Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.13 KB, 101 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
PHẦN MỞ ĐẦU
Thế giới ngày nay đang đứng trước xu hướng mang tính quy luật là các
nền kinh tế của các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau, hợp tác chặt chẽ
ở phạm vi khu vực cũng như toàn cầu, biểu hiện rõ nét của xu thế này chính là
việc ra đời của các liên kết khu vực và quốc tế như ASEAN, EU,WTO...mục
tiêu là thúc đẩy tự do hoá thương mại quốc tế, giảm dần và tiến tới xoá bỏ
các hàng rào bảo hộ do các quốc gia áp đặt nhằm cản trở tự do hoá thương
mại. Có thể nói điều đó đem lại cho Việt Nam ta những cơ hội và cũng đặt ra
nhiều thách thức.
Với việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức
thương mại thế giới WTO, các ngân hàng nước ngoài sẽ mở rộng mạng lưới
hoạt động tại Việt Nam và cũng được thực hiện đầy đủ các hoạt động ngân
hàng. Với các thế mạnh về vốn, kinh nghiệm, kỹ thuật các ngân hàng nước
ngoài sẽ là những đối thủ cạnh tranh lớn của các Ngân hàng thương mại Việt
Nam trong đó có Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô. Do vậy, để tồn tại, đứng
vững và phát triển Ngân hàng phải tìm được các giải pháp tốt nhất để tăng
cường năng lực cạnh tranh của đơn vị mình trên cả thị truờng trong và ngoài
nước.
Trước tình hình đó, Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô đặt ra mục tiêu là
phải đầu tư nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị truờng.
Trong quá trình thực tập tại Ngân hàng, được tiếp xúc trực tiếp và làm việc
với các anh chị cán bộ Ngân hàng, nhất là trong thời gian làm việc tại Phòng
kinh doanh, được nắm rõ hơn về tình hình hoạt động và nhận thức được rõ
hơn các khó khăn, hạn chế trong quá trình đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh của đơn vị. Nhằm vận dụng những kiến thức đã tìm hiểu được và góp
một vài ý kiến trong quá trình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng, em đã lựa chọn đề tài: ‘’ Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại
Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô’’.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
1


Khoá luận tốt nghiệp
Kết cấu của chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại
NHTM.
Chương II: Tình hình đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của Chi
nhánh Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô.
Chương III: Gíải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh của Chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô.
Trong quá trình viết chuyên đề tốt nghiệp, em đã nhận được sự giúp
đỡ rất lớn của thầy giáo TS. Phạm Văn Hùng về kiến thức và định hướng,
cùng sự giúp đỡ tận tình của các anh, chị trong phòng Kinh doanh của Chi
nhánh Ngân hàng NN&PTNT Thủ đô. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo
TS. Phạm Văn Hùng và những người đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập
và nghiên cứu.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
2
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
TẠI NHTM
I. Năng lực cạnh tranh và đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
NHTM
1. Năng lực cạnh tranh
Theo WEF (1997) báo cáo về khả năng cạnh tranh toàn cầu thì năng lực
cạnh tranh đựơc hiểu là khả năng, năng lực mà doanh nghiệp có thể duy trì vị
trí của nó một cách lâu dài và có ý chí trên thị trường cạnh tranh, bảo đảm
thực hiện một tỷ lệ lợi nhuận ít nhất bằng tỷ lệ đòi hỏi tài trợ những mục tiêu
của doanh nghiệp, đồng thời đạt được được những mục tiêu của doanh nghiệp
đặt ra. Năng lực cạnh tranh có thể chia làm 3 cấp:
- Năng lực cạnh tranh quốc gia: là năng lực của một nền kinh tế đạt

được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, đảm bảo ổn định kinh tế, xã
hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là khả năng duy trì và mở
rộng thị phần, thu lợi nhuận của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh
trong và ngòai nước. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện qua hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp, lợi nhuận và thị phần mà doanh nghiệp đó
có đựơc.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ: được đo bằng thị phần
của sản phẩm dịch vụ thể hiện trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của sản
phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh của nó. Nó dựa vào chất
lượng, tính độc đáo của sản phẩm, dịch vụ, yếu tố công nghệ chứa trong sản
phẩm dịch vụ đó.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
3
Khoá luận tốt nghiệp
2. Các loại hình cạnh tranh
Dựa vào các tiêu thức khác nhau, cạnh tranh được phân ra thành nhiều loại.
* Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường
Cạnh tranh được chia thành 3 loại.
- Cạnh tranh giữa người mua và người bán: Người bán muốn bán hàng
hoá của mình với giá cao nhất, còn người mua muốn bán hàng hoá của mình
với gái cao nhát, còn người mua muốn muc với giá thấp nhất. Giá cả cuối
cùng được hình thành sau quá trình thương lượng giữ hai bên.
- Cạnh tranh giứa những người mua với nhau: Mức độ cạnh tranh
phụ thuộc vào quan hệ cùng cầu trên thị trường. Khi cung nhỏ hơn cầu thì
cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt, giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ tăng lê, người
mua phải chấp nhận giá cao để mua được hàng hoá hoá mà họ cần.
- Cạnh tranh giữa những nguời bán với nhau: Là cuộc cạnh tranh
nhằm giành giật khách hàng và thị trường, kết quả là giá cả giảm xuống và có
lợi cho người mua. Trong cuộc cạnh tranh này, doanh nghiệp nào tỏ ra đuối

sức, không chịu được sức ép sẽ phải rút lui khỏi thị trường, nhường thị phần
của mình cho các đối thủ mạnh hơn.
* Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế
Cạnh tranh được phân thành hai loại.
- Cạnh tranh trong nội bộ nghành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một loại hàng hoá hoặc dịch
vụ. Kết quả của cuộc cạnh tranh này là làm cho kỹ thuật phát triển.
- Cạnh tranh giữa các nghành: Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trong các nghành kinh tế với nhau nhằm thu được lợi nhuận cao nhất.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
4
Khoá luận tốt nghiệp
Trong quá trình này có sự phận bổ vốn đầu tư một cách tự nhiên giưã các
nghành, kết quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
* Căn cứ vào tính chất cạnh tranh
Cạnh tranh được phân thành 3 loại.
- Cạnh tranh hoàn hảo (Perfect Cometition): Là hình thức cạnh tranh
giữa nhiều người bán trên thị trờng trong đó không người nào có đủ ưu thế
khống chế giá cả trên thị trường. Các sản phẩm bán ra đều được người mua
xem là đồng thức, tức là không khác nhua về quy cách, phẩm chất mẫu mã.
Để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh các doanh nghiệp buộc phải tìm cách
giảm chi phí, hạ giá thành hoặc làm khác biệt hoá sản phẩm của mình so với
các đối thủ cạnh tranh
- Cạnh tranh không hoàn hảo (Imperfect Competition) Là hình thức
cạnh tranh giữa những người bán có các sản phẩm không đồng nhất với nhau.
Mỗi sản phẩn đều mang hình ảnh hay uy tín khác nhau cho nên để giành đựơc
ưu thế trong cạnh tranh, người bán phảo sử dụng các công cụ hỗ trợ bán như:
Quảng cáo, khuyến mại, cung cấp dịch vụ, ưu đãi giá cả, đây là loại hình cạnh
tranh phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
- Cạnh tranh độc quyền (Monopolistic Competition): Trên thị trường

chỉ có nột hoặc một số ít người bán một sản phẩm hoặc dịch vụ vào đó, giá cả
của sản phẩm hoặc dịch vụ đó trên thị trường sẽ do họ quyết định không phụ
thuộc vào quan hệ cung cầu.
* Căn cứ vào thủ đoạn sử dụng trong cạnh tranh
Cạnh tranh được chia thành.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
5
Khoá luận tốt nghiệp
- Cạnh tranh lành mạnh. Là cạnh tranh đúng luật pháp, phù hợp với
chuẩn mực xã hội và đợc xã hội thừa nhận, nó thướng diễn ra sòng phẳng,
công bằng và công khai.
- Cạnh tranh không lành mạnh. Là cạnh tranh dựa bào kẽ hổ của luật
pháp, trái với chuẩn mực xã hội và bị xã hội lên án ( như trốn thuế buôn lậu,
móc ngoặc, khủng bố vv...)
3. Năng lực cạnh tranh của NHTM
3.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại
Theo Luật Các tổ chức tín dụng của các nước CHXHCN Việt Nam: ‘’
Ngân hàng thương mại là trung gian kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và
sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Căn cứ trên phương diện những loại hình dịch vụ mà Ngân hàng cung
cấp thì ‘’Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính thực hiện chức năng
kinh doanh tiền tệ với nội dung cơ bản là nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi đó để
cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán’’.
Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản
nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương
mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm
vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích
kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động vốn
thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi

nhuận của ngân hàng thương mại.. Hoạt động của ngân hàng thương mại phục
vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh
nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
6
Khoá luận tốt nghiệp
3.2 Các hoạt động của Ngân hàng thương mại.
3.2.1 Hoạt động huy động vốn
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền của ngân hàng. Ngân hàng mở các tài khoản tiền gửi để huy động được
tiền của các tổ chức, các doanh nghiệp và dân cư. Ngân hàng có rất nhiều các
hình thức huy động khác nhau để có thể tăng lượng tiền gửi của ngân hàng
mình như: tiền gửi có kì hạn của các tổ chức xã hội, tiền gủi tiết kiệm của dân
cư, nguồn tiền gửi thanh toán. Ngoài ra, ngân hàng có thể phát hành trái phiếu
hoặc đi vay từ NHNN, các tổ chức tín dụng để đảm bảo khả năng thanh
khoản, đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng khi cần thiết. Hoạt động
huy động vốn đem lại lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng. Ngân hàng
huy động được lượng vốn lớn với chi phí thấp và cho các doanh nghiệp, cá
nhân vay lại với lãi suất cao hơn.
3.2.2 Hoạt động trung gian thanh toán
Ngân hàng chính là trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết
các nước. Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá, dịch vụ thay cho
khách hàng. Để việc thanh toán trở nên nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi
phí đối với khách hàng, ngân hàng đưa cho khách hàng nhiều hình thức thanh
toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…cung cấp
mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách
hàng cần.Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua
Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Các trung
tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua
ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có

hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
3.2.3 Hoạt động cho vay
Hoạt động cho vay là hoạt động sinh lời, đem lại thu nhập chủ yếu cho
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
7
Khoá luận tốt nghiệp
các ngân hàng, quyết định sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Các
NHTM hiện nay đã đưa ra nhiều hình thức cho vay khác nhau để đáp ứng
được tối đa nhu cầu của khách hàng bao gồm: cho vay tiêu dùng, cho vay
kinh doanh, cho vay xây dựng nhà cửa, cho vay du học… Nhưng nhìn chung
đối tượng mà các NHTM cho vay là các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế.
3.2.4 Hoạt động bảo lãnh
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, qua đó
khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện
được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Thông qua hoạt động
bảo lãnh ngân hàng thu được khoản phí bảo lãnh của khách hàng, ngân hàng
có thể yêu cầu khách hàng ký quỹ, tạo nguồn tiền thanh toán cho ngân hàng
với mức lãi suất rất thấp. Bảo lãnh cũng góp phần mở rộng các dịch vụ khác
như kinh doanh ngoại tệ, tư vấn, thanh toán…
3.2.5 Thuê mua
Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa
chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong
đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường
phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho
thuê (thời hạn khoáng 80-90% đời sống kinh tế của tài sản). Do vậy, cho thuê
của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay.
3.2.6 Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có rất nhiều
chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhờ
ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác

phát triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư… . Nhiều
khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân
hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán,
sáp nhập doanh nghiệp.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
8
Khoá luận tốt nghiệp
3.2.7 Tài trợ các hoạt động của Chính phủ
Do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ,
chính phủ buộc NHTM mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định
trên tổng lượng tiền mà ngân hàng huy động được.
- Bảo quản tài sản hộ
- Bảo lãnh
- Cho thuê thiết bị trung và dài hạn
- Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn như uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho
vay hộ, uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư...
- Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
- Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Bên cạnh đó các Ngân hàng lớn thường cung cấp dịch vụ ngân hàng đại
lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền
gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ...
3.2 Năng lực cạnh tranh của NHTM
3.2.1 Khái niệm năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và những
đặc điểm cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng.
Cũng giống như mọi doanh nghiệp, NHTM cũng là một doanh nghiệp
và là một doanh nghiệp đặc biệt, vì thế NHTM cũng tồn tại vì mục đích cuối
cùng là lợi nhuận. Vì thế, các NHTM cũng tìm đủ mọi biện pháp để cung cấp
sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao với nhiều lợi ích cho khách hàng, với
mức giá và chi phí cạnh tranh nhất, bên cạnh sự đảm bảo về tính chính xác,
độ tin cậy và sự tiện lợi nhất nhằm thu hút khách hàng, mở rộng thị phần để

đạt được lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng. Cạnh tranh trong NHTM là cũng
là sự tranh đua, giành dựt khách hàng dựa trên tất cả những khả năng mà ngân
hàng có được để đáp ứng nhu cầu của khách hàng về việc cung cấp những sản
phẩm dịch vụ có chất lượng cao, có sự đặc trưng riêng của mình so với các
NHTM khác trên thị trường, tạo ra lợi thế cạnh tranh, làm tăng lợi nhuận ngân
hàng, tạo được uy tín, thương hiệu và vị thế trên thương trường. Do đó, có thể
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
9
Khoá luận tốt nghiệp
nói năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng tự duy trì một cách lâu dài, có
ý thức về các lợi thế của đơn vị như về vốn, công nghệ, nhân lực... trên thị
trường để đạt được mức lợi nhuận và thị phần nhất định hoặc khả năng chống
lại một cách thành công sức ép của các lực lượng cạnh tranh.
Với những đặc điểm chuyên biệt của mình, sự cạnh tranh trong lĩnh
vực ngân hàng cũng có những đặc thù nhất định:
- Lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng có liên quan trực tiếp đến tất cả
các ngành, các mặt của đời sống kinh tế -xã hội. Do đó:
NHTM cần có hệ thống sản phẩm đa dạng, mạng lưới chi nhánh rộng
và liên thông với nhau để phục vụ mọi đối tượng khách hàng và ở bất kỳ vị trí
địa lý nào.
NHTM phải xây dựng được uy tín, tạo được sự tin tưởng đối với khách
hàng vì bất kỳ một sự khó khăn nào của NHTM cũng có thể dẫn đến sự suy
sụp của nhiều chủ thể có liên quan.
- Lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng là dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ có
liên quan đến tiền tệ. Đây là một lĩnh vực nhạy cảm nên:
Năng lực của đội ngũ nhân viên ngân hàng là yếu tố quan trọng nhất
thể hiện chất lượng của sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Yêu cầu đối với đội ngũ
nhân viên ngân hàng là phải tạo được sự tin tưởng với khách hàng bằng kiến
thức, phong cách chuyên nghiệp, sự am hiểu nghiệp vụ, khả năng tư vấn và
đôi khi cả yếu tố hình thể.

Dịch vụ của ngân hàng phải nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, bảo
mật và đặc biệt quan trọng là có tính an toàn cao đòi hỏi ngân hàng phải có cơ
sở hạ tầng vững chắc, hệ thống công nghệ hiện đại. Hơn nữa, số lượng thông
tin, dữ liệu của khách hàng là cực kỳ lớn nên yêu cầu NHTM phải có hệ
thống lưu trữ, quản lý toàn bộ các thông tin này một cách đầy đủ mà vẫn có
khả năng truy xuất một cách dễ dàng. Ngòai ra, do dịch vụ tiền tệ ngân hàng
có tính nhạy cảm nên để tạo được sự tin tưởng của khách hàng chọn lựa sử
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
10
Khoá luận tốt nghiệp
dụng dịch vụ của mình, ngân hàng phải xây dựng được uy tín và gia tăng giá
trị thương hiệu theo thời gian.
- Để thực hiện kinh doanh tiền tệ, NHTM phải đóng vai trò tổ chức
Trung gian huy động vốn trong xã hội. Nguồn vốn để kinh doanh của
ngân hàng chủ yếu từ vốn huy động được và chỉ một phần nhỏ từ vốn tự có
của ngân hàng. Do đó yêu cầu ngân hàng phải có trình độ quản lý chuyên
nghiệp, năng lực tài chính vững mạnh cũng như có khả năng kiểm soát và
phòng ngừa rủi ro hữu hiệu để đảm bảo kinh doanh an toàn, hiệu quả.
- Chất liệu kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, mà tiền tệ là một
Công cụ được Nhà nước sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Do đó,
chất liệu này được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ. Hoạt động kinh doanh của
NHTM ngòai tuân thủ các quy định chung của pháp luật còn chịu sự chi phối
bởi hệ thống luật pháp riêng cho NHTM và chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Trung ương.
3.2.2 Các công cụ cạnh tranh của NHTM
3.2.2.1 Cạnh tranh bằng chất lượng
Trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, khi mà khoa học công nghệ phát
triển như vũ bão, sản phẩm ra đời ngày càng phong phú đa dạng, tạo thuận lợi
cho sự lựa chọn của người tiêu dùng và đặt nhà sản xuất trước các áp lực cạnh
tranh ngày càng gay gắt và để chiến thắng trong cạnh tranh thì buộc các nhà

sản xuất phải nghiên cứu vận dụng nhiều phương thức và công cụ cạnh tranh
khác nhau. Một công cụ quan trọng hay được vận dụng hiện nay là nâng cao
chất lượng sản phẩm dịch vụ cung cấp. Nhưng đối với một số ngành, thì “chất
lượng” lại có tính chất định tính hơn là định lượng và nó được xác định chủ
yếu thông qua sự kiểm định đánh giá của chính khách hàng sử dụng sản phẩm
dịch vụ đó. Vì thế, việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàm ý phải từng bước
thoả mãn cao nhất những yêu cầu, đòi hỏi từ phía khách hàng.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
11
Khoá luận tốt nghiệp
Đối với các NHTM để cạnh tranh bằng chất lượng phải xây dựng thật
tốt chiến lược bằng công nghệ và chiến lược nguồn nhân lực bên cạnh với
việc kết hợp chiến lược thị trường, chiến lược kinh doanh phù hợp. Chỉ có
như vậy, các sản phẩm dịch vụ mà NHTM cung ứng mới đáp ứng đúng và
đầy đủ, kịp thời nhu cầu từ phía khách hàng.
3.2.2.2 Cạnh tranh bằng giá cả
Giá cả phản ánh giá trị của sản phẩm, giá cả có vai trò quan trọng đối
với quyết định của khách hàng. Đối với các NHTM, giá cả chính là lãi suất và
mức phí áp dụng cho các DV cung ứng cho các KH của mình. Trong việc xác
định mức lãi suất và phí, các NHTM luôn phải đối mặt với những mâu thuẫn:
Nếu như NHTM quan tâm tới khả năng cạnh tranh để mở rộng thị phần, thì
cần phải đưa ra các mức lãi suất và phí ưu đãi cho các KH của mình, tuy
nhiên, điều này sẽ làm giảm thu nhập của NHTM, thậm chí có thể khiến NH
bị lỗ. Nhưng nếu NHTM chỉ chú trọng đến thu nhập thì phải đưa ra mức lãi
suất và phí sao cho đáp ứng được mục tiêu tăng thu nhập, tuy nhiên, điều này
có thể dẫn đến NH sẽ bị mất dẫn KH, giảm thị phần trong KD, bởi suy cho
cùng thì KH luôn quan tâm tới mục tiêu tối thượng trong KD trên thương
trường làm tối đa hoá lợi nhuận, mà để đạt được điều đó thì cần tiết giảm các
chi phí đầu vào. Điều này có nghĩa là cạnh tranh bằng giá cả đang trở thành
một biện pháp nghèo nàn nhất, vì nó làm giảm bớt lợi nhuận tiêu thu được của

các NHTM. Xuất phát từ mâu thuẫn trên, việc định giá theo đúng ngang giá
trị thị trường sẽ cho phép các NHTM giữ được khách hàng, duy trì và phát
triển thị trường. Trên thực tế, việc vận dụng nhân tố giá để cạnh tranh chỉ phù
hợp khi xâm nhập thị trường mới và để vận dụng tốt công cụ này, các NHTM
thường đưa ra mức lãi suất thấp hơn mức lãi suất của các đối thủ nhằm lôi kéo
khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Lãi suất và phí là tín hiệu phản ánh tình
hình biến động của thị trường, là thông số qua đó các NHTM có thể nắm bắt
được khả năng thanh toán của KH cũng như khả năng cạnh tranh của các đối
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
12
Khoá luận tốt nghiệp
thủ trên thương trường. Do vậy, việc xác định lãi suất trên thị trường là quan
trọng, song theo dõi thông tin phản hồi từ khách hàng là rất cần thiết để
NHTM đưa ra mức lãi suất và phí có tính cạnh tranh Đôi khi lãi suất và phí
mà các NHTM xác định chỉ thu được lợi nhuận nhỏ, hoà vốn thậm chí chịu
thua lỗ tạm thời. Khi thực sự chiếm lĩnh thị trường, cũng là lúc NHTM lấy lại
những gì đã chi phí trong cạnh tranh
3.2.2.3 Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối
Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình
kinh doanh. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm chính là hình thức cạnh tranh phi giá
cả và gây ra sự chú ý và thu hút khách hàng. Sản phẩm DV của NH có một
trong những đặc tính là nhanh tàn lụi, không thể lưu trữ, nên việc xây dựng
các kênh phân phối (mạng lưới bán hàng) trở thành một vấn đề hết sức trọng
yếu trong kinh doanh ở các NH. Kênh phân phối là phương tiện trực tiếp đưa
sản phẩm DV của NH đến KH, đồng thời giúp NH nắm bắt chính xác và kịp
thời nhu cầu của KH, qua đó, NH chủ động trong việc cải tiến, hoàn thiện sản
phẩm DV, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp sản phẩm DV cho KH.
Để mở rộng thị phần bán lẻ, các NH phát triển các hình thức phân phối
cùng nhiều tiện ích:
* Kênh phân phối truyền thống. Bao gồm: (1) Hệ thống các Chi nhánh;

(2) NH Đại lý (Thường được áp dụng đối với các NHTM chưa có chi nhánh).
* Kênh phân phối hiện đại. Trước năm 1950, các NH thường phát triển
mạnh mẽ mạng lưới chi nhánh để mở rộng thị phần và gây sức ép lên các đối
thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, từ năm 1980 trở lại đây, các kênh phân phối hiện
đại với ưu thế về nhiều mặt đang dần trở thành xu hướng chung. Bao gồm:
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
13
Khoá luận tốt nghiệp
(1) Các chi nhánh tự động hoá hoàn toàn. Đặc điểm của kênh phân phối
này là hoàn toàn do máy móc thực hiện, dưới sự điều khiển của các thiết bị
điện tử. Nó có những ưu thế to lớn về chi phí giao dịch và tốc độ thực hiện
nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của KH.
(2) Chi nhánh ít nhân viên. Chi nhánh ít nhân viên có vị trí quan trọng
trong hệ thống NH, nhất là các chi nhánh lưu động. Ưu điểm của chúng là chi
phí thấp, hoạt động linh hoạt.
(3) NH điện tử (E Banking). Phương thức phân phối này thông qua
đường điện thoại hoặc máy vi tính. Nó cung cấp cho KH rất nhiều tiện ích,
tiết kiệm chi phí và thời gian, hoạt động được ở mọi lúc, mọi nơi. Các giao
dịch được thực hiện thông qua các phương tiện giao dịch điện tử bao gồm: (i)
Máy TT tại điểm bán hàng (EFTPOS), cho phép KH thực hiện TT bằng thẻ
một cách nhanh gọn ngay tại nơi mua hàng; (ii) Máy rút tiền tự động (ATM),
hoạt động 24/24 giờ, cung cấp cho KH các DV như rút tiền mặt, chuyển
khoản, vấn tin số dư và nhiều DV khác; (iii) NH qua điện thoại (Tel
Banking), thông qua các nhân viên trực máy hoặc hộp thư thoại, KH có thể
thực hiện giao dịch dễ dàng với NH.
(4) NH qua mạng. Được chia làm 2 loại: (i) NH qua mạng nội bộ
(mạng LAN). Hệ thống này hoạt động dựa trên cơ sở KH có tài khoản tại NH,
có máy tính cá nhân nối mạng với NH và đăng ký thuê bao với NH để được
cấp mã số truy nhập và mật khẩu. KH có thể dùng máy tính của mình truy
nhập vào máy chủ của NH để thực hiện các giao dịch, tìm kiếm thông tin; (ii)

NH qua mạng internet. Đây là loại hình NH ở cấp cao hơn. KH chỉ cần có
máy tính cá nhân nối mạng internet là có thể giao dịch được với NH mà
không cần phải đến NH. Ngoài chức năng kiểm tra tài khoản, KH có thể sử
dụng hàng loạt DV trực tuyến khác như vay, mua hợp đồng bảo hiểm, đầu tư
chứng khoán, chuyển ngân, mở L/C, mở thư bảo lãnh,…
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
14
Khoá luận tốt nghiệp
Ngoài công cụ cạnh tranh bằng chất lượng, bằng giá và tổ chức hợp lý
mạng lưới phân phối SPDV, các NHTM còn áp dụng các công cụ phi giá để
tăng năng lực cạnh tranh thông qua việc đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ bán hàng
(quảng cáo, khuyến mãi... ). Đây là hình thức nhằm gây sự chú ý và thu hút
khách hàng.
3.3 Các nhân tố tác động đến cạnh tranh của các NHTM
3.3.1 Nhóm nhân tố khách quan. Có 4 lực lượng ảnh hưởng đến năng lực
cạnh tranh của một NHTM, đây là những nhân tố khách quan
3.3.1.1 Tác nhân từ phía NHTM mới tham gia thị trường. Các NHTM
mới tham gia thị trường với những lợi thế quan trọng như: Mở ra những tiềm
năng mới; Có động cơ và ước vọng giành được thị phần; Đã tham khảo kinh
nghiệm từ những NHTM đang hoạt động; Có được những thống kê đầy đủ và
dự báo về thị trường… Như vậy, bất kể thực lực của NHTM mới là thế nào,
thì các NHTM hiện tại đã thấy một mối đe dọa về khả năng thị phần bị chia
sẻ; ngoài ra, các NHTM mới có những kế sách và sức mạnh mà các NHTM
hiện tại chưa thể có thông tin và chiến lược ứng phó.
3.3.1.2 Tác nhân là các đối thủ NHTM hiện tại. Đây là những mối lo
thường trực của các NHTM trong KD. Đối thủ cạnh tranh ảnh hưởng đến
chiến lược hoạt động KD của NHTM trong tương lai. Ngoài ra, sự có mặt của
các đối thủ cạnh tranh thúc đẩy ngân hàng (NH) phải thường xuyên quan tâm
đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng các DV cung ứng để chiến thắng
trong cạnh tranh

3.3.1.3 Sức ép từ phía KH. Một trong những đặc điểm quan trọng của
ngành NH là tất cả các cá nhân, tổ chức KD sản xuất hay tiêu dùng, thậm chí
là các NH khác cũng đều có thể vừa là người mua các sản phẩm (SP) DVNH,
vừa là người bán SPDV cho NH. Những người bán SP thông qua các hình
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
15
Khoá luận tốt nghiệp
thức gửi tiền, lập tài khoản giao dịch hay cho vay đều có mong muốn là nhận
được một lãi suất cao hơn; trong khi đó, những người mua SP (vay vốn) lại
muốn mình chỉ phải trả một chi phí vay vốn nhỏ hơn thực tế. Như vậy, NH sẽ
phải đối mặt với sự mâu thuẫn giữa hoạt động tạo lợi nhuận có hiệu quả và
giữ chân được KH cũng như có được nguồn vốn thu hút rẻ nhất có thể. Điều
này đặt ra cho NH nhiều khó khăn trong định hướng cũng như phương thức
hoạt động trong tương lai.
3.3.1.4 Sự xuất hiện các DV mới. Sự ra đời ồ ạt của các tổ chức tài
chính trung gian đe dọa lợi thế của các NHTM khi cung cấp các DV tài chính
mới cũng như các DV truyền thống vốn vẫn do các NHTM đảm nhiệm. Các
trung gian này cung cấp cho KH những SP mang tính khác biệt và tạo cho
người mua SP có cơ hội chọn lựa đa dạng hơn, thị trường NH mở rộng hơn.
Điều này tất yếu sẽ tác động làm giảm đi tốc độ phát triển của các NHTM, thị
phần suy giảm. Ngày nay, người ta cho rằng, khi các NHTM mạnh lên nhờ sự
rèn luyện trong cạnh tranh thì hệ thống NHTM sẽ mạnh hơn và có sức đàn hồi
tốt hơn sau các cú sốc của nền kinh tế.
3.3.2 Nhóm nhân tố chủ quan.
Bên cạnh các nhân tố khách quan tác động đến năng lực cạnh tranh của
các NHTM, trên thực tế, nhóm các nhân tố thuộc về nội tại của hệ thống
NHTM cũng ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của các NH này.
Chúng bao gồm: (i) Năng lực điều hành của ban lãnh đạo NH; (ii) Quy mô
vốn và tình hình tài chính của NHTM; (iii) Công nghệ cung ứng DV NH; (iv)
Chất lượng nhân viên NH; (v) Cấu trúc tổ chức; (vi) Danh tiếng và uy tín của

NHTM.
Bên cạnh đó, đặc điểm của SP và đặc điểm của KH cũng là nhân tố
thuộc về NHTM chi phối đến khả năng cạnh tranh trong hoạt động KD của
NHTM Cụ thể:
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
16
Khoá luận tốt nghiệp
Về đặc điểm của SP. Như trên đã chỉ ra, cạnh tranh trong hoạt động KD
của NHTM bị chi phối bởi các đặc điểm hoạt động KD của nó. SP chính sử
dụng trong hoạt động KD của NHTM là tiền, đó là loại SP có tính xã hội và
tính nhạy cảm cao, chỉ một biến động nhỏ (thay đổi lãi suất) cũng có ảnh
hưởng to lớn đến hoạt động KD của các NHTM nói riêng và hoạt động của
toàn xã hội nói chung. Từ đặc điểm này dẫn đến cạnh tranh giữa các NHTM
ngày càng trở nên quyết liệt. Cạnh tranh giữa các NHTM là nỗ lực hoạt động
đồng bộ của NH trong một lĩnh vực khi cung ứng cho KH những SP DV có
chất lượng cao nhằm khẳng định vị trí của NH vượt lên khỏi các NH khác
trong cùng lĩnh vực hoạt động ấy. Có nghĩa là, chính vì SPKD có tính nhạy
cảm cao đã làm tăng tính cạnh tranh trong hoạt động KD của NHTM.
Về đặc điểm của KH. KH của NHTM không phải là KH luôn “trung
thành” mà rất dễ bị lôi kéo và thay đổi quan hệ giao dịch. Mức độ trung
thành của KH phụ thuộc vào sự đối xử của NHTM với họ, mà cao nhất là lợi
ích trực tiếp thu được từ quan hệ giao dịch với NH. KH có thể ngay lập tức
thay đổi quan hệ với NH để tìm mối lợi lớn hơn nếu họ biết rằng mức lãi mà
họ nhận được cao (nếu là SP bán) và mức lãi suất thấp (nếu là SP mua) so với
NH họ quan hệ. Như vậy, sự cạnh tranh của NH cũng được nhân lên do đặc
điểm KH rất dễ thay đổi quan hệ với NH.
Các đặc điểm nêu trên được coi là các nhân tố về phía NHTM tạo nên
tính cạnh tranh cao của KDNH, từ đó góp phần tạo sức mạnh nội lực cho
NHTM Nếu một NH có thể phát huy tối đa sức mạnh của các yếu tố trên, kết
hợp với việc nắm bắt thông tin về các đối thủ mới gia nhập, thận trọng với các

đối thủ hiện tại, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao thì cạnh tranh không phải là
điều đáng lo ngại.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
17
Khoá luận tốt nghiệp
4. Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM
Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM là quá trình bỏ vốn
đầu tư nhằm tiến hành các hoạt động làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản
vật chất (máy móc, thiết bị công nghệ…) và tài sản trí tuệ ( tri thức, kĩ
năng…), gia tăng hiệu quả kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng đó trên thị trường.
II. Nội dung và sự cần thiết đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
NHTM
1. Nội dung đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM
Thứ nhất, đầu tư vào lĩnh vực khoa học công nghệ. Các NHTM đẩy
mạnh ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông
tin, bởi vì chỉ trên cơ sở kỹ thuật công nghệ hiện đại thì các NHTM mới có
điều kiện triển khai các loại hình DV mới, mở rộng đối tượng và phạm vi KH.
Công nghệ thông tin cho phép các NHTM nắm bắt cập nhật và đầy đủ các
thông tin từ phía KH, cho phép giảm thiểu rủi ro từ lựa chọn đối nghịch và rủi
ro đạo đức. Công nghệ hiện đại cũng cho phép các NHTM giảm chi phí, giảm
thời gian trong giao dịch, tăng độ an toàn cho KH - đây vốn là những yêu cầu
bắt buộc trong KD của các NHTM
Các Website của ngành NH được ví như trung tâm thông tin, các chi
nhánh phân phối ở mọi lúc, mọi nơi, KH có thể truy cập để tìm hiểu, lấy
thông tin về các DV cung cấp, phía NH cũng có thể tiếp cận với KH nhanh
chóng và có hiệu quả.
Thứ hai, đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong hệ thống
hoạt động NH, rủi ro luôn tiềm ẩn do tất cả các khâu, các công đoạn trong KD
của NHTM đều gắn liền với sự vận động của vốn tiền tệ. Để giảm thiểu rủi ro

Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
18
Khoá luận tốt nghiệp
thì một trong những yêu cầu bắt buộc là nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ cho tất cả các cán bộ, nhân viên trong các NHTM, không chỉ là trình độ
chuyên môn nghiệp vụ tài chính - NH, mà còn đòi hỏi nâng cao trình độ kinh
tế tổng hợp, bởi vì, có như vậy thì các NHTM mới tư vấn cho KH của mình
các định hướng đầu tư vốn hiệu quả, đồng thời qua đó mới thẩm định chính
xác các dự án đầu tư tín dụng.
Thứ ba, đầu tư nâng cao năng lực tài chính, trong đó quan trọng nhất là
vốn điều lệ. Vốn điều lệ của NHTM được xem là chiếc “đệm” để đối phó có
hiệu quả với các cú sốc từ bên ngoài, bảo đảm một sự an toàn trong KDNH.
Nếu vốn điều lệ quá thấp sẽ khiến các NHTM hoạt động luôn bị bất cập, bởi
vì sẽ bị hạn chế trong mở rộng thị phần cho vay và huy động vốn, sẽ bị hạn
chế trong mở các chi nhánh, phòng giao dịch, và do vậy, sẽ khó có cơ hội
ngày càng tiến gần hơn đến các KH mục tiêu và trên tất cả thì điều này đồng
nghĩa với một sự thua kém, bất lợi về khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên, tăng
vốn điều lệ bằng cách nào và đạt đến qui mô nào là tối ưu? Đây luôn là vấn đề
không đơn giản, nhất là đối với các NHTM ở các nước đang phát triển, đang
trong quá trình chuyển đổi. Về nguyên tắc, các NHTM có thể tăng vốn thông
qua các kênh: (1) Tăng vốn Ngân sách Nhà nước cấp (đối với các NHTM nhà
nước); (2) Cổ phần hóa NHTM Nhà nước; (3) Phát hành thêm cổ phiếu mới
(đối với các NHTMCP); (4) Sáp nhập, hợp nhất các NHTM Tuy nhiên, vấn
đề quan trọng là việc tăng vốn phải đi kèm với tăng cường năng lực quản trị
thì mới lợi dụng được tính kinh tế nhờ qui mô. Nếu không đảm bảo được yêu
cầu này thì việc tăng vốn sẽ rất có thể dẫn tới làm giảm hiệu quả, suy yếu
năng lực cạnh tranh của chính NHTM
Thứ tư,đầu tư tăng cường hiệu quả công tác Marketing NH. Để tăng
cường hiệu quả công tác marketing, các NHTM cần phân đoạn chính xác thị
trường, xác định đúng đối tượng khách hàng mục tiêu, từ đó có biện pháp chủ

động tiếp cận khách hàng để giới thiệu các SPDV của mình. Các biện pháp
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
19
Khoá luận tốt nghiệp
truyền thống thường được sử dụng là quảng cáo qua các phương tiện thông tin
đại chúng (báo chí, truyền hình, mạng internet...), áp dụng marketing Four
Mix (Product, Price, Place, Promotion) trong đó tích cực thực hiện các hoạt
động quan hệ với KH nhằm đi sâu tìm hiểu KH và thu nhận các thông tin từ
phía KH để có những phương hướng, biện pháp điều chỉnh thích hợp, từ đó
giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM. Hoạt động Marketing tốt
không những tăng tuy tín, thương hiệu mà còn góp phần giúp NHTM thu
được lợi nhuận nhiều hơn, vững mạnh hơn và phát triển hơn.
2. Sự cần thiết của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của
NHTM
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ với khu vực và toàn
cầu. Năm 2000 đánh dấu một mốc quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt
động của các NHTM là việc ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ,
dẫn tới việc mở cửa thị truờng, đặc biệt là thị truờng ngân hàng trong mười
năm tới. Điều này tạo ra rất nhiều cơ hội cũng như không ít thách thức cho
tất cả các ngành và các đơn vị, nhất là các NHTM.
2.1 Những cơ hội
Một là, nhờ hội nhập mà các ngân hàng trong nước có thể thu hút được
các nguồn vốn từ bên ngoài, ứng dụng và tiếp cận được những công nghệ
hiện đại tiên tiến vào quá trình hoạt động của mình, mở rộng các hoạt động
kinh doanh về ngoại hối, chứng khoán quốc tế, phát triển các dịch vụ ngân
hàng mới, tạo điều kiện cho các ngân hàng trong nước đa dạng hoá các hình
thức hoạt động, phân tán và giảm thiểu rủi ro.
Hai là, hội nhập quốc tế sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh từ bên ngoài,
buộc các ngân hàng trong nước nếu muốn duy trì và phát triển được trên thị
trường cần phải tiến hành cải tiến quản lý, đổi mới kiểm soát nội bộ, phòng

Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
20
Khoá luận tốt nghiệp
ngừa rủi ro và giám sát an toàn hoạt động, mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ
tốt hơn, cải thiện vị trí của mình.
Ba là, hôị nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế, cùng với dòng vốn vào
là kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật phòng ngừa rủi ro, công nghệ và sản phẩm
mới được đưa vào thị trường nội địa. Các yếu tố này làm tăng hiệu quả cung
cấp dịch vụ của các ngân hàng và các tổ chức tài chính, tăng cường khả năng
quản lý rủi ro đối với các hoạt động tài chính trong nước và quốc tế.
Bốn là, hội nhập đã thúc đẩy sự phát triển và trao đổi các dịch vụ tài
chính, ngân hàng giữa các nước. Các nước đang phát triển, nơi mà các ngân
hàng trong nước thường có chi phí hoạt động cao và lợi nhuận thấp hơn đối
với các đồi thủ cạnh tranh ngoài nước thì sự xuất hiện của các ngân hàng
ngoài nước trên thị trường nội địa sẽ có ảnh hưởng tích cực. Do sức ép cạnh
tranh tăng lên đã thúc đẩy các ngân hàng nội địa hoạt động hiệu quả hơn,
nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ để giữ vững và phát triển thị phần,
quản lý chặt chẽ chi phí để có lợi nhuận.
Năm là, việc hình thành ácc tập đoàn ngân hàng lớn cùng với quá trình
mở rộng hoạt động của chúng trên thế giới sẽ tạo ra cho ngân hàng sẽ có
nhiều lợi thế trong cạnh tranh cũng như khả năng đối phó với những biến
động thị truờng. Sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài có tên tuổi này
trên thị trường nội địa sẽ có ảnh hưởng tích cực trong việc cải thiện các quy
định phòng ngừa rủi ro, tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về kế toán, công bố
công khai. Ngoài ra, những ngân hàng ở các nước đang phát triển muốn thâm
nhập vào thị trường các nước cần phải đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu và
tiêu chuẩn của những thị trường này mới nhận được giấy phép hoạt động.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
21
Khoá luận tốt nghiệp

2.2 Những thách thức
Bên cạnh những cơ hội trên, hội nhập còn đem lại cho các ngân hàng
một số thách thức sau đây.
Một là, hội nhập xuất hiện sự thâm nhập của các ngân hàng nước ngoài
có thể gây khó khăn cho nền kinh tế và đe doạ đến chủ quyền kinh tế quốc
gia. Mở cửa cho sự tham gia của ngân hàng nước ngoài quá mức có thể gây ra
hiện tượng những ngân hàng nước ngoài lớn chi phối hoạt động cả hệ thống
ngân hàng quốc gia và sự lệ thuộc của nền kinh tế vào một số ít ngân hàng
nước ngoài.
Hai là, hoạt động của ngân hàng nước ngoài trên thị trường nội địa với
những sản phẩm mới cùng với các giao dịch trên một phạm vi rộng lớn và tốc
độ rất nhanh sẽ gây khó khăn cho việc kiểm soát của các cơ quan quản lý,
giám sát của từng quốc gia. Sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và các
sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại làm cho nhiều hoạt động ngân hàng
thoát khỏi sự kiểm soát của các cơ chế giám sát đã đặt ra.
Ba là, các ngân hàng nước ngoài hoạt động trên thị trường nội địa tạp ra
áp lực cạnh tranh gay gắt, có thể gây ra những xung đột về lợi ích giữa các
nhóm khác nhau, ảnh hưởng đến đặc quyền kinh doanh của các ngân hàng
trong nước.
Bốn là, trong môi trường vốn luân chuyển tự do giữa các nước, kích
thích các tổ chức trong nước nhận vay vốn nước ngoài một cách thiếu thận
trọng. Nếu những tổ chức kinh tế có hệ số nợ nước ngoài cao bị mất khả năng
trả nợ sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống ngân hàng. Điều đó có thể dẫn tới
nhiều tổ chức có hệ số nợ cao đổ vỡ, nguy cơ này sẽ nhanh chóng bị khuếch
đại gây khó khăn cho hệ thông ngân hàng.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
22
Khoá luận tốt nghiệp
Vì vậy, để có thể tận dụng tối đa các cơ hội, hạn chế tối thiểu các thách
thức, việc đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM hiện nay là

vấn đề rất nóng hổi và cần thiết.
III. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh của NHTM
1 Năng lực tài chính
Tốc độ tăng trưởng vốn bình quân phải trên 10%/năm, các NHTM đều
phải có tỷ lệ vốn tối thiểu tương ứng với tài sản sinh lời. Để đánh giá chỉ tiêu
này, thường người ta đánh giá thông qua quy mô vốn chủ sở hữu và quy mô
tài sản có của NH.
1.1 Khả năng sinh lời
Đánh giá chỉ tiêu này theo 02 tỷ số cơ bản:
- Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA – Return on assets)
ROA = Lợi nhuận ròng/tổng tài sản bình quân * 100
Với chỉ tiêu này cho biết 01 đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận, tài sản có sinh lời càng lớn thì tỷ số này càng lớn.
- Tỷ suất sinh lời trên vốn tự có (ROE – Return on Equity)
ROE = Lợi nhuận ròng/vốn tự có *100
Với chỉ số này cho biết 01 đồng vốn sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận và phản ánh hiệu quả hoạt động của NH. Hệ số càng lớn, khả năng sinh
lời càng lớn.
1.2 Chất lượng tín dụng
Áp dụng tỷ lệ chung theo quyết định 112/2006/QĐ –ttg (của Thủ tướng
chính phủ về chỉ tiêu hoạt động NH giai đoạn 2006 – 2010), nợ xấu của NH là
dưới 5% trên tổng dư nợ.
1.3 Chỉ tiêu quản trị rủi ro
Bao gồm một số chỉ tiêu như:
- Rủi ro lãi suất = Tài sản nhạy cảm LS/nguồn vốn nhạy cảm lãi suất.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
23
Khoá luận tốt nghiệp
- Rủi ro vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu/ tài sản rủi ro.

- Rủi ro thanh khoản = (Tài sản thanh khoản – vốn vay)/tổng vốn huy
động.
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ lệ vốn huy động gấp mấy lần vốn chủ sở hữu
(thường là biến động từ 15 đến 20 lần).
2. Năng lực hoạt động kinh doanh
Năng lực hoạt động của một NHTM thông thường được xem xét trên
các mặt:
Năng lực huy động vốn. Do nhu cầu vốn hoạt động từ các khách hàng
một số năm gần đây khá lớn, nên các NHTM đã đưa ra nhiều chính sách
khuyến mãi, hậu mãi để huy động vốn, sự cạnh tranh nhìn chung là khá quyết
liệt. Tuy nhiên, có thể thấy là các NHTM Việt Nam vẫn chủ yếu sử dụng công
cụ giá thấp để huy động vốn. Một số NHTM cũng sử dụng biện pháp mở rộng
chi nhánh để tiến gần hơn tới khách hàng, tuy nhiên, việc mở chi nhánh hiện
nay là khá ồ ạt, chưa thực sự tính đến hiệåu quả, gây khó khăn cho công tác
quản trị, gia tăng rủi ro. Rõ ràng là, với đối sách tăng lãi suất để huy động vốn
ít nhiều sẽ làm suy giảm lợi nhuận của các NHTM
Năng lực đầu tư tín dụng. Do nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế tăng
cao, dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM rất lớn, dư nợ cho
vay tăng rất mạnh một số năm gần đây. Cụ thể: Tốc độ tăng trưởng tín dụng
bình quân của các NHTM khoảng trên 25%/năm, cá biệt có những ngân hàng
có tốc độ tăng trưởng tới 30 - 40%/năm một mức tăng trưởng quá cao, vượt
xa mức trung bình của NHTM các nước trong khu vực (Hầu hết NHTM các
nước trong khu vực đều có mức tăng trưởng tín dụng dưới 10%. Trung Quốc
mức tăng trưởng tín dụng chỉ khoảng 20%/năm so với mức tăng trưởng GDP
bình quân trên 10%/năm) ; hơn nữa, tốc độ tăng trưởng cao diễn ra trong một
khoảng thời gian khá dài, đi đôi với năng lực quản trị rủi ro còn nhiều hạn chế
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
24
Khoá luận tốt nghiệp
trong một môi trường kinh doanh đầy rủi ro có thể dẫn đến nguy cơ rủi ro tín

dụng tăng cao, làm môi trường tín dụng luôn căng thẳng, xói mòn sự ổn định
vĩ mô của hệ thống tiền tệ ngân hàng.
3. Năng lực mở rộng và phát triển các sản phẩm dịch vụ
Với đặc tính riêng của ngành ngân hàng là các sản phẩm dịch vụ hầu
như không có sự khác biệt thì các NHTM phát huy khả năng cạnh tranh
không chỉ bằng những sản phẩm cơ bản mà còn thể hiện ở tính độc đáo, sự đa
dạng của sản phẩm dịch vụ của mình.
Một ngân hàng mà có thể tạo ra sự khác biệt riêng cho từng loại sản
phẩm của mình trên cơ sở những sản phẩm truyền thống sẽ làm cho danh mục
sản phẩm của mình trở nên đa dạng hơn, điều này sẽ đáp ứng được hầu hết
các nhu cầu cầu khác nhau của khách hàng khác nhau, từ đó dễ dàng chiếm
lĩnh thị phần và làm tăng sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng.
Các NHTM còn sử dụng các sản phẩm dịch vụ bổ trợ khác để thu hút
khách hàng, tạo thu nhập cho ngân hàng như cung cấp sao kê định kỳ, tư vấn
tài chính….
Các NHTM đã tích cực áp dụng các phần mềm trong giao dịch thanh
toán, tuy nhiên, do tính liên kết giữa các NH chưa cao (đã đề cập ở trên) nên
đã dẫn tới những bất cập nhất định trong triển khai các phần mềm trong quản
lý.
Một số năm gần đây các NHTM đã triển khai mạnh nghiệp vụ thanh
toán thẻ, nhưng hiện cũng chỉ có khoảng 20 thương hiệu thẻ, gần 500 máy
ATM với khoảng 1,3 triệu thẻ. Triển vọng đầu tư phát triển dịch vụ này sẽ
còn khó khăn nếu không tăng vốn tự có cho các NHTM, nhưng việc tăng vốn
tự có vẫn rất nan giải.
Nguyễn Thị Thu Vân Lớp: Kinh tế đầu tư 47B
25

×