đề lớn liên quan đến chủ quyền biển, đảo của Việt Nam trên Biển Đông
vẫn chưa được giải quyết: Chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa; bảo vệ và giải quyết tranh
chấp chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa giữa 5 nước và 6 bên; phân định ranh giới các
vùng biển theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982; và xác định ranh giới
ngoài vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Cùng với đó, các yếu tố có thể gây mất ổn
định trên Biển Đông tiếp tục được đấu tranh: vi phạm chủ quyền, an ninh; nguy cơ xung đột
vũ trang; tranh chấp biển, đảo và thềm lục địa, v.v.
"Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển", 1Đại
hội Đảng lần thứ 13 tuyên bố. Để nắm vững tinh thần đó, phải thực hiện tốt một số giải
pháp chủ yếu sau:

Một là, bắt đầu xây dựng và thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế biển tồn diện, có
trọng tâm, trọng điểm, với mục tiêu đưa nước ta nhanh chóng trở thành nước mạnh trong
khu vực về kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. an ninh và hợp tác quốc tế.
Nghị quyết số 36-NQ / TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển
Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nêu rõ “Việt Nam phải trở thành quốc gia
mạnh về biển, giàu lên từ biển , phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; phát
triển bền vững kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ". 2Để kinh tế phát triển tương xứng với tiềm năng của biển, gắn phát triển
kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, cần
tổ chức lại nghề khai thác thủy sản. các hoạt động theo hướng giảm đánh bắt gần bờ, đẩy
mạnh đánh bắt xa bờ; thúc đẩy các hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thủy sản bền vững,
Đảng cộng sản Việt Nam (2021) – Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 157
2
Ban Chấp hành Trung ương – Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 Về Chiến lược phát triển bền
vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, H. 2018, tr. 02
1


tăng cường bảo vệ, tái tạo nguồn lợi và môi trường biển, nghiêm cấm các hoạt động đánh
bắt hủy diệt.
Phát triển nhanh một số khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, trọng tâm là công nghiệp
năng lượng, công nghiệp hàng hải, đóng tàu, ni trồng, khai thác và chế biến hải sản chất
lượng cao. Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, hình thành các trung tâm kinh tế mạnh ven biển,
tạo thế dịch chuyển ra biển, gắn với đa dạng hóa các ngành dịch vụ, xuất khẩu, du lịch, dịch
vụ đánh bắt, dầu khí, v.v. Phát triển kinh tế biển đảo, tăng cường nghiên cứu khoa học, thăm
dò, khai thác, nuôi trồng thủy sản, bảo vệ và giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ và an ninh chính trị. Quản trị nhà nước, trật tự an toàn xã hội, mở rộng quan hệ
đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam đều là những
ưu tiên hàng đầu. Xây dựng chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế xã

hội trên biển và hải đảo; tăng cường đầu tư nguồn lực; xây dựng cơ chế, chính sách phịng,
chống thiên tai, bảo vệ mơi trường biển.
Hai là, tạo lực lượng mạnh để quản lý, bảo vệ biển, đảo về mọi mặt. Đầu tư cho lực
lượng làm nhiệm vụ quản lý biển, đảo và hoạt động kinh tế biển, nhất là Hải quân, Cảnh sát
biển, Bộ đội Biên phòng, Dân quân tự vệ biển, Kiểm ngư đủ mạnh. Ngày nay, khả năng
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao là một yêu cầu tối quan trọng. Đặc biệt, Hải quân
nhân dân Việt Nam là lực lượng chuyên trách hoạt động trên biển, có vai trị quan trọng
trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ vùng biển, đảo của Tổ quốc, cần được ưu tiên đầu tư, xây
dựng theo hướng: hiện đại, an chính sách đãi ngộ thỏa đáng, nhất là lực lượng thường xuyên
tuần tra trên biển, bảo đảm các đảo xa bờ. Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng
chuyên làm nhiệm vụ quản lý, duy trì thực thi pháp luật trên biển, cần được tiếp tục củng cố,
hoàn thiện về tổ chức, biên chế, trang bị hiện đại, đủ năng lực để hoàn thành nhiệm vụ. Mục
tiêu ngắn hạn và dài hạn Bộ đội biên phòng phải được trang bị đủ phương tiện kỹ thuật,
phương tiện cơ động đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự, cứu hộ, cứu nạn,
chống buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác trên biên giới. Phương châm vững mạnh, rộng
khắp định hướng cho việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ biển. Có lực lượng dân quân
tự vệ biển ở bất kỳ nơi nào có tàu, thuyền, ngư dân hoạt động và nhân dân sinh sống trên
đảo; lấy doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã làm nòng cốt; tổ chức biên chế phù hợp với
đặc điểm của từng địa phương, bảo đảm chia thành 3 tuyến: lộng, khơi, xa bờ; coi trọng lực
lượng hoạt động trên biển. Kiểm ngư là lực lượng được tổ chức chặt chẽ, hoạt động theo


chức năng, nhiệm vụ nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm của tàu nước
ngoài, hỗ trợ ngư dân, đảm bảo an ninh, trật tự, có vai trị quan trọng trong đấu tranh bảo vệ
chủ quyền của đất nước trên các vùng biển của mình.
Ba là, kiên quyết, kiên trì giải quyết tranh chấp trên biển, đảo bằng biện pháp hịa bình
trên cơ sở luật pháp quốc tế. Là thành viên của Liên hợp quốc, của UNCLOS cũng như
tuyên bố của các bên về cách ứng xử trên biển Đông (DOC), Việt Nam luôn tuân thủ các
quy định của luật pháp quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện
pháp hịa bình, trên cơ sở bình đẳng và tơn trọng lẫn nhau; thơng qua đàm phán, thương

lượng, nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các
bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, vì hịa bình, ổn định
khu vực và quốc tế. Theo tinh thần đó, những vấn đề cịn đang bất đồng, tranh chấp song
phương thì giải quyết song phương; những vấn đề tranh chấp liên quan đến nhiều bên thì
giải quyết đa phương và phải hết sức công khai, minh bạch giữa các bên có liên quan. Trong
khi nỗ lực xử lý các vấn đề nảy sinh ở Biển Đông bằng biện pháp hịa bình, cần kiên quyết,
kiên trì đấu tranh bảo vệ những lợi ích chính đáng của ta trên biển với quyết tâm “Việt Nam
quyết không để một tấc đất, tấc biển nào bị xâm phạm”; kiên trì tìm kiếm một giải pháp lâu
dài và yêu cầu các bên liên quan kiềm chế, khơng có hoạt động làm phức tạp thêm tình
hình, khơng sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tuân thủ cam kết giải quyết bằng
biện pháp hịa bình, trên cơ sở các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, UNCLOS và 05
nguyên tắc chung sống hịa bình, tăng cường nỗ lực xây dựng lòng tin, hợp tác đa phương
về an ninh biển, nghiên cứu khoa học, chống tội phạm; cùng nhau thực hiện nghiêm chỉnh
DOC, hướng tới xây dựng Bộ quy tắc ứng xử COC để Biển Đông thực sự là vùng biển hịa
bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tại các vùng biển khơng phải là tranh chấp,
hồn toàn thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, Việt Nam có quyền áp
dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp với quy định của UNCLOS để bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng.
Bốn là, thực hiện tốt cơng tác đối ngoại quốc phịng. Đối ngoại quốc phòng là vấn đề
quan trọng diễn ra chủ yếu trong thời bình và cả khi có tình huống chiến tranh, thực hiện tốt
vấn đề này góp phần vừa giữ vững độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, hịa bình, ổn định
trên Biển Đơng, vừa duy trì sự ổn định chính trị - xã hội trong nước và mơi trường quốc tế
thuận lợi để phát triển kinh tế. Thực hiện tốt cơng tác đối ngoại quốc phịng trong bối cảnh


hội nhập quốc tế, điều quan trọng trước hết là hợp tác chặt chẽ trên tất cả lĩnh vực, đặc biệt
là giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Các ngành chức năng, trọng tâm là Bộ Quốc
phịng, Bộ Cơng an và Bộ Ngoại giao cần xây dựng, hoàn thiện quy chế phối hợp, trọng tâm
là công tác nghiên cứu cơ bản, phân tích dự báo chiến lược về tình hình thế giới, khu vực,
chiều hướng diễn biến của mối quan hệ quốc tế, về đối tác, đối tượng của cách mạng. Từ đó,

tham mưu cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối chiến lược và các đối sách xử lý thắng
lợi các tình huống quốc phịng, an ninh và đối ngoại. Tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác
quốc phòng với các nước, nhất là các nước trong khu vực và các nước lớn trên thế giới để
tăng sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Hải quân, Cảnh sát biển cần tăng cường giao lưu với
các đối tác, tổ chức các hoạt động phối hợp tuần tra chung, diễn tập, cứu hộ, cứu nạn trên
biển, góp phần giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định và triệt tiêu nguy cơ xung đột trên
biển.
Năm là, tăng cường tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Để
thực hiện thành công nội dung này, các đơn vị Hải qn, Cảnh sát biển, Bộ đội Biên phịng
đóng qn ở các xã ven biển, hải đảo phải phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương,
cơ quan tuyên truyền xây dựng kế hoạch, tổ chức tập huấn. Bồi dưỡng báo cáo viên, biên
soạn và phát hành tài liệu tuyên truyền sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân, nhất là người
dân vùng biển và hải đảo, ngư dân làm ăn trên biển và người Việt Nam sinh sống ở nước
ngồi. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, cơng tác tuyên truyền chủ quyền biển, đảo rất
cần sự phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và các phương tiện
thông tin đại chúng, tất cả đều có sự chỉ đạo của Bộ Giao thơng vận tải. Sự tập trung và
thống nhất của các cơ quan chức năng. Việc cung cấp thông tin kịp thời, minh bạch, chính
xác để mọi người dân trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài và đồng bào trên thế giới hiểu rõ
cơ sở pháp lý, bằng chứng lịch sử và thực tế sở hữu của Việt Nam là đặc biệt quan trọng.
Phía Nam trên các vùng biển và hải đảo trên Biển Đông; hiểu rõ quan điểm, lập trường của
Đảng và Nhà nước ta đối với việc giải quyết vấn đề chủ quyền Biển Đơng; từ đó, xây dựng
niềm tin, ý chí, quyết tâm, sự đồng lịng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự
đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế giới để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo và các
hoạt động khác. Kinh tế biển.
Cùng với việc tuyên truyền về biển, đảo, cần kết hợp phổ biến, giáo dục pháp luật để ngư
dân hiểu rõ các quy định của pháp luật biển Việt Nam và luật pháp quốc tế, cụ thể là Công


ước của Liên hợp quốc về Luật biển. Năm 1982, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển
được phê chuẩn, u cầu ngư dân khơng chỉ tn thủ mà cịn phải kịp thời phát hiện các

hành vi vi phạm pháp luật của tàu, thuyền nước ngoài trên vùng biển Việt Nam. Điều quan
trọng là phải đưa chủ quyền biên giới, lãnh thổ, biển và hải đảo vào chương trình giáo dục
phổ thông và đại học càng sớm càng tốt; nhận thức sâu rộng về chủ quyền lãnh thổ trên biển
của Việt Nam trong cộng đồng người Việt Nam và quốc tế.

II. Vận dụng trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiện nay
2.1. Đánh giá thực tế bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước hiện nay
2.1.1 Thực trạng biển, đảo của đất nước hiện nay
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc. Biển không chỉ
chứa đựng tiềm năng kinh tế to lớn, cửa ngõ mở rộng quan hệ giao thương với quốc tế mà
cịn đóng vai trị quan trọng đảm bảo an ninh, quốc phòng đồng thời là địa bàn chiến lược
trọng yếu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thời gian qua, trên Biển Đông đã và đang tồn tại các vấn đề lớn liên quan đến chủ quyền
lãnh thổ cần phải giải quyết, đó là: bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa; bảo vệ chủ
quyền và giải quyết hịa bình tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa 5 nước 6
bên, gồm Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Brunei, Đài Loan (Trung Quốc);
phân định ranh giới các vùng biển theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm
1982 (UNCLOS 1982) và xác định ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa.
Những năm gần đây, Trung Quốc đã có nhiều hành động xâm hại đến chủ quyền biển
đảo của Việt Nam: bắt ngư dân Việt làm ăn, tấn công các tàu Việt trên vùng biển của chính
Việt Nam, ngang ngược xây dựng thành phố Tam Sa trên quần đảo Hoàng Sa (tháng 11 năm
2007). Năm 2011, căng thẳng dâng lên khi các tranh chấp giữa Trung Quốc với Việt Nam
và Philippines nổ ra. Ngày 26 tháng 5 năm 2011, 3 tàu hải giám của Trung Quốc xâm nhập
lãnh hải của Việt Nam, phá hoại thiết bị và cản trở tàu khảo sát địa chấn Bình Minh 02 của
Tập đồn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đang hoạt động tại vùng biển miền Trung chỉ cách


mũi Đại Lãnh của tỉnh Phú Yên 120 hải lý. Tiếp đó là sự kiện một tàu thăm dị dầu khí khác
của Việt Nam thuê vừa bị tàu Trung Quốc phá hoại thiết bị vào ngày 9 tháng 6. Tháng 5

năm 2014, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa giàn khoan HD-981 vào khu vực Biển Đông
vào ngày 1 tháng 5 năm 2014, dẫn tới việc Việt Nam ra tuyên bố phản đối, đồng thời tàu
thuyền của hai quốc gia đã có một số va chạm. Những hành động nói trên của phía Trung
Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa; xâm phạm quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng
biển của Việt Nam; vi phạm Thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề
trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ký tháng 10/2011; trái với tinh thần Tuyên bố về
ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và Tuyên bố cấp cao kỷ niệm 10 năm DOC, làm
cho tình hình Biển Đơng thêm phức tạp.
2.1.2 Một số hạn chế trong bảo vệ chủ quyền biển,đảo
Một số địa phương, một số ngành chưa thực sự gắn kết phát triển kinh tế biển với bảo
đảm quốc phòng, an ninh. Ngược lại, có một số lĩnh vực của quốc phòng, an ninh chưa
được gắn kết với phát triển kinh tế, làm cho kinh tế biển vốn còn nhiều hạn chế về khoa học
- công nghệ, kỹ thuật và năng lực lại thêm phần bất cập trong công tác bảo vệ, làm hạn chế
quá trình phát triển kinh tế biển gắn với quốc phòng, an ninh. Một số địa phương trong q
trình xây dựng quy hoạch các khu cơng nghiệp, kinh tế tập trung, các dự án ven biển, trên
đảo, chưa chú trọng các phương án xây dựng thế trận quốc phịng, an ninh, chủ yếu chạy
theo lợi ích kinh tế; một số quy hoạch, kế hoạch, nhất là việc xây dựng bến cảng, cơ sở công
nghiệp biển, các khu dịch vụ trên đảo vẫn cịn tràn lan, khơng tn thủ các nguyên tắc
chung... làm ảnh hưởng đến khả năng bảo vệ quốc phòng, an ninh trên biển, đảo. Đây là
điểm cần chú ý khắc phục trong thời gian tới.
Ở trong nước, sự phối hợp, thống nhất nhận thức và hành động về chủ quyền biển, đảo
của một bộ phận nhân dân chưa cao. Các thế lực thù địch ra sức lợi dụng vấn đề biển, đảo
hòng chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Trong điều kiện kinh tế, ngân sách có hạn,
chúng ta chưa thể cùng lúc đầu tư xây dựng được ngay các lực lượng quản lý, bảo vệ biển
đủ mạnh, trang thiết bị, phương tiện còn hạn chế, khó duy trì sự hiện diện thường xun,
liên tục trên toàn bộ vùng biển rộng lớn. Cơ chế phối hợp, chỉ đạo, điều hành tập trung,


thống nhất các lực lượng quản lý, thực thi, bảo vệ chủ quyền biển, đảo còn những bất cập

nhất định.
2.1.3 Hành động của Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo
Nhận thức rõ nguy cơ, thách thức nói trên, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã chủ
động, tích cực giải quyết từng bước những tồn tại về biên giới lãnh thổ trên biển và đất liền
với các nước liên quan nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác, góp phần củng cố hồ
bình, an ninh khu vực, đồng thời tăng cường thế và lực của đất nước thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam đã ký nhiều văn bản với các nước liên
quan đến biển, đảo, như: Thoả thuận khai thác chung vùng biển chồng lấn với Malaysia;
Hiệp định phân định vùng biển chồng lấn với Thái Lan và thực hiện tuần tra chung trên
vùng biển chồng lấn; Hiệp định về biên giới trên bộ và phân định vịnh Bắc Bộ với Trung
Quốc; Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa với Inđônêxia; Hiệp định về biên giới
trên bộ với Campuchia...
Bên cạnh đó, Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển,
tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý và bảo tồn các nguồn tài nguyên
biển phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982), phục
vụ nhiệm vụ tập trung phát triển kinh tế, thúc đẩy quan hệ kinh tế của Việt Nam với các
nước, nâng tầm vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Cụ thể là: Nghị quyết số 09-NQ/TW
ngày 09/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược biển Việt Nam đến
năm 2020. Trên cơ sở đó, ngày 30/5/2007 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/CP
về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Ban
chấp hành Trung ương Đảng. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018, Hội nghị lần thứ
tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế
biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trên cơ sở đó, ngày 05/3/2020 Hội
nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành nghị quyết số
26/NQ-CP Ban hành Kế hoạch tổng thể và kế hoạch 5 năm của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm
2030, tầm nhìn đến năm 2045.


Không những thế, các thế lực thù địch rêu rao: “Khi đối đầu với Trung Quốc trên Biển

Đông, tại các vùng tranh chấp, Quân đội Việt Nam không dám nổ súng, không dám đấu
tranh, để mặc Trung Quốc muốn làm gì thì làm…”. Những luận điệu đó là hồn tồn xun
tạc, khơng đúng sự thật, cố tình kích động gây căng thẳng tình hình với mục đích đẩy chúng
ta vào cuộc đối đầu quân sự có thể dẫn đến hậu quả khó lường.Thực tiễn cho thấy, trong
suốt thời gian Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam trên biển, một trong những lực
lượng thuộc biên chế của Quân đội Việt Nam ln ln có mặt 24/24h, thực hiện các hoạt
động đấu tranh nhằm giữ vững chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Lực lượng đó chính là
Cảnh sát biển Việt Nam. Theo thống kê sơ bộ của Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, từ
năm 2008 đến năm 2019, lực lượng này đã phát hiện hơn 39.800 lượt/chiếc tàu nước ngồi
vi phạm vùng biển Việt Nam. Trong đó, phát hiện, theo dõi 850 lượt tàu quân sự, 2.287 lượt
tàu chấp pháp, trên 4.000 lượt giàn khoan, tàu nghiên cứu thăm dị, tàu nước ngồi phụ hành
và dịch chuyển bất hợp pháp trên vùng biển Việt Nam và đã yêu cầu trên 26.800 lượt/chiếc
tàu vi phạm ra khỏi vùng biển Việt Nam

2.2 Quan điểm của các bên trong vấn đề tranh chấp biển, đảo
Biển Đông đã và đang tồn tại các vấn đề lớn liên quan đến chủ quyền lãnh thổ cần phải
giải quyết đó là: bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa; bảo vệ chủ quyền và giải quyết
hịa bình tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Trường Sa giữa 5 nước 6 bên, gồm Việt Nam,
Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Brunei, Đài Loan (Trung Quốc); phân định ranh giới
các vùng biển theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982)
và xác định ranh giới ngoài của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Bên cạnh đó vẫn
cịn rất nhiều nhân tố cố tình xâm phạm chủ quyền, an ninh biển đảo Việt Nam gây nên
nguy cơ xung đột vũ trang, tranh chấp trên biển, đảo và thềm lục địa
Nhận thức được những thách thức và nguy cơ vẫn luôn hiện hữu, Đảng và Nhà nước ta
đã chủ động, tích cực giải quyết từng bước những tồn tại về biên giới lãnh thổ trên biển và
đất liền với các nước liên quan nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị, hợp tác, góp phần củng cố
hồ bình, an ninh khu vực, đồng thời tăng cường thế và lực của đất nước. Song song với đó
là việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc.



Ðảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định trong Nghị quyết Ðại hội XII của Ðảng, đó
là: “...Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để phát triển đất
nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều
sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội
nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường
quốc tế”.
Chủ trương giải quyết các tranh chấp ở Biển Ðông thơng qua biện pháp hồ bình trên
tinh thần hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên
Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả thỏa thuận quan
trọng với các nước trong khu vực và giữ vững chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Quan hệ
đối ngoại, hợp tác quân sự, quốc phòng của Ðảng, Nhà nước ta ngày càng mở rộng
Mỹ và một số nước khác đã lên tiếng công khai phản đối Trung Quốc, ủng hộ Việt Nam về
tình hình Biển Ðơng.Trước hết là Mỹ lo ngại về quyền tự do đi lại trên biển Đông và hoạt
động kinh doanh của công ty năng lượng của Mỹ.Mỹ ln quan tâm đến vai trị của biển và
quyền lực biển đối với xây dựng, phát triển và bảo vệ an ninh đất nước, Biển Đông là một
mắt xích quan trọng trong sự điều chỉnh chiến lược từ châu Âu - Đại Tây Dương sang châu
Á - Thái Bình Dương.vùng biển này ngày càng chiếm giữ vị thế quan trọng trong chiến lược
biển, quyền lực biển của Mỹ do Biển Đông tiếp tục là một trong những tuyến đường biển
nhộn nhịp nhất, quan trọng nhất của thế giới nối liền châu Âu với châu Á, Thái Bình Dương
với Ấn Độ Dương. sự dịch chuyển cán cân quyền lực thế giới từ châu Âu sang châu Á. Mỹ
vẫn theo đuổi chính sách trung lập, khơng đứng về bên nào, mặt khác, đang ngày càng dính
líu sâu vào quá trình giải quyết tranh chấp giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á
trên Biển Đông.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Xuân Oánh (13/7/2020) đã liên tục bày tỏ
quan điểm phản bác sau khi Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo ra “Tuyên bố lập trường của
Mỹ về yêu sách trên Biển Đông”, bằng cách cho rằng “đường 9 đoạn” đã được chính phủ
Trung Quốc vẽ trên bản đồ từ năm 1948 và người Trung Quốc đã có hoạt động trên Biển
Đông từ hơn 2.000 năm trước. Bà Doanh cũng đồng thời nêu lại cái gọi là “quyền lịch sử”
với khu vực này và cho rằng hơn 70 năm qua, Trung Quốc “đã lấy lại Nam Sa và Tây Sa



(quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam) một cách hợp pháp từ Nhật Bản và thực
thi chủ quyền ở khu vực này...”.
Trong khi đấy, lợi dụng thời cơ, phần tử phản động và thế lực thù địch đã xuyên tạc, nói
xấu chế độ, nói xấu Ðảng, Nhà nước, quân đội: “Việt Nam phải đi theo Mỹ để chống lại
Trung Quốc”, “Việt Nam đánh Trung Quốc lúc này, cả thế giới sẽ ủng hộ”.
Trước tình hình trên, quan điểm của Ðảng, Nhà nước ta về giải quyết những mâu thuẫn
trên biển hiện nay là thực hiện tốt phương châm: Bốn khơng, bốn tránh, chín K, bốn giữ
vững.
Bốn khơng: không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống
nước kia, khơng cho nước ngồi đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để
chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc
tế.
Bốn tránh: tránh xung đột, tránh đối đầu, tránh bị cơ lập về chính trị, tránh bị lệ thuộc về
chính trị.
Chín K: kiên quyết, kiên trì, khơn khéo, khơng khiêu khích, khơng mắc mưu khiêu
khích, kiềm chế, khơng để nước ngồi lấn chiếm và khơng để xảy ra xung đột, đụng độ,
không nổ súng trước.
Bốn giữ vững: giữ vững chủ quyền quốc gia; giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để
phát triển; giữ vững quan hệ hữu nghị, hợp tác Việt - Trung; giữ vững ổn định chính trị
trong nước.
Trước những vấn đề trên, có quan điểm cho rằng Đảng nhà nước ta cần kiện Trung Quốc
ra tòa trọng tài quốc tế và phải tiến đánh Trung Quốc. Nhưng nước ta hiện nay vẫn chưa
kiện chứ không phải là khơng kiện , với chủ trương hịa bình theo từng cấp độ tùy theo diễn
biến của tình hình và trên cơ sở hữu nghị trong mối quan hệ với Trung Quốc.
Khi chúng ta đã dùng hết mọi biện pháp hồ bình, khơng cịn biện pháp nào khác thì chúng
ta buộc phải tiến hành chiến tranh để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo
của Tổ quốc. Khi buộc phải đánh, chúng ta sẽ đánh và đã đánh là phải thắng.
2.3. Nhiệm vụ của sinh viên trong góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam, bảo đảm quốc phòng – an ninh trên
biển là nội dung chiến lược, mang tính cấp bách, then chốt hiện nay. Trách nhiệm thiêng


liêng này thuộc về mỗi công dân Việt Nam đối với lịch sử dân tộc, trong đó trách nhiệm,
nghĩa vụ và vai trị xung kích thuộc về thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng, đây là nhân
tố quan trọng bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng đất nước và phát triển bền vững hiện nay và
trong tương lai.
Để thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng làm tốt việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần
phải tập trung vào một số nội dung sau:
Thứ nhất là, cần bám sát tình hình thực tiễn, khơng ngừng đổi mới nội dung, đa dạng
hóa hình thức, phương pháp tun truyền phù hợp với trình độ của sinh viên về vấn đề biển,
đảo, biên giới; đẩy mạnh công tác tuyên truyền về quan điểm, đường lối của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước về chủ quyền biển, đảo, quyền tài phán quốc gia trên các vùng
biển, đảo và quần đảo.
Thứ hai là, cần chú trọng tổ chức các buổi toạ đàm; Hội thi tìm hiểu kiến thức về chủ
quyền biển, đảo trong sinh viên; tăng cường tổ chức cho sinh viên đi thăm và tiến hành các
hoạt động nghiên cứu thực tế trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc để sinh viên hiểu và nắm
vững các vùng, khu vực thuộc chủ quyền có lịch sử lâu đời của Việt Nam cũng như chủ
quyền và quyền chủ quyền đối với biển, đảo Việt Nam được xác lập trên cơ sở các điều
khoản quy định trong Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982; khẳng định, củng cố niềm
tin cho nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế nói chung cũng như đối với thanh niên về
chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Thứ ba là, cần thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho thanh niên về vai trò,
trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng những hình thức khác nhau
như tổ chức các cuộc hội thảo thanh niên, tham gia tình nguyện vào các chương trình tun
truyền trong cộng đồng... Đây là cơng việc đầu tiên nhằm giúp thanh niên nâng cao nhận
thức và xác định rõ vai trị, trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, đặc biệt là bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Thứ tư là, cần củng cố niềm tin, thái độ, động cơ và ý chí bảo vệ chủ quyền biển, đảo

của Tổ quốc trong thanh niên, để từ đó họ biến ý chí thành hành động thiết thực. Đây cũng
là một công việc quan trọng nó góp phần vào thực hiện thắng lợi vai trò của thanh niên với
các nhiệm vụ được giao. Để củng cố niềm tin, thái độ, động cơ và ý chí cho thanh niên, phải
tăng cường cơng tác tun truyền để thanh niên thấy rõ thực lực, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc


của ta; nắm vững tư tưởng, phương châm chỉ đạo giải quyết các vấn đề về biển đảo của
Đảng. Qua đó, giúp cho thanh niên có được những nhận thức đúng, tin tưởng tuyệt đối vào
sự lãnh đạo của Đảng trong giải quyết các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc gia, nhất là
vấn đề biển, đảo. Ngoài ra, chính bản thân mỗi thanh niên phải tự ý thức được rằng mình
phải làm gì và nên làm gì. Tích cực tham gia các hoạt động của thanh thiếu không e ngại rụt
rè.
Thứ năm là, cần có các hình thức ghi nhận, biểu dương, khen thưởng cụ thể đối với sinh
viên khi tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; chính sách hỗ trợ cho sinh viên
về các dự án bảo vệ, phát triển kinh tế biển, cải thiện đời sống của nhân dân trên các vùng
đảo, quần đảo. Đây là việc làm cần thiết và phải được làm thường xuyên, liên tục nhằm
khích lệ, động viên, tạo mơi trường để sinh viên tích cực tìm hiểu kiến thức, hăng hái tham
gia bằng các hành động cụ thể để góp phần bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc.
Trong những năm qua. Đã có rất nhiều phong trào, vận động cụ thể như : “Tuổi trẻ Việt
Nam học tập và làm theo lời Bác”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc”, “Nghĩa tình biên
giới, hải đảo”, “Vì Trường Sa thân yêu”, “Góp đá xây Trường Sa”, “Đồng hành cùng ngư
dân trẻ ra khơi”, “Tuổi trẻ hướng về biển, đảo của Tổ quốc”,
Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Bộ đội Hải quân
(năm 1961): “Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn
lấy nó”, lực lượng thanh niên ngày nay hãy cùng chung tay phấn đấu, học tập, thực hiện tốt
vai trị và trách nhiệm của mình để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo Tổ quốc. Bởi
“Đâu cần thanh niên có đâu khó có thanh niên” - lời dạy của bác mỗi thanh niên – thế hệ trẻ
chúng ta hơm nay cần khắc ghi trong lịng.



PHẦN KẾT LUẬN
Trong khn khổ bài tiểu luận này nhóm tác giả đã làm rõ công tác đối ngoại, hội
nhập quốc tế của Đảng cũng như thực trạng và thách thức của Việt Nam trong vấn
đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo, từ đó đề xuất các giải pháp hợp lý nhằm nâng cao
vị thế đất nước cũng như bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ. Nhìn chung, dù cịn nhiều hạn chế song Đảng ta đã có những chính
sách đúng đắn, phát triển, góp phần tích cực vào cơng cuộc đấu tranh vì hồ bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không nên chủ
quan mà phải luôn chủ động tổng hợp, đánh giá các kết quả, tính hiệu quả trong
thực tiễn để ngày càng hồn thiện các chính sách, đường lối, chính như vậy thì đất
nước Việt Nam mới phát triển một cách bền vững được.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối khơng chun ngành
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Tập
1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập
I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 157
4. Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22/10/2018 Về Chiến lược
phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, H. 2018,
tr. 02
5.Bùi Thanh Sơn (29/11/2021), Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát triển
và hoàn thiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới. Truy cập từ />6.PGS, TS Hoàng Phúc Lâm (15/03/2022), Hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng nhằm thực
hiện khát vọng phát triển đất nước. Truy cập từ
/>7. Trương Tấn Sang Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (15:57, ngày 19-08-2019), Bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc
trong tình hình mới, truy cập từ:

/>8. Wikipedia, Tranh chấp chủ quyền Biển Đông, truy cập từ:
/>81n_Bi%E1%BB%83n_%C4%90%C3%B4ng


9. Đỗ Nhật Thiện – Khoa K6 (2021), Tiếp tục giữ vững chủ quyền biển, đảo theo quan
điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, truy cập từ: />10. Xuân Thu,” Quan điểm của Đảng ta về giải quyết vấn đề Biển Đông hiện nay” Truy cập
từ:
/>11. PGS, TS Hà Mỹ Hương – Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
(2014), “Chính sách biển Đơng của Mỹ hiện nay?” Truy cập từ:
/>12. Cẩm Linh(Thứ năm, 21/07/2022) “Hành trình tri ân - Sinh viên với biển, đảo Tổ quốc”
Truy cập từ : />13. Hữu Phương - Ban TTNTH (22/10/2021 ) Nâng cao nhận thức, hành động của sinh viên
với chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Truy cập từ :
/>



×