Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH BẢO HIỂM HỎA HOẠN NHÀ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.78 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGÂN HÀNG
MÔN NGUYÊN LÝ & THỰC HÀNH BẢO HIỂM

TP. HỒ CHÍ MINH, 2010
PHÁT TRIỂN LOẠI HÌNH
BẢO HIỂM HỎA HOẠN
NHÀ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM
Đề tài 11:
Nhận xét của giảng viên






















2
DANH SÁCH NHÓM THỰC HIỆN
STT Họ và tên Lớp Mã số sinh viên Điểm
1 Phạm Mạnh Hiếu NH 10 107207808
2 Hứa Nguyễn Thanh Nguyên NH 10 107207823
3 Nguyễn Thị Bích Vân NH 10 107207640
3
MỤC LỤC

 !
"#$%&'()* !
+,$- .
/() 0
/123%3 0
/+45$'$%3 0
//45$'$($6 7
/"28 7
/9:; 7
/!<& =
/.>%?@& =
+>*A2>%B%A$CDE,4
=
+FAGH =
++"#$5>I* 
+/;J>K(L'4 
+<2%B%I?H* +
+9MN;'&O +
+!<$)%B'>B /
/<#$,4* /
/<))()H,4$5

NG%* /
/+<))C>,4$5NG%*
9
D>DD>$()P,4 .
4Q%?8ND>$$R('()*.
+>D>D#0
+,I>*S$*0
++TI>@&7
+/,BJ2D>DC>7
4
MU<VW4+
LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội ngày càng phát triển, khoa học tiên tiến và cuộc sống con người ngày càng
được hoàn thiện và sung túc hơn. Những ngành nghề mới liên tục ra đời đáp ứng nhu cầu
ngày càng gia tăng của xã hội. Mỗi ngành nghề lại có những đặc điểm riêng và tác dụng
riêng đến nền kinh tế nhưng đều hướng đến một mục đích chung là luôn hướng tới sự phồn
thịnh, ấm no về vật chất cũng như tinh thần, đảm bảo công bằng xã hội và phúc lợi xã hội.
Tuy nhiên cho dù có phát triển đến đâu thì vẫn không thể loại bỏ hoàn toàn những rủi ro có
thể xảy ra ngoài tầm kiểm soát của con người. Rủi ro nhưng một đám mây đen bao phủ
nền kinh tế và có thể sẵn sàng ậm xuống bất cứ lúc nào gây ra những thiệt hại nặng nề đến
nền kinh tế của bất cứ quốc gia nào trên thế giới. và cũng chính vì nhu cầu hạn chế và
giảm thiểu thiệt hại do rủi ro gây ra thì ngành Bảo hiểm đã ra đời. Bảo hiểm được biết như
một công cụ đề giảm thiểu tối đa nhưng thiệt hại do rủi ro gây ra cho người gánh chịu nói
riêng và nền kinh tế nói chung. Bảo hiểm là một hoạt động dựa trên nguyên tắc số đông bù
số ít. Bảo hiểm còn mang lại cho nền kinh những lợi ích to lớn khác cho nền kinh tế và
không ai có thể trối cãi được. Do đó ta thấy được sự ra đời và phát triển của bảo hiểm là
một trong những nhu cầu khách quan khi xã hội ngày càng phát triển.
Trong các loại rủi ro thì rủi ro do cháy nổ hỏa hoạn là một trong những rủi ro có
nguy cơ xảy ra cao và gây thiệt hại nặng nề, đặc biệt là ở những nước nằm trong vùng khí
hậu nóng bức như nước ta. Chính vì thế mà ngành bảo hiểm cũng có một loại sản phẩm

đặc trưng cho loại rủi ro này là Bảo hiểm hỏa hoạn. Bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân cũng
là một mảng phân khúc thị trường cho loại sản phẩm này, mục tiêu khách hàng của nó
chính là hướng tới những cá nhân có nhu cầu mua bảo hiểm cho chính ngôi nhà của mình.
Bảo hiểm hỏa hoạn ở Việt Nam đã ra đời từ lâu tuy nhiên nó vẫn chưa phát huy hết tác
dụng của nó và cũng chưa được xã hội Việt Nam hưởng ứng tích cực. Do vẫn còn nhiều
bất cập và khó khăn trong việc tiếp cận thị trường Việt Nam nên Bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư
nhân ở Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển như mong đợi mặc dù số vụ hỏa hoạn ở nước
ta ngày càng gia tăng kéo theo những thiệt hại ngày càng nặng nề. Chính ví thế mà chúng
em xin chọn đề tài này nhằm tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra những ý kiến nhằm khắc
phục tình trạng khó khăn, phát triển loại hình bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân ở Việt Nam.
5
1. Giới thiệu chung về bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân:
1.1. Sự ra đời của loại hình này:
Bảo hiểm hoả hoạn cũng như bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm nào khác, cũng đều ra đời
bắt nguồn từ thực tế là cuộc sống luôn tồn tại những biến động và con người luôn phải
đương đầu với rủi ro. Rủi ro tồn tại ở mọi nơi mọi lúc, vì thế mà con người luôn phải tìm
cách để kiểm soát rủi ro, hạn chế những tổn thất do rủi ro mang đến.
Lịch sử bảo hiểm hỏa hoạn đã đánh dấu sự kiện bước ngoặc vào năm 1666 tại nước
Anh. Một vụ hoả hoạn khủng khiếp đã xảy ra ở Luân Đôn. Đám cháy lớn kéo dài bảy
ngày, tám đêm bắt đầu từ chủ nhật 2/9/1666 cho tới ngày 9/9/1666 đã gây ra tổn thất vô
cùng to lớn: thiêu hủy hoàn toàn 13.200 ngôi nhà, 87 nhà thờ. Mức độ nghiêm trọng của
thảm họa này đã dẫn tới sự ra đời của công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên tại nước Anh.
Những nhà kinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hoả hoạn bằng
cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hoả hoạn như : " Fire Office" (năm 1667),
"Friendly Society" (năm 1684), "Hand and Hand" (năm 1696), "Lom Bard House" (năm
1704)
Nước Pháp do ảnh hưởng của vụ hỏa hoạn ở Luân Đôn, nên vào năm 1786 công ty
bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên đã được thành lập là “Company L'assurance Centree
L'incendie” và “Company Royade” (năm 1788). Sự kiện đáng được lưu truyền thời gian
này và trong lịch sử bảo hiểm là công trình toán học của Pascal về "Hình học của rủi ro "

(Lageometric Du Hasard) năm 1654 đã đưa đến toán học xác suất. Đó là cơ sở thống kê
xác suất phục vụ cho hoạt động bảo hiểm và ngày nay vẫn được coi là kỹ thuật cơ bản của
ngành bảo hiểm.
Trong khoảng 200 năm ra đời và phát triển, bảo hiểm hỏa hoạn đã đáp ứng được nhu
cầu khẩn thiết chống lại sức tàn phá của các vụ hỏa hoạn.
Bảo hiểm Việt Nam bắt đầu với sự ra đời của Công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là
Bảo Việt) ngày 15/01/1965. Tuy nhiên thị trường thị trường bảo hiểm Việt Nam bắt đầu
phát triển thật sự kể từ khi Nghị định 100/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/12/1993 về kinh
doanh bảo hiểm ở Việt Nam ra đời, và Luật kinh doanh bảo hiểm ngày 09/12/2000 đã tạo
hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam. Nếu như năm 1993 thị
trường bảo hiểm Việt Nam chỉ có duy nhất công ty Bảo Việt thì đến nay đã thật sự sôi
6
động với sự hiện diện của nhiều công ty bảo hiểm với nhiều hình thức sở hữu khác nhau:
sở hữu nhà nước, công ty liên doanh, công ty cổ phần, công ty 100% vốn nước ngoài.
Tuy nhiên, bảo hiểm hỏa hoạn chỉ bắt đầu xuất hiện từ năm 1989 sau khi có Quyết
định số 06/TCQĐ ngày 17-01-1989 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Quy tắc về bảo
hiểm hỏa hoạn. Mỗi năm nước ta xảy ra hàng nghìn vụ hỏa hoạn làm chết, bị thương hàng
trăm người, thiệt hại về tài sản hàng chục tỷ đồng. Đến nay, do sự tối ưu của bảo hiểm hỏa
hoạn, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 130/2006/NĐ-CP ngày 08-11-2006 quy định
chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc đối với tổ chức và cá nhân nhằm hạn chế thiệt hại có thể
xảy ra. Ngay sau đó, thị trường bảo hiểm nhà tư nhân bắt đầu sôi động. Các công ty bảo
hiểm không chỉ bảo hiểm rủi ro hỏa hoạn mà bảo hiểm cả rủi ro nổ, động đất, trộm cướp
với mức phí hấp dẫn cho khách hàng lựa chọn.
Bảo hiểm hỏa hoạn ra đời không những bảo vệ tài sản cho những người tham gia bảo
hiểm mà nó còn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội được liên tục, không bị gián
đoạn. Bên cạnh đó, bảo hiểm hỏa hoạn còn góp phần vào việc ổn định và phát triển nền
kinh tế xã hội. Một phần không nhỏ nguồn phí bảo hiểm thu được từ các nghiệp vụ này
được các công ty bảo hiểm đóng góp vào ngân sách Nhà nước để chính phủ sử dụng vào
các mục đích xã hội khác.
1.2. Vai trò:

Từ sau khi ra đời cho đến nay thì ngành bảo hiểm ngày càng khẳng định vai trò
không thể thiếu của mình trong việc giảm thiểu hậu quả của rủi ro cũng như những đóng
góp vào nền kinh tế.
Xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng ứng dụng nhiều kỹ thuật cao vào
cuộc sống tuy nhiên chính những điều đó lại càng làm tăng khả năng xảy ra những rủi ro.
Chính vì thế mà ngành bảo hiểm ngày càng trở thành chỗ dựa cho mọi người trong việc
hạn chế những thiệt hại nặng nề mà rủi ro gây ra. Bảo hiểm sẽ chia sẻ những tổn thất và bù
đắp phần thiệt hại cũng như khắc phục những tổn thất khi xảy ra rủi ro.
Rủi ro hỏa hoạn là một trong những rủi ro gây thiệt hại to lớn cả về mặt vật chất và
tinh thần. Theo thống kê của Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy (PCCC) và Cứu nạn,
cứu hộ (thuộc Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an), trong năm 2009, cả nước đã xảy ra 1.948
vụ cháy, trong đó, có 1.677 vụ cháy ở các cơ sở và nhà dân, 271 vụ cháy rừng làm 62
người chết và 145 người bị thương. Tổng thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 500 tỉ đồng
và gần 1.400ha rừng bị xóa sổ. Bên cạnh đó, cũng xảy ra 18 vụ nổ, làm chết 16 người, bị
7
thương 42 người, thiệt hại về tài sản ước tính 1,3 tỉ đồng. So với năm 2008, số vụ cháy nổ
trong năm 2009 tuy giảm về lượng nhưng lại tăng mức thiệt hại về người. Rủi ro hỏa hoạn
luôn rình rập mọi nhà đặc biệt trong những mùa nắng nóng dễ bắt lửa. Trên thực tế đã có
không ít gia đình phải chịu cảnh không còn nơi ở cũng như mất hết tài sản do những trận
hỏa hoạn gây ra. Trong những trường hợp này nếu người bị nạn có mua bảo hiểm hỏa hoạn
thì bảo hiểm sẽ thay người bị nạn đứng ra chịu tổn thất cũng như giúp họ mau chóng lấy
lại được cuộc sống bình thường. Qua đó ta càng thấy được vai trò của bảo hiểm hỏa hoạn
đối với cá nhân nói riêng và nhà nước nói chung. Bên cạnh đó bảo hiểm hỏa hoạn còn giúp
mọi người có thêm sự an tâm về mặt tinh thần làm cho cuộc sống thêm phần thoải mái.
Ngoài ra bảo hiểm còn có những đóng góp không nhỏ vào nền kinh tế của nước nhà.
Ngành bảo hiểm giúp huy động được những khoản tiền nhàn rỗi thông qua các khoản phí
đóng bảo hiểm trong xã hội đặc biệt là trong giai đoạn kinh tế thị trường và sự phát triển
của xã hội ngày càng cao thì nhu cầu bảo hiểm cũng gia tăng đáng kể. Qua đó thúc đẩy quá
trình sản xuất kinh doanh nâng cao năng suất cho xã hội phát triển. Bên cạnh đó ngành bảo
hiểm còn đem lại cho ngân sách nhà nước một khoản thu đáng kể qua các khoản thuế hàng

năm.
1.3. Giới thiệu về loại hình bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân:
1.3.1. Đối tượng được bảo hiểm:
Nhà ở tư nhân và mọi tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng, trông coi, kiểm soát của
Người được Bảo hiểm. Tiền (tiền giấy hay tiền kim loại), séc, thư bảo lãnh, tín phiếu, tem,
tài liệu, bản thảo, sổ sách, giấy tờ các loại, vàng bạc, kim loại quý, đá quý, đồ trang sức,
gia bảo, đồ cổ, đồ thờ cúng, bản vẽ hay tài liệu thiết kế, chất nổ, vật sống, vật nuôi, được
bảo hiểm khi được công ty bảo hiểm chấp thuận bằng văn bản.
− Chi phí dọn dẹp hiện trường.
1.3.2. Những rủi ro được bảo hiểm:
Bảo hiểm cho những tổn thất về tài sản bị rủi ro bất ngờ và không lường trước được
tại ngôi nhà có tham gia bảo hiểm. Giá trị bồi thường tương đương với giá trị phần tổn
thất.
Những rủi ro được bảo hiểm bao gồm :
8
− Hoả hoạn, nổ bình ga hoặc nồi hơi nước, bình đun nước phục vụ sinh hoạt gia
đình; sét đánh.
− Do va chạm với các vật thể như:
• Máy bay và các phương tiện hàng không khác hoặc các thiết bị trên
các phương tiện đó rơi vào.
• Xe cộ hay động vật.
− Và các điều khoản mở rộng kèm theo được ghi cụ thể trên hợp đồng như: Bão,
lốc, lũ lụt, lún đất nhưng ngoại trừ những thiệt hại gây ra do ẩm mốc thông
thường, thiệt hại đối với trang thiết bị bên ngoài Ngôi nhà, và các động sản bên
ngoài khác.
1.3.3. Những rủi ro loại trừ bảo hiểm:
Bất kỳ khiếu nại nào liên quan trực tiếp hay gián tiếp phát sinh do một trong các
trường hợp dưới đây sẽ không được bồi thường :
− Chiến tranh, xâm lược hay các hoạt động tương tự chiến tranh.
− Nội chiến, bạo loạn, hoặc những biến cố và nguyên nhân dẫn đến việc tuyên bố và

duy trì tình trạng khẩn cấp/giới nghiêm v.v…
− Những thiệt hại xảy ra trong các điều kiện bất thường phát sinh bởi, hay là hậu quả
trực tiếp, gián tiếp của các sự cố nói trên.
− Thiệt hại xảy ra khi ngôi nhà bỏ trống trong vòng 60 ngày;
− Thiệt hại xảy ra khi ngôi nhà đang cải tạo, sửa chữa;
− Thiệt hại do bị phá huỷ theo lệnh của Chính phủ, chính quyền địa phương.
− Tài sản tự lên men/toả nhiệt hoặc chịu tác động của các quả trình xử lý nhiệt/khô.
− Thiệt hại là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ các rủi ro địa chấn hoặc những hành
động cố ý của người được bảo hiểm.
− Thiệt hại là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ nguyên liệu hạt nhân hoặc phóng xạ
v.v…
− Thiệt hại đối với thiết bị điện hoặc bất kỳ bộ phận nào của thiết bị điện do chạy quá
tải, đoản mạch, rò điện v.v…
− Thiệt hại là hậu quả gián tiếp do bất kỳ nguyên nhân và hình thức nào.
1.3.4. Số tiền bảo hiểm:
Người tham gia bảo hiểm đăng ký với người người bảo hiểm trên cơ sở bảo hiểm
và được sự chấp nhận của người bảo hiểm. Là giới hạn bồi thường tối đa khi tài sản được
bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ, nó có thể thấp, bằng hoặc lớn hơn giá trị bảo hiểm.
1.3.5. Phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm được tính theo tỷ lệ phí bảo hiểm và tỷ lệ này được tính riêng cho
từng loại rủi ro. Phí bảo hiểm dựa trên giá trị hợp đồng bảo hiểm và tuổi thọ của nhà.
9
1.3.6. Thời hạn bảo hiểm:
Tùy theo yêu cầu của người được bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ linh hoạt thay đổi.
Sau khi kết thúc thời hạn bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể đóng phí tiếp và yêu cầu
tái tục bảo hiểm. Hiệu lực bảo hiểm được ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm.
1.3.7. Giám định và bồi thường:
Khi tổn thất xảy ra, người được bảo hiểm phải gửi thông báo tổn thất và yêu cầu
bồi thường cho người bảo hiểm kèm theo bản kê chi tiết ước tính giá trị tài sản bị tổn thất
làm cơ sở cho công việc giám định. Người bảo hiểm có thể yêu cầu người được bảo hiểm

chứng minh tổn thất bằng ảnh chụp hoặc tại hiện trường cũng như chứng minh tài sản đó
thuộc quyền sở hữu của mình đang sử dụng cho đến trước khi xảy ra rủi ro tai nạn.
• Đối với nhà cửa: cơ sở tính giá trị thiệt hại là chi phí sửa chữa.
• Đối với tài sản: - nếu tổn thất có thể sữa chữa được thì cơ sở tính là chi phí sửa
chữa. Nếu không sữa chữa được hoặc sữa chữa không kinh tế thì cơ sở tính là chi
phí mua mới trừ giá trị khấu hao nếu bảo hiểm theo giá trị còn lại.
Nhìn chung số tiền bảo hiểm ghi trong đơn bảo hiểm là giới hạn trách nhiệm của
người bảo hiểm cho cả thời hạn bảo hiểm
2. Các yếu tố tác động đến việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân
tại Việt Nam:
2.1. Xu thế toàn cầu hóa:
Đây là một trong những nhân tố tuy không tác động trực tiếp đến nghiệp vụ bảo
hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân, nhưng nó mang lại những tác động gián tiếp hết sức sâu sắc.
Ngày nay xu thế toàn cầu hóa đã tạo điều kiện để nhiều tập đoàn tài chính, các công ty đa
quốc gia khổng lồ, trong đó có các tập đoàn bảo hiểm lớn trên thế giới xâm nhập vào Việt
Nam. Trước 1995, thị trường Việt Nam chỉ có duy nhất công ty bảo hiểm Bảo Việt của
Nhà nước hoạt động độc quyền. Đến ngày 18/12/1993, nghị định 100/CP của Chính phủ ra
đời cho phép các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài được thành lập các công ty bảo
hiểm, tái bảo hiểm, môi giới, mở chi nhánh công ty nước ngoài tại Việt Nam. Điều đó
khiến cho người dân có điều kiện tiếp xúc với môi trường bảo hiểm hiện đại, phong cách
phục vụ hết sức chuyên nghiệp, sản phẩm phong phú, giá cả cạnh tranh của các tập đoàn
lớn trên thế giới. Tính đến thời điểm hiện nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam trở nên hết
sức sôi động khi có sự góp mặt của một số lượng lớn các công ty bảo hiểm.
- Công ty bảo hiểm Bảo Việt
- Công ty bảo hiểm Bảo Minh
10
- Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE)
- Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (VIA)
- Công ty bảo hiểm liên hiệp (UIC)
- Công ty bảo hiểm Dầu khí (PVI)

- Bảo Hiểm Quân Đội – MIC
- Công ty cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI)
- Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex – Pjico
- Công ty bảo hiểm Liberty
- Công ty TNHH bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA)
- Công ty Bảo hiểm Prudetial
- Công ty TNHH Bảo hiểm Chinfon Manulife
- Công ty tư vấn và dịch vụ bảo hiểm Aon Inchinbrok
- Công ty giám định bảo hiểm Crawford Việt Nam
- Các công ty và chi nhánh của các công ty bảo hiểm của các nước khác…
Bất chấp cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang diễn ra, Việt Nam vẫn đang là
điểm đến của các nhà đầu tư nước ngoài.
2.2. Sự cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm:
Yếu tố cạnh tranh cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình triển khai các
nghiệp vụ bảo hiểm. Những năm qua, với sự mở cửa của nhà nước, các doanh nghiệp bảo
hiểm Việt Nam sẽ mất hẳn sự bảo hộ của nhà nước, không có sự phân biệt đối xử với
doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Theo đó điều kiện gia nhập thị trường bảo hiểm cũng
dễ dàng hơn, ngoài ra việc các công ty bảo hiểm nước ngoài và liên doanh với nước ngoài
được nhà nước cho phép mở rộng lĩnh vực kinh doanh, có hoạt động thâm nhập thị trường
mạnh mẽ làm cho thị trường bảo hiểm vốn đã có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các công ty
trong nước nay càng thêm khốc liệt về cả số lượng và chất lượng dịch vụ. Tiêu biểu là theo
cam kết của WTO, kể từ ngày 01/01/2008, các doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước
ngoài sẽ được kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc trước đây vốn chỉ áp dụng cho
các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, do đó nếu như những công ty bảo hiểm trong nước
không có những chính sách phát triển đúng đắn sẽ dần dần bị các công ty bảo hiểm nước
ngoài nuốt chửng.
2.3. Chính sách quản lý của Nhà nước:
Chính sách quản lý của nhà nước có ảnh hưởng hết sức quan trọng công tác triển
khai các nghiệp vụ bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân nói riêng. Chính
sách quản lý có chặt chẽ, thì những hoạt động bảo hiểm trái phép mới có thể bị hạn chế,

góp phần tạo sự cạnh tranh lành mạnh cho thị trường bảo hiểm. Trong thời gian qua, việc
quản lý của nhà nước về hoạt động bảo hiểm có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Thị trường
11
bảo hiểm Việt Nam dần đi vào nề nếp và có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Hiệp hội
bảo hiểm Việt Nam được thành lập năm 1999, theo Quyết định số 23/QĐ-BTCCBCP của
Chính phủ, với vai trò của mình Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam sẽ góp phần làm lành mạnh
hóa thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường hỏa hoạn nhà tư nhân nói riêng, góp phần
đẩy lùi những hiện tượng kinh doanh trái pháp luật. Đặc biệt hiện nay, luật kinh doanh bảo
hiểm Việt Nam đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực kể từ ngày 01/04/2001 – đây là
văn bản pháp lý quan trọng nhất của thị trường bảo hiểm Việt Nam.
2.4. Tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh:
Một khi tốc độ đô thị hóa càng nhanh, số lượng người chuyển từ nông thôn lên thành
thị càng tăng, nhu cầu về chỗ ở càng tăng do đó sẽ có không ít nhà tư nhân mọc lên. Bên
cạnh đó, rủi ro cháy nổ ở các khu đô thị lớn theo đó cũng tăng lên do đất hẹp người đông,
khi đời sống được nâng cao, nhu cầu bảo vệ chính căn nhà nơi mình ở cùng với những tài
sản giá trị trong đó cũng gia tăng. Do đó đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển gói
sản phẩm bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân. Tuy nhiên, nếu như đô thị hóa không có một
hướng đi đúng đắn mà chỉ mang tính tự phát sẽ một phần gây khó khăn trong công tác
triển khai nghiệp vụ này, do số lượng nhà dân tăng nhưng không theo huy hoạch, chen
chúc nhau trong những con hẻm, những khu dân cư trở nên xuống cấp trầm trọng… khi đó
nguy cơ cháy sẽ xuất hiện, công tác phòng cháy chữa cháy cũng trở nên khó khăn do đó
phí bảo hiểm này sẽ cao hay cũng có thể không bảo hiểm được cho những nơi có rủi ro
cháy quá cao.
2.5. Khả năng tài chính của người dân:
Loại hình bảo hiểm hoạn nhà tư nhân tuy đã xuất hiện cách đây hơn 10 năm, nhưng
chỉ mới phổ biến trong vài năm trở lại đây. Nguyên nhân là do trước đây thu nhập của
người dân còn thấp, chất lượng cuộc sống chưa cao, cũng như chưa có nhiều của cải để
dành, cũng như chưa có những tài sản giá trị lớn nên nhu cầu bảo vệ cũng chưa cao. Khi
khả năng tài chính càng cao, chất lượng cuộc sống được nâng lên kéo theo nhu cầu về hạn
chế những rủi ro trong cuộc sống hàng ngày cũng được quan tâm nhiều hơn. Thêm vào đó

do thói quen sinh hoạt của người dân Việt Nam rất dễ xảy ra cháy nổ như bán thức ăn
(phở, hủ tiếu…), kinh doanh các vật dụng dễ gây cháy nổ ngay trong nhà của mình… nên
dịch vụ bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân rất được ưa chuộng trong thời gian gần đây.
12
2.6. Trình độ của cán bộ bảo hiểm:
Trình độ của cán bộ bảo hiểm cũng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình triển
khai và hoàn thiện sản phẩm bảo hiểm này. Cán bộ bảo hiểm có trình độ, đồng thời nhanh
nhạy, linh hoạt trong việc tiếp cận nhu cầu và thị hiếu của khách hàng thì công tác triển
khai nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân mới đạt được thành công. Trong những
năm qua, phải nhìn nhận rằng trình độ cán bộ bảo hiểm trong nước có tăng lên đáng kể
nhưng nhìn chung vẫn còn thấp so với các nước trên thế giới. Đây là vấn đề cần được tiếp
tục quan tâm nhiều hơn nữa trong những năm tới đây.
Bên cạnh những yếu tố cơ bản trên, nghiệp vụ hỏa hoạn nhà tư nhân còn chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố khác.
3. Thực trạng bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân tại Việt Nam hiện nay:
3.1. Tình hình hỏa hoạn và loại hình bảo hiểm hỏa hoạn nói chung tại Việt Nam
trong những năm gần đây:
Trong năm những năm gần đây, tình hình cháy nổ chuyển biến hết sức phức tạp, đặc
biệt là những tháng cuối năm. Thống kê cho thấy, trong giai đoạn 2000 – 2009, trên địa
bàn cả nước xảy ra 15.906 vụ cháy, làm 2.851 người chết và bị thương, gây thiệt hại trực
tiếp về tài sản ước tính trị giá 3.291 tỷ đồng. Theo Cục Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy,
năm 2009 trên cả nước xảy ra 1.948 vụ cháy, tương đương 5 vụ cháy mỗi ngày, trong đó
có 1.677 vụ cháy cơ sở, nhà dân và 271 vụ cháy rừng, làm 62 người chết, 145 người bị
thương, gây thiệt hại về tài sản ước tính trị giá 500,2 tỷ đồng và 1.373 ha rừng. Cháy lớn
xảy ra 24 vụ (chiếm 1,4% tổng số vụ cháy cơ sở và nhà dân), làm chết 5 người, bị thương
5 người, gây thiệt hại tài sản 314,1 tỷ đồng (chiếm 67% tổng thiệt hại).
Cháy và thiệt hại do cháy gây ra vẫn tập trung ở một số thành phố trực thuộc Trung
ương và các tỉnh có nhiều khu công nghiệp như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương,
Đồng Nai, Hưng Yên và An Giang. Tại 6 địa phương này đã xảy ra 565 vụ cháy (chiếm
34% tổng số vụ cháy), gây thiệt hại 394 tỷ đồng. Phần lớn số vụ cháy xảy ra vẫn do sự cố

điện và sử dụng thiết bị điện, số vụ do ý thức chấp hành các quy định phòng cháy chữa
cháy của người dân (sơ suất trong sinh hoạt và vi phạm quy định về phòng cháy chữa
cháy) tuy có giảm 8,3% so với năm 2008 nhưng vẫn chiếm tỷ lệ cao (477/1.677 vụ), chiếm
28,4% tổng số vụ. Có thể nói chưa bao giờ cháy nổ lại rình rập và gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như cuộc sống của người dân nhiều như
thời gian vừa qua.
13
Tuy nhiên khi nhiều vụ cháy lớn xảy ra liên tiếp, người ta mới phát hiện ra rằng việc
tham gia bảo hiểm cháy nổ còn rất hạn chế. Trong khi số lượng vụ hỏa hoạn tăng một
cách chóng mặt thì năm 2009, doanh thu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc toàn thị trường chỉ
đạt 31,7 tỷ đồng, 5 tháng đầu năm 2010 đạt 44,4 tỷ đồng.
DOANH THU PHÍ BẢO HIỂM CỦA TOÀN THỊ TRƯỜNG
(6 tháng đầu năm 2009)
Nghiệp vụ bảo
hiểm
Phí bảo
hiểm gốc

Nhận
TBH
trong
nước.
Nhận
TBH
ngoài
nước.
Nhượng
TBH
trong
nước.

Nhượng
TBH
ngoài
nước
Giảm
phí,hoà
n phí
bảo
hiểm
Phí bảo
hiểm
thực thu
Bảo hiểm
cháy nổ và
mọi rủi ro tài
sản
606,018 63,488 40,392 169,181 226,269 425 419,716
BH cháy nổ
66,718 3,056 13,702 17,193 23 49,502
BH mọi rủi ro
tài sản khác
539,300 60,432 40,392 155,479 209,076 402 370,214
Tổng
6,442,478 394,726 76,125 917,728 1,426,939 41,328 5,050,336
(Đơn vị/Unit: 1000 000)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nguyên nhân xảy ra tình trạng trên là do những vướng mắc từ hệ thống văn bản pháp luật.
Mặc dù, hệ thống văn bản pháp lý đã quy định chi tiết các đối tượng thuộc diện tham gia
bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều khó khăn và bất cập như: đối
tượng buộc phải tham gia (16 nhóm) chưa bao quát, bản dịch tiếng anh chưa hoàn thiện và

công khai rộng rãi, biểu phí, mức khấu trừ còn rất cao so với biểu phí tự nguyện và chưa
có hướng dẫn bảo hiểm, quy tắc đối với các rủi ro phụ. Nhiều khách hàng đã viện đủ lý do
để trốn tránh việc mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc.
Đến cuối năm 2009, trong số hơn 30.000 cơ sở thuộc diện quy định, chỉ có hơn 15%
tham gia mua bảo hiểm bắt buộc. Nếu tính cả những trường hợp mua bảo hiểm tự nguyện,
tỉ lệ này cũng chỉ vào khoảng 42%. Họ nói rằng họ không thuộc diện tham gia bảo hiểm
cháy nổ bắt buộc theo nghị định của chính phủ. Nhiều doanh nghiệp tư nhân, cơ sở sản
xuất thì không thừa nhận việc mua bảo hiểm cháy nổ bắt buộc vì không có văn bản nào,
thông báo nào từ các cơ quan chức năng xác định doanh nghiệp của họ thuộc diện điều
chỉnh của nghị định.
Thêm vào đó cũng có một số doanh nghiệp chia sẻ rằng: họ cũng muốn thực thi pháp
luật lắm nhưng điều kiện chưa cho phép, chưa có giấy chứng nhận an toàn phòng cháy
14
chữa cháy, chưa được cấp ngân sách, nếu tham gia đầy đủ thì không đủ tiền tham gia, hoặc
có doanh nghiệp đưa ra lý do rằng công ty mẹ ở nước ngoài không đồng ý do không biết
nghị định về bảo hiểm cháy nổ bắt buộc.
Bên cạnh tiềm năng cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm này (nhu cầu bảo hiểm rủi
ro hỏa hoạn và các rủi ro đặc biệt hàng ngày càng gia tăng) thì thực trạng kinh doanh
không có lãi của các doanh nghiệp bảo hiểm đối với nghiệp vụ bảo hiểm hỏa hoạn và rủi
ro đặc biệt cũng đáng phải xem xét.
Theo AVI, doanh thu bảo hiểm hỏa hoạn và rủi ro đặc biệt năm 2005 đạt 5.678 tỷ
đồng và tăng lên 13.641 tỷ đồng vào năm 2009. Tuy nhiên, bắt đầu có dấu hiệu, nhiều
doanh nghiệp bảo hiểm không có lãi trong kinh doanh nghiệp vụ này: năm 2008 có 16
doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp dịch vụ này thì có tới 5 doanh nghiệp lỗ là: AAA, Bảo
Tín, Groupama, Liberty và ACE. Năm 2009, mặc dù nhiều doanh nghiệp tăng đầu tư vốn
chủ sở hữu và dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm song vẫn còn 4/16 doanh nghiệp bị lỗ là:
Liberty, Groupama, Fubon và MSIG.
3.2. Tình hình khai thác bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân tại Việt Nam trong
những năm gần đây:
Hiện nay thị trường bảo hiểm nhà tư nhân được đánh giá rất rộng, trong đó có sự góp

mặt của bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân. Ưu thế khai thác thị trường này dường như vẫn
đang thuộc về các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trong nước như Bảo Việt, Bảo Minh,
Viễn Đông Ra đời từ hơn 10 năm trước, tuy nhiên trong thời gian gần đây mới có thể nói
loại hình bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân mới đang dần đón nhận được sự quan tâm từ phía
người dân.
Nhận thức của người dân Việt Nam (nhất là ở khu vực thành thị, khu đông dân cư)
ngày càng được nâng cao đối với tầm quan trọng của loại hình bảo hiểm này khi thu nhập
càng nâng cao, sở hữu nhà cửa cũng như tài sản có giá trị càng lớn cũng như tình hình
cháy nổ càng diễn biến phức tạp trong năm những năm gần đây kéo theo các tổn thất bảo
hiểm cũng tiếp tục có chiều hướng gia tăng cả vể số vụ và mức độ tổn thất. Thêm vào đó
chi phí mua bảo hiểm ở mức có thể chấp nhận được và sự linh hoạt trong cách tính nên
càng thu hút được khách hàng.
Người mua bảo hiểm nhà có thể chọn mua bảo hiểm với mức phí bằng khoảng 0,1-
0,15% số tiền bảo hiểm căn nhà. Ví dụ, căn nhà có giá trị 1 tỷ đồng, gia chủ muốn mua bảo
hiểm 1 tỷ đồng (có nghĩa là phía bảo hiểm sẽ trả cho gia chủ cao nhất 1 tỷ đồng nếu xảy ra
rủi ro) thì gia chủ phải đóng số phí là 1-1,5 triệu đồng một năm. Gia chủ có thể chọn mua
hình thức bảo hiểm nhà với mức bảo hiểm là giá trị căn nhà hoặc một phần trị giá căn nhà.
15
Theo ông Nguyễn Hữu Ngọc Hiền, Phó giám đốc Ban Nghiệp vụ tài sản và kỹ thuật
Tổng công ty cổ phần Bảo Minh, các hộ gia đình có nhà trị giá vài tỷ đồng đến mua bảo
hiểm rất nhiều, thậm chí có nhiều căn nhà trị giá khoảng 200 triệu đồng cũng đã tìm đến
bảo hiểm để mua sự an tâm. Một số khách hàng tìm đến loại hình bảo hiểm này để tìm
thấy sự an tâm cho những tài sản, nhà cửa được dành dụm cực khổ của mình. Tuy nhiên
hiện nay cũng không ít người mua loại bảo hiểm vì muốn có được sự tư vấn của công ty
bảo hiểm để làm sao tránh được rủi ro một cách tốt nhất, chẳng hạn nên để bình chữa cháy
ở đâu thì hợp lý, các thiết bị điện, đường dây điện đã an toàn chưa vì trước khi ký hợp
đồng, công ty bảo hiểm luôn đến nhà gia chủ để khảo sát và đưa ra những cảnh báo và tư
vấn khắc phục trước.
Tuy nhiên tình hình khai thác trên thị trường vẫn chưa có những dấu hiệu chuyển
biến tích cực trong những năm gần đây. Cạnh tranh hạ phí, mở rộng điều khoản vẫn còn là

những vấn đề nan giải trong thởi gian qua. Bên cạnh đó, do đặc thù nhà Việt Nam san sát,
nhiều nhà nằm dưới đường dây điện chằng chịt, treo lơ lửng hoặc bị “khóa” trong các hẻm
nhỏ và cách xa các trung tâm phòng cháy chữa cháy, do đó rủi ro cho các công ty khi bán
bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân là rất cao.
Bên cạnh đó, theo khảo sát của các công ty bảo hiểm, hiện nay số lượng người dân
có nhu cầu mua bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân không nhiều, phần lớn chỉ mua dưới áp
lực của các ngân hàng khi đem nhà đi thế chấp vay tiền. Ngoài ra, trong quá trình đến nhà
của khách hàng để khảo sát trước khi tiến hành ký hợp đồng, các công ty bảo hiểm ở Việt
Nam đã từng từ chối đề nghị mua bảo hiểm của một số hợp đồng vì nhận thấy độ rủi ro
quá cao, nhất là những căn nhà nằm trong các khu chợ, các căn hẻm quá nhỏ và chằng chịt.
“Tỉ lệ phí Bảo hiểm hiện nay chỉ ở mức 0,15 - 0,2% tổng giá trị tài sản Bảo hiểm, nếu
chúng tôi không khảo sát thực tế mà chỉ dựa vào lời khai của khách hàng thì khó mà gánh
nổi rủi ro”, theo lãnh đạo của một công ty bảo hiểm trong nước phát biểu.
Ngoài ra, để tăng trách nhiệm của khách hàng trong việc bảo vệ tài sản đã được mua
bảo hiểm, các công ty bảo hiểm thường qui định số tiền tối thiểu (mức miễn thường) mà
người mua tự gánh chịu khi tổn thất xảy ra. Giá trị tài sản bảo hiểm càng lớn thì mức miễn
thường càng cao. Ông Phạm Quế Phong, trưởng phòng bảo hiểm tài sản và kỹ thuật của
Tổng công ty cổ phần Bảo Minh, cho biết trong nhiều trường hợp việc khai thác sản phẩm
bảo hiểm nhà tư nhân đều dựa trên kinh nghiệm của nhân viên phụ trách. Nhân viên này sẽ
căn cứ trên lời khai của khách hàng để xác định vị trí căn nhà, từ đó định ra mức phí thích
hợp, do đó nếu nhân viên kinh nghiệm càng thấp công ty bảo hiểm càng phải gánh chịu rủi
ro nhiều hơn. Tuy nhiên, ông Phong chia sẻ: “Chúng tôi đang tính toán làm một chương
16
trình quảng bá mạnh mẽ sản phẩm này, kể cả việc giảm bớt phí bảo hiểm để khuyến khích
người dân tham gia trong giai đoạn đầu”.
Một khía cạnh nữa, khi chi phí bảo hiểm không phải là lý do lớn nhất mà việc có
tham gia hay không còn lệ thuộc nhiều vào ý thức của các hộ dân. Ở Việt Nam, người dân
thường do thói quen từ xa xưa nên thường không có ý thức và ít có nhu cầu mua bảo hiểm
cho ngôi nhà của mình. Do số lượng khách hàng cho loại hình bảo hiểm nhà tư nhân tuy có
tăng nhưng vẫn còn hạn chế so với tiềm năng vốn có của nó, các công ty bảo hiểm thường

cung cấp loại hình nghiệp vụ này trong một gói sản phẩm tùy thuộc vào từng công ty. Điển
hình là Công ty cổ phần Bảo Minh, căn cứ trên nhu cầu thực tế của hộ gia đình, công ty đã
cho ra đời sản phẩm bảo hiểm trọn gói “Bảo hiểm Hộ gia đình” gồm 3 loại Bảo hiểm sức
khỏe, Bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân, Bảo hiểm xe mô tô với mức phí ưu đãi phù hợp với
thu nhập của người dân.
4. Giải pháp phát triển loại hình bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân ở Việt Nam:
4.1. Nhận định về tiềm năng phát triển trong tương lai của loại hình này
Với mức thu nhập bình quân đầu người đạt 1000 USD/năm vào năm 2009 và ngày
càng được nâng cao, thị trường bảo hiểm Việt Nam thực tế được xem là hấp dẫn hàng đầu
châu Á. Vì vậy, hiện tại đã có tới 21 các công ty, tập đoàn bảo hiểm quốc tế có mặt tại Việt
Nam, trong đó có những tập đoàn hàng đầu thế giới với hơn 100 loại sản phẩm bảo hiểm
phi nhân thọ, 60 sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đang được chào bán. Giá trị của thị trường
bảo hiểm Việt Nam sẽ đạt con số hàng chục ngàn tỉ đồng trong 5 năm tới.
Riêng thị trường bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân, sẽ là một thị trường hấp dẫn đối
với các công ty bảo hiểm trong những năm tới khi thu nhập người dân ngày càng tăng và
nhận thức về rủi ro hỏa hoạn ngày càng được cải thiện. Đặc biệt là khi tài sản tích lũy ngày
càng tăng, giá trị tài sản ngày càng lớn thì người dân sẽ quan tâm nhiều hơn đến việc bảo
vệ nó.
Vừa qua, sau vụ cháy ở tầng 18 khu chung cư JSC 34 Lê Văn Lương, Hà Nội thì
người dân đã nhận ra sự cẩn thiết của bảo hiểm. Và nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã nhanh
chóng nhận ra phân khúc thị trường bảo hiểm chung cư cao tầng ở Việt Nam còn rất nhiều
tiềm năng và đang tăng dần theo tốc độ xuất hiện của các khu đô thị mới.
Theo số liệu thống kê chưa chính thức, trên cả nước, hiện đang có khoảng vài trăm
nghìn hộ gia đình sống ở căn hộ chung cư. Nếu cứ tính trung bình mỗi gia đình có 4 nhân
17
khẩu, thì số người đang sống tại các khu chung cư này cũng đến triệu người. Với tốc độ đô
thị hoá hiện nay, số người chuyển đến sống tại các căn hộ chung cư sẽ ngày càng gia tăng.
Do đó, bảo hiểm nhà chung cư cao tầng đang được xem là một thị trường rất tiềm năng
trong thời gian tới.
Tuy nhiên, cho đến nay sản phẩm này vẫn chưa được triển khai mạnh, bởi bên mua

thì chưa quan tâm đến vấn đề bảo hiểm, bên bán thì chưa đưa ra sản phẩm phù hợp với đối
tượng dân cư này. Thực tế, những sản phẩm bảo hiểm đã được đưa ra thị trường mới tiếp
cận được chủ yếu là đối tượng người nước ngoài hoặc người trong nước có thu nhập cao
bởi trách nhiệm bảo hiểm rất lớn nên mức phí cũng khá cao.
Về doanh thu trong tương lai của sản phẩm mới này, lãnh đạo BIC thừa nhận, BIC
chưa hy vọng sản phẩm này sẽ mang lại ngay nguồn doanh thu lớn cho Công ty. Tuy
nhiên, ông Trần Trung Tính, Phó giám đốc BIC nhận định, trong tương lai, số người
chuyển đến sống tại các căn hộ chung cư sẽ ngày càng tăng lên. Khi đó, nhu cầu của người
dân về các sản phẩm bảo hiểm được thiết kế riêng để bảo vệ họ trước các rủi ro tại các tòa
chung cư đang sinh sống sẽ ngày càng cao. “Chúng tôi đánh giá thị trường bảo hiểm cho
các khu chung cư còn rất nhiều tiềm năng, đặc biệt là sau các sự cố tại các chung cư xảy ra
trong thời gian vừa qua, người dân sẽ quan tâm nhiều hơn đến vấn đề an toàn cho bản thân
và cho cả gia đình” ông Tính cho biết.
Đánh giá về thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam, lãnh đạo Cục Quản lý giám
sát bảo hiểm cho rằng, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam vẫn có nhiều tiềm
năng lớn. Trong thời gian qua, có một thực tế là các doanh nghiệp bảo hiểm còn thiếu định
hướng dài hạn cho hoạt động kinh doanh, chưa đầu tư đúng mức vào phát triển nghiệp vụ
bảo hiểm cũng như công tác thống kê và định phí bảo hiểm.
4.2. Các biện pháp thực hiện
4.2.1. Về công tác tuyên truyền
Trong cơ chế thị trường, khách hàng thường rất khó tính, hơn nữa với sự xuất hiện
của nhiều công ty bảo hiểm trong và ngoài nước cùng triển khai nghiệp vụ này thì biện
pháp tốt nhất để thu hút khách hàng chính là công tác tuyên truyền quảng cáo. Khi đi khai
thác bảo hiểm do khách hàng chưa có sự hiểu biết về loại hình nghiệp vụ này nên đòi hỏi
cán bộ khai thác phải hướng dẫn tận tình, nêu rõ cho khách hàng thấy những mặt thuận lợi
khi họ tham gia bảo hiểm hỏa hoạn.
18
Thu hút khách hàng qua thành phần trung gian cũng là điều cần được quan tâm, các
công ty bảo hiểm cần đẩy mạnh và mở rộng hơn nữa đối với các ngành quản lý chủ quan
và ngành liên quan như Tổng cục đầu tư và phát triển, các ngân hàng thương mại, lực

lượng cảnh sát PCCC, các Công ty dịnh vụ tư vấn về đầu tư, các doanh nghiệp nhà nước,
tư nhân lớn để thông qua những đối tượng này mà có thể giới thiệu sản phẩm bảo hiểm
hoả hoạn với khách hàng. Ngoài ra cần quan hệ chặt chẽ hơn với các Công ty bảo hiểm địa
phương. Đây là những tiềm năng to lớn cần được khai thác.
Về hoa hồng: Đối vơi các Công ty môi giới, những cộng tác viên hoặc cá nhân đứng
ra mua bảo hiểm cũng cần có những chính sách hoa hồng thoả đáng cho họ. Trong cạnh
tranh hai doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện bảo hiểm và tỷ lệ phí bảo hiểm như nhau
người mua bảo hiểm và các môi giới sẽ đến với doanh nghiệp nào có tỷ lệ hoa hồng cao
hơn vì vậy chính sách hoa hồng hết sức linh hoạt và hấp dẫn, phải căn cứ vào hiệu quả mà
quyết định hoa hồng.
4.2.2. Hoàn thiện và nâng cao công tác bồi thường
Khách hàng chỉ nhận thấy rõ tác dụng của bảo hiểm nhất là khi họ gặp rủi ro. Trách
nhiệm của bảo hiểm lúc này là phải bồi thường. Khẩu hiệu “Bồi thường nhanh chóng
chính xác và công bằng” phải hoàn toàn tuân theo trong mọi trường hợp vì đây là lĩnh vực
tuyên truyền quảng cáo có hiệu quả nhất gây uy tín cho Công ty bằng sự việc cụ thể chứ
không phải bằng những lời nói suông. Song song với việc phục vụ tốt khách hàng các công
ty bảo hiểm cần tăng cường quỹ dự trữ bồi thường nhằm năng cao tính thánh khoản trong
những trường hợp rủi ro xảy ra. Trong thực tế thủ tục về công tác bồi thường còn rất rườm
rà và phức tạp và tốn khá nhiều thời gian. Các công ty bảo hiểm cần phải có tài liệu về
hướng dẫn giải quyết bồi thường cho khách hàng cụ thể khi yêu cầu bồi thường, khách
hàng cần thiết phải làm ngay những công việc gì, phải nộp ngay những giấy tờ gì để việc
bồi thường được diễn ra nhanh chóng.
4.2.3. Và một số biện pháp khác
Bên cạnh đó thì Bộ Tài Chính cũng nên sửa chữa chế độ chính sách liên quan đến
lĩnh vực bảo hiểm hỏa hoạn và rủi ro đặc biệt, cùng với đó là tăng cường giám sát kiểm tra,
xây dựng cơ chế thông tin giữa các doanh nghiệp bảo hiểm và các cơ quan chức năng, đẩy
mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền. Cũng cần có những hướng dẫn cụ thể chi tiết về việc
thi hành những chính sách về bảo hiểm hỏa hoạn để tránh những trường hợp các doanh
nghiệp bảo hiểm và cá nhân không biết áp dụng vào thực tế các chính sách của Bộ. Về
quản lý nhà nước, cũng cần sửa đổi Luật phòng cháy chữa cháy. Về cơ chế chính sách cần

19
sửa đổi quy định về tỷ lệ 5% kinh phí phòng cháy chữa cháy phải nộp và tỷ lệ giữ lại của
các doanh nghiệp bảo hiểm (không tính phần phí tái bảo hiểm) phù hợp hơn với thực tế.
Các công ty bảo hiểm cũng cần phải hoàn thiện bộ phận tư vấn của mình về công tác
phòng cháy chữa cháy tới những cá nhân tham gia bảo hiểm để hạn chế tối đa khả năng
xảy ra rủi ro cũng như tư vấn về các công tác phòng cháy chữa cháy cần thiết, cách bố trí
và lắp đặt để hạn chế rủi ro xảy ra hỏa hoạn đặc biệt là trong những mùa khô nóng. Ngoài
ra công ty cũng nên thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo với sự có mặt của các cơ quan
chức năng và những người giàu kinh nghiệm trong công tác PCCC và những người tham
gia bảo hiểm nhằm tuyên truyền nâng cao kiến thức PCCC tới mọi người.
20
KẾT LUẬN
Bảo hiểm hoả hoạn nói chung và bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân nói riêng là nghiêp
vụ bảo hiểm rất cần thiết trong đời sống cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
người dân Việt Nam. Khi cuộc sống ngày càng được cải thiện, nhận thức của người dân về
rủi ro được đầy đủ thì bảo hiểm hỏa hoạn nhà tư nhân sẽ là một chỗ dựa vững chắc cho
từng gia đình Việt Nam. Cùng với sự phát triển của xã hội, phạm vi bảo hiểm sẽ ngày càng
trở nên rộng rãi hơn, thể hiện tiềm năng phát triển của loại hình bảo hiểm này.
Tuy nhiên, vì là một nghiệp vụ truyền thống, lại rất phức tạp do liên quan nhiều đến
luật pháp hiện hành nên sẽ không tránh khỏi những vướng mắc, tồn tại cần có thời gian để
hoàn thiện dần. Qua việc mở rộng quan hệ, đi sâu đi sát thị trường và không ngừng đổi
mới hoàn thiện, bảo hiểm hoả hoạn nhà tư nhân sẽ ngày càng thể hiện rõ vị trí của nó. Với
một cơ chế đầu tư thoáng và mang tính khuyến khích cao như hiện nay, sẽ có rất nhiều cá
nhân, tổ chức và doanh nghiệp nước ngoài đến sinh sống và bỏ vốn vào kinh doanh tại
Việt Nam. Chắc chắn họ sẽ quan tâm đến luật pháp của Việt Nam và phát sinh nhu cầu về
bảo hiểm tài sản. Khi đó, nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn nhà tư nhân sẽ thực sự khẳng định
tầm quan trọng và hiệu quả của mình.
Cuộc sống luôn tiềm ẩn những biến động và rủi ro khó lường, bảo hiểm là phương
cách ưu việt nhất để bảo vệ tài sản và cuộc sống bình an của chúng ta!
21

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thị trường bảo hiểm Tài sản Việt Nam, tác giả Đào Mạnh Dương, Phó phòng phi
hải VINARE, Tạp chí Thị trường Bảo hiểm – Tái bảo hiểm Việt Nam Số 1/2009
2. Bài viết trên internet:
a) />b) />c) />option=com_content&view=article&id=95&Itemid=89&lang=vi
d) />no-21/nha-chay-nhung-he-thong-bao-chay-khong-hoat-dong-56
e) />f) />cap.html
g) />22

×