Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA BẢO HIỂM ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ MỘT QUỐC GIA NÓI CHUNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.3 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
LỚP NH10
Đề tài 1
SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA BẢO HIỂM ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ MỘT QUỐC GIA NÓI CHUNG
GIẢNG VIÊN : NGUYỄN TẤN HOÀNG
DANH SÁCH NHÓM:
1) Nguyễn Hữu Tùng
2) Phan Trường Vũ
3) Ngô Anh Khoa
4) Thới Mỹ Hạnh
5) Vũ Thị Ngọc
I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM:
1
1. Bản chất của bảo hiểm
Cơ chế hoạt động của bảo hiểm tạo ra một sự đóng góp của số đông
vào sự bất hạnh của số ít trên cơ sở quy tụ nhiều nguời có cùng rủi ro thành
cộng đồng nhằm phân tán hiệu quả tài chính của những vụ tổn thất. Như
vậy, thực chất mối quan hệ trong hoạt động bảo hiểm không chỉ là mối quan
hệ giữa các tổ chức bảo hiểm và nguời tham gia bảo hiểm mà là tổng thể các
mối quan hệ giữa những người tham gia trong cùng cộng đồng xoay quanh
việc hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm - một hình thức đặc biệt của các
khoản dự trữ bằng tiền.
Các mối quan hệ kinh tế phát sinh gắn với việc tạo lập và phân phối
quỹ bảo hiểm đuợc thể hiện ở hai mặt:
- Một là , chúng nảy sinh trong quá trình huy động phí bảo hiểm để
lập quỹ bảo hiểm. Nguồn thu hình thành quỹ bảo hiểm càng lớn
khi số luợng nguời tham gia bảo hiểm càng đông.
- Hai là, chúng nảy sinh trong quá trình huy động sử dụng quỹ bảo
hiểm. Quỹ bảo hiểm truớc hết đuợc sử dụng để bù đắp những tồn
thất cho nguời đuợc bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đuợc bảo hiểm


làm ảnh huởng đến sự liên tục của đời sống sinh hoạt và hoạt động
sản xúât kinh doanh trong nền kinh tế xã hội. Quỹ bảo hiểm còn
đuợc sử dụng trang trải các chi phí hoạt động của chính nguời bảo
hiểm, tham gia vào các mối quan hệ phân phối mang tính pháp
định ( thuế, phí…) và mang lại lãi kinh doanh ( trong truờng hợp là
bảo hiểm thuơng mại).
Như vậy, thực chất bảo hiểm là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh
trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội duới hình thái giá trị
nhằm hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm cho mục đích bù đắp tổn thất do
rủi ro bất ngờ gây ra cho người đuợc bảo hiểm, đảm bảo cho quá trình tái
sản xuất được thuờng xuyên và liên tục.
Truớc đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, việc tuyệt đối hoá vai
trò của kinh tế nhà nuớc và kinh tế tập thể nói chung và sự độc quyền nhà
nuớc trong lĩnh vực bảo hiểm đã làm cho các mối quan hệ của bảo hiểm trở
nên đơn giản và việc sử dụng quỹ bảo hiểm trở nên kém hiệu quả . Sự
chuyển huớng sang nền kinh tế thị truờng hiện nay , như đã đề cập, đã tạo ra
tiền đề khách quan và cơ sở vững chắc cho những hoạt động của bảo hiểm.
2
Bên cạnh đó, trong nền kinh tế thị trường các mối quan hệ kinh tế
( trong đó có các mối quan hệ thuộc bảo hiểm) rất đa dạng phức tạp . Bảo
hiểm, ở mọi góc độ ( doanh nghiệp, sản phẩm, quản lí nhà nuớc, hiệp hội…),
bức thiết phải đuợc xây dựng và hoàn thiện nhanh chóng nhằm phát huy
chức năng vốn có của mình: bảo vệ con nguời, bảo vệ tài sản,của cải vật chất
của xã hội.
2. Vai trò – tác dụng của bảo hiểm:
Hoạt động của bảo hiểm thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội. Trong điều kiện kinh tế hàng hoá phát triển với nhiều
thành phần kinh tế, sự đa dạng của các loại hình doanh nghiệp và các ngành
nghề, sự phát triển của các nhu cầu của các tầng lớp dân cư trong xã hội về
của cải vật chất,bảo hiểm và đảm bảo xã hội đòi hỏi các hoạt động bảo hiểm

phải thích ứng với cơ chế thị truờng và phát huy vai trò ở mọi lĩnh vực khác
nhau.
Nhìn chung thì vai trò của bảo hiểm có thể đuợc xét ở hai khía cạnh :
kinh tế- xã hội và tài chính.
2.1. Khía cạnh kinh tế - xã hội:
Rủi ro tổn thất phát sinh làm thiệt hại các đối tuợng : của cải vật chất
do con nguời tạo ra và chính cả bản thân con ngưòi, làm gián đoạn quá trình
sinh hoạt của dân cư , ngưng trệ hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh
tế. Nói chung, nó làm gián đoạn và giảm hiệu quả và giảm hiệu qủa của quá
trình tái sản xuất xã hội.
Quỹ dự trữ bảo hiểm đuợc tạo lập truớc một cách có ý thức, khắc phục
hậu quả nói trên, bằng cách bù đắp các tổn thất phát sinh nhằm tái lập và
đảm bảo tính thuờng xuyên liên tục của các quá trình xã hội. Như vậy, trên
phạm vi rộng toàn bộ nền kinh tế xã hội, bảo hiểm đóng vai trò như một
công cụ an toàn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động của mọi chủ thể
dân cư và kinh tế . Với vai trò đó, bảo hiểm khi thâm nhập sâu rộng vào mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội đã phát huy tác dụng vốn có của mình : thúc
đẩy ý thức đề phòng - hạn chế tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội .
3
Bảo hiểm là môi truờng nghề nghiệp của một số luợng lớn lao động.
Lao động trong ngành bảo hiểm cùng với các ngành nghề khác tạo ra nhiều
giá trị gia tăng cho cả nền kinh tế , góp phần đáng kể vào tổng GDP của
quốc gia ( hầu hết các nuớc có nền kinh tế phát triển đều có tỷ trọng đóng
góp của bảo hiểm vào GDP khoảng 6 – 10%). Hoạt động bảo hiểm là một
trong những hoạt động có mối quan hệ với nhiều ngành nghề khác nhất.
Không những thế, ngày nay hoạt động bảo hiểm không chỉ huớng đến việc
phân phối lại về mặt gía trị mà còn huớng đến vai trò xã hội tích cực hơn,
trong việc chống lại những hậu quả bất hạnh của cuộc sống. Các chuơng
trình hỗ trợ của bào hiểm ngày càng phát triển và đa dạng, các hoạt động
mang tính chất cộng đồng thể hiện qua việc hỗ trợ tuyên truyền đề phòng

hạn chế tai nạn ( nhất là tai nạn giao thông), bệnh tật, hỗ trợ các trung tâm
phụ hồi chức năng cho nguời tàn tật, hình thành các trung tâm cứu hộ…).
Hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ không chỉ thúc đẩy ý thức phòng ngừa rủi
ro của tất cả các thành viên trong xã hội mà còn làm giảm thiệt hại về mặt
kinh tế ,tổn thất giảm đi , đồng thời với giá trị của nền kinh tế tăng lên, mức
đóng góp của các thành viên trong quỹ bảo hiểm cũng giảm đi
2.2. Khía cạnh tài chính:
Sản phẩm bảo hiểm là một loại dịch vụ đặc biệt : một lời cam kết đảm
bảo cho sự an toàn ( an toàn động), hơn nữa, một loại hàng hoá dịch vụ
( trên thị truờng bảo hiểm thưong mại). Tổ chức hoạt động bảo hiểm với tư
cách là một đơn vị cung cấp một loại sản phẩm dịch vụ cho xã hội, tham gia
vào quá trình phân phối như là một đơn vị ở khâu cơ sở trong hệ thống tài
chính.
Mặt khác sự tồn tại và phát triển của bảo hiểm khônh chì đáp ứng nhu
cầu đảm bảo an toàn mà còn đáp ứng cho nhu cầu vốn không ngừng tăng lên
của qúa trình tái sản xuất mở rộng, đặc biệt là trong nền kinh tế thị truờng .
Với việc thu phí theo ngyên tắc ứng truớc , các tổ chức hoạt động bảo hiểm
chiếm giữ một quỹ tiền tệ rất lớn thể hiện cam kết của họ đối với khách
hàng nhưng tạm thời nhàn rỗi. Và như vậy, các tổ chức hoạt động bảo hiểm
đã trở thành những nhà đầu tư lớn, quan trọng cho các hoạt động khác của
nền kinh tế quốc dân.
4
Bảo hiểm, do dó, không chỉ đóng vai trò của một công cụ an toàn mà
còn có vai trò của một trung gian tài chính, nắm giữ phần quan trọng trong
các doanh nghiệp công nghiệp và thuơng mại lớn. Hoạt động đầu tư tài
chính của các tổ chức bảo hiểm vì thế có ảnh huởng lớn, nhất là trên thị
truờng đầu tư trung và dài hạn. Tuy nhiên, do yêu cầu đầu tư an toàn, đảm
bảo khà năng thanh toán cho những cam kết nên danh mục đầu tư của các tổ
chức bảo hiểm phải chịu sự giám sát của cơ quan quản lí nhà nuớc.
Với các vai trò nói trên , bảo hiểm phát huy tác dụng hết sức quan

trọng, đặc biệt trong nền kinh tế thị truờng, đó là : tập trung, tích tụ vốn đảm
bảo cho quá trình tái sản xuất được thuờng xuyên và liên tục , là một trong
những định chế tài chính quan trọng trong nền kinh tế của một quốc gia.
II. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA BẢO HIỂM:
Xem xét mối quan hệ giữa sự phát triển của ngành bảo hiểm trong tương
quang chung với sự phát triển của toàn nền kinh tế ở nhiều nuớc, nhiều nhà
kinh tế học đã khẳng định tác dụng to lớn, cũng như vai trò không thể thiếu
của bảo hiểm đối với nền kinh tế. Thực tế cho thấy, sự tồn tại của một thị
trường bảo hiểm mạnh là một trong những yếu tố cơ bản của bất cứ nền kinh
tế thành công nào. Tác dụng của bảo hiểm thể hiện rõ trên nhiều phương
tiện. Ngoài việc giúp bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất, bảo hiểm còn sử
dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi, tạo được nguồn vốn lớn để đầu tư
vào các lĩnh vực khác. Cũng nhờ bảo hiểm mà ngân sách nhà nước hàng
năm có nguồn đóng góp không nhỏ, mọi người có được tâm lý an tâm trong
kinh doanh, trong cuôc sống, công tác đề phòng và hạn chế tổn thất được
tăng cường.
1- Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất.
Bù đắp thiệt hại, khắc phục tổn thất là tác dụng chủ yếu của bảo hiểm và
cũng xuất phát chính từ nhu cầu này mà bảo hiểm đã ra đời. Nói đến bảo
hiểm là nói đến khả năng bồi thường khi có tổn thất xảy ra, và vai trò của
các công ty bảo hiểm là cung cấp các loại dịch vụ đặc biệt nhằm khôi phục
khả năng vật chất, tài chính như trước khi xảy ra rủi ro, hoặc bồi thường cho
người thụ hưởng trong hợp đồng bảo hiểm con người.
5
Mặc dù trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật đã phát triển cao,
nhưng rủi ro bất ngờ vẫn có thể xảy ra và thực tế đã chứng minh rằng nhiều
cá nhân và gia đình trở nên khó khăn, túng quẫn khi có một thành viên trong
gia đình, đặc biệt thành viên đó lại là người trụ cột bị chết hoặc bị thương tật
vĩnh viễn. Khi đó, gia đình phải chi phí mai táng, chôn cất, chi phí nằm viện,
thuốc men, chi phí phẫu thuật và bù đắp những khoản thu thường xuyên bị

mất đi. Khó khăn hơn là một loạt các nghĩa vụ và trách nhiệm mà người chết
chưa kịp hoàn thành như: trả nợ, phụng dưỡng bố mẹ già, nuôi dạy con cái
ăn học…Dù rằng hệ thống bảo trợ xẫ hội và các tổ chức xã hội có thể trợ cấp
khó khăn, nhưng cũng chỉ mang tính tạm thời trước mắt, chưa đảm bảo được
lâu dài về mặt tài chính. Tham gia BH sẽ phần nào giải quyết được những
khó khăn đó.
2- Tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất
Bên cạnh khả năng giải quyết các hậu quả của rủi ro, bảo hiểm còn góp
phần thực hiện một nội dung trong các biện pháp rủi ro. Đó là đề phòng và
hạn chế mức thấp nhất những tổn thất có thể xảy. Nhờ đó, những thiệt hại
đáng tiếc về người và tài sản được giảm thiểu và những hậu quả về kinh tế -
xã hội cũng được chủ động phòng tránh.
Trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có
đầy đủ thu nhập và điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều
trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta
bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn,
bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động , mất việc làm hay khi tuổi
già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm v.v Khi rơivào
những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết, trong cuộc sốngkhông vì thế
mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số
nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau;tai nạn
thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng v.v Bởi vậy,
muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm
ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc
lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của
Nhà nước v.v Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không
chắc chắn.
6
Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và
yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh

tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ
tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi
ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, sự tham gia là
bắt buộc và không chỉ người lao động đóng góp mà giới chủ và Nhà nước
cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế ba bên). Tính chất đoàn kết
và san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét: mọi người, không phân biệt già - trẻ,
nam - nữ, lao động phổ thông - lao động kỹ thuật, người khoẻ - người yếu
mà tất cả đều phải tham gia đóng góp vì mục đích chung. Mô hình này của
Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin, rồi đến Bắc Mỹ
và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ
hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu á, châu Phi
và vùng Caribê. BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống
An sinh xã hội và được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền
con người.
Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề
của giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế xã
hội, cùng với trình độ chuyên môn và nhận thức về BH của người lao động
ngày càng được nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những sự
kiện hoặc không may gặp những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy
nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng như
những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thoả và có hiệu quả nhất.
Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài người trong quá
trình phát triển: sự chia sẻ. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách
quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải
tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết được BHXH.
3- Sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi, tạo được nguồn vốn
lớn để đầu tư vào lĩnh vực khác
Trong cuộc sống cũng như trong kinh doanh người ta luôn phải tính đến
những rủi ro có thể gặp phải, và luôn muốn chủ động trong tình uống xấu
nhất. Việc khắc phục rủi ro đòi hỏi các cá nhân, tổ chức phải bỏ ra một

khoản tiền lớn lập quỹ dự phòng. Xét trên toàn xã hội, tổng các quỹ dự
phòng sẽ là một khoản tiền không nhỏ, có nhả năng sinh lợi lớn nếu đem đầu
tư.
7
Thông qua dịch vụ BH, một dịch vụ có đối tượng tham gia rất đông đảo,
các nhà bảo hiểm thu được phí để hình thành quỹ bảo hiểm, quỹ này được sử
dụng chủ yếu vào mục đích bồi thường, chi trả và dự phòng. Khi nhàn rỗi,
nó sẽ là nguồn vốn đầu tư hữu ích góp phần phát triển và tăng trưởng kinh
tế. Nguồn vốn này không chỉ có tác dụng đầu tư dài hạn, mà còn góp phần
thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo thêm công ăn việc làm cho người
lao động.
Ngày nay ở nhiều nước trên thế giới, những tiến bộ khoa học đã góp phần
đẩy nhanh quá trình phát triển sản xuất, nâng cao đời sống kinh tế xã hội,
kéo dài tuổi thọ của dân cư. Tuổi thọ tăng thể hiện đời sống vật chất tinh
thần cao. Đây là điều đáng mừng, song nó cũng đặt ra cho xã hội, trước hết
là nguồn ngân sách Nhà nước một số vấn đề cần được quan tâm giải quyết.
Đó là việc phải dành một khoản kinh phí ngân sách ngày càng tăng tương
ứng với mức tăng dân số và tuổi thọ để giải quyết các chế độ đảm bảo xã
hội, nhất là đối với những người già yếu, không nơi nương tựa. Do vậy,
phần vốn ngân sách đầu tư cho phát triển ít nhiều nhất định sẽ bị ảnh hưởng.
Nhằm khắc phục ảnh hưởng ấy, nhiều nước trên thế giới đã dùng biện pháp
khác để bổ sung vốn đầu tư phát triển. Đó là mở rộng thị trường BHNT, huy
động mọi tầng lớp dân cư tham gia mua BHNT dài hạn. Đây được coi là
biện pháp hỗ trợ ngân sách Nhà nước trong việc đảm bảo sinh hoạt bình
thường cho những người già yếu, những người mất sức bên cạnh các khoản
phúc lợi xã hội của Nhà nước và là nguồn vốn bổ sung cho ngân sách Nhà
nước trong việc đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giữ gìn trật
tự và ổn định xã hội. Chẳng hạn, ở Mỹ, trong tổng số vốn đầu tư phát triển
sản xuất hiện nay thì 30% là vốn huy động được từ các quỹ BHNT. Ở Đức
ngày nay, người hưu trí còn có khoản thu thêm từ quỹ BHNT bổ sung cho

thu nhập tuổi già của mình và khoản này chiếm 20% thu nhập hàng tháng
của họ.
Hơn nữa hoạt động đầu tư cũng chi phối chiến lược thiết kế sản phẩm và
tính phí bảo hiểm của công ty và đóng một vai trò nhất định trong quan hệ
với khách hàng .Lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư sẽ quyết định đến
các sản phẩm bảo hiểm của công ty. Nếu thu nhập của hoạt động đầu tư cao
8
sẽ giúp sản phẩm đưa ra hấp dẫn hơn đối với khách hàng về phí, về lãi đầu
tư…trong khi tỷ lệ lãi đầu tư thấp có thể làm cho các sản phẩm kém cạnh
tranh và có thể dẫn đến mất khách hàng.
Ngoài việc là một công cụ hữu hiệu để huy động những nguồn tiền mặt
nhàn rỗi ở các tầng lớp dân cư trong xã hội để thực hành tiết kiệm thì bảo
hiểm còn góp phần chống lạm phát. Xét về mặt sản phẩm, tất cả sản phẩm
của BHNT đều có khả năng chống lại ảnh hưởng của lạm phát vì khi tính phí
bảo hiểm, công ty bảo hiểm đã áp dụng một tỷ lệ chiết khấu phí (lãi kỹ
thuật), phần lãi này sẽ bù đắp lại phần trượt giá. Khi tham gia BHNT, khách
hàng có thể yên tâm về giá trị đồng tiền vì khi tham gia bảo hiểm, số tiền
nộp phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm (NTGBH) không phải là tiền
“chết” mà là tiền “đẻ” ra tiền. Số phí bảo hiểm mà NTGBH đóng được công
ty bảo hiểm đem đầu tư và lãi đầu tư được trả lại cho NTGBH dưới hình
thức chiết khấu phí (tính lãi cho phí bảo hiểm đóng ), ngoài ra còn dưói hình
thức lãi chia (bảo tức ). Thông thường, do thực hiện đa dạng hoá đầu tư nên
lãi suất đầu tư của các Cty BHNT thường cao hơn lãi suất tiết kiệm tiền gửi
Ngân Hàng (và cao hơn tỷ lệ lạm phát), như vậy NTGBH được hưởng lãi
suất dương từ số phí đóng, tức là bảo toàn và tăng được giá trị của khoản
tiền đóng phí bảo hiểm. Một điều cũng cần lưu ý là, khi tham gia bảo hiểm
và đóng phí định kỳ, không phải toàn bộ số phí đóng phải chịu ảnh hưởng
của lạm phát tương ứng với thời hạn bảo hiểm mà từng phần phí đóng sẽ
chịu ảnh hưởng trong những thời hạn khác nhau. Qua đó, chúng ta thấy vai
trò to lớn của BHNT trong việc kìm hãm lạm phát.

4- Tăng thu, giảm chi ngân sách nhà nước
Hàng năm, thông qua việc nộp thuế, bảo hiểm đã đóng góp một phần
không nhỏ vào ngân sách nhà nước. Khi doanh thu ngành bảo hiểm tăng thì
lượng thuế nộp vào cho nhà nước từ đó cũng nhiều lên. Bên cạnh đó, các
chương trình hỗ trợ bảo hiểm ngày càng phát triển và đa dạng, các hoạt động
mang tính chất cộng đồng thể hiện qua việc hỗ trợ, tuyên truyền đề phòng
hạn chế tai nạn (nhất là tai nạn giao thông), bệnh tật, hỗ trợ các trung tâm
phục hồi chức năng cho người tàn tật, hình thành các trung tâm cứu hộ…
Hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ không chỉ thúc đẩy ý thức phòng ngừa rủi
ro của tất cả các thành viên trong xã hội mà còn tiết kiệm cho ngân sách
9
thông qua việc thực hiện tốt khâu phòng ngừa và hạn chế tổn thất, giúp bảo
vệ tốt tài sản công cộng, giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại đáng tiếc.
Điều này giúp nhà nước giảm bớt chi tiêu những khoản lớn để bù đắp những
tổn thất như phải xây dựng đường xá, cầu cống, nhà xưởng, công trình…
ngoài ra, một thị trường bảo hiểm phát triển mạnh mẽ và ổn định sẽ thu hút
các cá nhân và tổ chức mua bảo hiểm của công ty bảo hiểm trong nước, góp
phần tiết kiệm một khoản ngoại tệ lớn cho ngân sách nhà nước.
5- Tạo tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống.
Khi kinh doanh ngày càng phát triển, đời sống xã hội ngày càng được
nâng cao thì người ta càng có nhu cầu được đảm bảo an toàn cho tương lai.
Môi trường kinh doanh cũng như môi trường xã hội đang dần xuất hiện
những rủi ro mới. Những rủi ro thiên nhiên như bão lũ, hạn hán, cháy rừng
tự nhiên… đang trở lên hết sức phức tạp. Thế giới đang biến triển hết sức
phức tạp, khó đoán như chiến tranh, khủng bố, xung đột. trong tình hình như
vậy, bảo hiểm chính là một giải pháp hữu hiệu, góp phần tích cực tạo ra tâm
lý an tâm trong kinh doanh trong cuộc sống cho con người.
III. THỰC TRẠNG BẢO HIỂM VIỆT NAM HIỆN NAY
A-Những thách thức của ngành bảo hiểm hiện nay
Bên cạnh những cơ hội phát triển của việc mở cửa thị trường, ngành

bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty bảo hiểm trong nước
nói riêng cũng phải giải quyết những bài toán hết sức khó khăn:
1. Số lượng các DNBH được cấp phép hoạt động ngày một gia
tăng và biến động về nhân sự đặc biệt là nhân sự cao cấp giữa các
DNBH
Các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước nếu đủ điều kiện thao luật
định đều có quyền xin phép thành lập DNBH, trong đó có các DNBH nước
ngoài theo đúng cam kết WTO. Điều này gần như đương nhiên vì tiềm năng
và cơ hội phát triển của thị trường BH nhân thọ và phi nhân thọ còn đầy hứa
hẹn, tốc độ tăng trưởng của ngành BH tương đối hấp dẫn, BH còn được
dùng dự phòng nghiệp vụ BH vào đầu tư tài chính có khả năng sinh lời cao.
Tuy nhiên, việc có nhiều DNBH ra đời làm cho thị phần của các công ty bảo
hiểm bị chia sẻ. Miếng bánh thị phần tại thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện
10
đang được ba doanh nghiệp lớn là Prudential (40%), Bảo Việt (34%),
Manulife (10%) nắm giữ, (theo Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam), nhưng nhiều
doanh nghiệp “chiếu dưới” vẫn tự tin trong việc tìm cho mình một phần
đáng kể của chiếc bánh. Trong thời gian qua, một điều có thể nhận thấy, thị
phần bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng đang có sự thay
đổi khá rõ nét. Theo một ước tính sơ bộ của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam,
năm 2009 Prudential tiếp tục dẫn đầu thị trường về doanh thu phí bảo hiểm
khai thác mới với 31%, Bảo Việt đứng thứ hai với 28%, Manulife đứng thứ
ba với 10%. ACE Life và AIA Life hiện đang theo sát nhau ở vị trí thứ tư và
thứ năm với khoảng 9% dành cho mỗi công ty. Dai-ichi Life Việt Nam
chiếm khoảng 7%, Prevoir khoảng 2%. Ba công ty còn lại là Cathay Life,
Great Eastern và Korea Life chiếm dưới 4%.
Do thị trường bảo hiểm Việt Nam còn nhiều tiềm năng phát triển,
đồng thời khách hàng ngày càng có nhiều lựa chọn hơn, nên việc các công ty
bảo hiểm cũ bị mất thị phần về các công ty bảo hiểm mới gia nhập thị trường
là điều bình thường. Chẳng hạn khi Dai-ichi Life Việt Nam mua lại Bảo

Minh - CMG, thị phần lúc đó là 4,8%, nhưng hiện nay đã tăng lên khoảng
7%. Mặt khác, sụ gia tăng các DNBH cũng gây nên hiện tượng “chảy máu
chất xám nguồn nhân lực chủ chốt sang DNBH mới”, đây cũng là điều rất
đáng lo ngại.
2. DNBH hoạt động ở nước ngoài được cung cấp một số sản phẩm BH
qua biên giới (vào VN)
Đây là điều đáng lo ngại trong cuộc cạnh tranh không cân sức đối với
các DNBH đang hoạt động tại VN (DNVN, liên doanh, 100% vốn nước
ngoài). Trước hết, họ không thể biết được thông tin về đối thủ cạnh tranh
của họ (DNBH đang hoạt động ở nước ngoài) cụ thể là ai đang bán sản
phẩm BH vào VN. Thứ hai, vũ khí của đối thủ đang sử dụng là loại gì không
được biết rõ: đơn BH, điều khoản BH, điều kiện BH, phí BH như thế nào?
Thứ ba, DNBH đang hoạt động tại VN phải đóng thuế cho ngân sách nhà
nước như thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế môn bài, thuế sử
dụng đất… để hoạt động kinh doanh có doanh thu từ VN, trong khi đó đối
thủ không bị đóng góp các khoản thuế trên. Trong một cuộc chiến, “Biết
địch biết ta, trăm trận trăm thắng”. DNBH đang hoạt động ở nước ngoài biết
rất rõ DNBH đang hoạt động tại VN, song DNBH đang hoạt động tại VN lại
không biết gì về DNBH đang hoạt động tại nước ngoài đang ngấm ngầm
cùng chia chiếc bánh thị trường BHVN.
3. Kênh phân phối sản phẩm BH đã bộc lộ nhiều yếu kém
11
Trong thời gian vừa qua thi trường bảo hiểm Việt Nam đã chứng kiến
nhiều sự kiện và nhiều phản ứng khác nhau xung quanh vấn đề chất lượng
sản phẩm, chất lượng kênh phân phối. Một trong những sự kiện nổi bật đó là
thị trường không chấp nhận tiêu thụ sản phẩm bảo hiểm xe máy kém chất
lượng được phân phối thông qua kênh đại lý chưa được đào tạo hoặc đào tạo
quá sơ sài. Sở dĩ lực lượng phân phối tồn tại nhiều yếu kém là do những
nguyên nhân sau:
- Những nghiệp vụ cần chuyên môn cao, đại lý không thể đảm nhận nổi.

- Lực lượng môi giới quá mỏng và phạm vi hoạt động còn hạn chế.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước có xu hướng sử dụng lực lượng
bán hiện có hơn là đào tạo mới hoặc chuyển đổi hình thức kênh phân phối.
- Năng lực đáp ứng nhu cầu dịch vụ có chất lượng hoàn hảo của các doanh
nghiệp bảo hiểm chậm hơn tốc độ phát triển của thị trường nên chưa kịp
hoàn thiện và chuyển giao công nghệ cho đại lý.
- Do chưa kịp đầu tư cho lực lượng phân phối sản phẩm trước tình hình tăng
trưởng đột biến đội ngũ đại lý ở lĩnh vực phi nhân thọ không đáp ứng được
nhu cầu của thị trường.
Hệ quả là:
- Làm cho nhu cầu thị trường bị lệch hướng
- Làm thay đổi nhãn quan xã hội về một nghề nghiệp có nhiều đóng góp cho
nền kinh tế
- Những mục tiêu kinh tế xã hội của nhà nước trở nên kém hiệu quả.
Do đó đây sẽ là thách thức lớn đối với những người làm nhiệm vụ
phân phối sản phẩm bảo hiểm. Họ phải luôn thay đổi để thích nghi, luôn tự
hoàn thiện và trở nên chuyên nghiệp hơn trong suy nghĩ của khách hàng.
Không phải bất cứ ai cũng làm cho khách hàng cảm nhận được nhu cầu sử
dụng những tiện ích mà dịch vụ bảo hiểm có thể cung cấp. Việc này đòi hỏi
anh ta phải am hiểu hoàn cảnh và những mong muốn trong tương lai của
khách hàng mà anh ta muốn thuyết phục. Người đại lý bảo hiểm cần có
những kĩ năng riêng vượt trội so với người làm công việc phân phối sản
phẩm tiêu dùng khác. Nói một cách khác, đại lý bảo hiểm luôn phải đối mặt
với quy luật tự đào thải. Ngoài ra thách thức đối với người làm nhiệm vụ
phân phối bảo hiểm còn ở chỗ hành lang pháp lý bảo vệ người đại lý chưa
được mức độ có thể yên tâm hành nghề.

12
4. Đầu tư công nghệ thiếu đồng bộ, kém hiệu quả, trình độ nhân viên
còn yếu kém.

Theo một số công ty bảo hiểm, nhu cầu xây dựng hệ thống quản lý
quan hệ khách hàng (CRM) là đòi hỏi lớn trong hoạt động bảo hiểm, nhưng
hiện nay vấn đề này vẫn chưa được đầu tư đúng mức. Đối với doanh nghiệp
bảo hiểm trong nước, để có thể cạnh tranh với doanh nghiệp bảo hiểm nước
ngoài có bề dày kinh nghiệm, cần phải "nhanh chân" xây dựng một lộ trình
đầu tư công nghệ hợp lý. Tuy nhiên, một thực tế là, dù có quan tâm đầu tư,
nhưng CNTT vẫn chưa hỗ trợ đắc lực cho công ty bảo hiểm trong việc nâng
cao năng lực cạnh tranh, xuất phát từ lúng túng trong việc ứng dụng, như
phần mềm quản lý kinh doanh bảo hiểm không tương tác với phần mềm kế
toán, phần mềm quản lý hành chính; nhiều cán bộ kinh doanh bảo hiểm chưa
khai thác sức mạnh CNTT để phục vụ công việc của mình, dẫn tới việc nhập
dữ liệu không đầy đủ, gây khó khăn cho công tác quản lý khách hàng và giải
quyết bồi thường.
Bên cạnh đó, việc tuyển dụng ồ ạt và đào tạo qua loa nhằm mục đích
thâu tóm thị phần của các công ty bảo hiểm trong giai đoạn vừa qua đã để lại
không ít hậu quả đáng tiếc. Do áp lực từ phía công ty bảo hiểm nên nhiều
nhân viên chưa được đào tạo sâu về chuyên môn đã phải “xông trận”.Vì thế
một chuẩn mực đào tạo có chuyên môn cao là điều mà một doanh nghiệp
bảo hiểm tâm huyết với nghề luôn mong muốn có được.
5. Cạnh tranh gay gắt chủ yếu bằng con đường hạ phí BH, không chú
trọng nhiều đến dịch vụ chăm sóc khách hàng
Phí BH trên thị trường BHPNT Việt Nam hiện nay được hình thành
chủ yếu qua con đường cạnh tranh hạ phí phi kĩ thuật mà không quan tâm
đến đối tượng BH như thế nào, mức độ rủi ro ra sao. Phí BH một khách sạn
5 sao chỉ tương đương với phí BH một chiếc xe ô tô trị giá 1 tỉ đồng là một
điều phi lý mà trên thị trường vẫn có DNBH chấp nhận để giành bằng được
dịch vụ BH. Một trong những nguyên nhân có nguồn gốc sâu xa là chế độ
khoán tiền lương và chi phí theo doanh thu không chú trọng đến bồi thường
có thể xảy ra (lời cam kết của DNBH đến khách hàng). Tình trạng này dẫn
đến không những các DNBH cạnh tranh lẫn nhau mà còn có sự cạnh tranh

giữa các chi nhánh trong cùng một DNBH. Chính vì vậy, việc quan tâm
chăm sóc khách hàng cung cấp dịch vụ gia tăng bổ sung cho khách hàng
cũng bị hạn chế.
13
Ở Việt Nam hiện nay, 2 dòng sản phẩm đang có sự cạnh tranh về phí
gay gắt nhất phải kể đến là bảo hiểm xe cơ giới và tai nạn con người bởi vì
đây là 2 nghiệp vụ có số đông và chiếm phần lớn doanh thu của các doanh
nghiệp (trên 40%). Mức phí áp dụng cho bảo hiểm xe cơ giới và tai nạn cá
nhân tại Việt Nam giảm khoảng 30 - 40% và thấp hơn mức phí bình quân
của các nước trong khu vực khoảng 50%.
Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cảnh báo, hạ phí bảo hiểm thì dễ nhưng
tăng phí là việc vô cùng khó khăn, một doanh nghiệp bảo hiểm tăng phí đi
liền với giảm doanh thu, mất khách hàng, nếu đồng loạt tăng phí thì vi phạm
Luật Cạnh tranh.
Năm 2009, tổng số lỗ của toàn thị trường ngành Bảo hiểm là 264 tỷ
đồng, giảm 105,9 tỷ đồng so với năm 2008. 16 trong tổng số 27 doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đang hoạt động trên thị trường hiện nay, đã lỗ
hoạt động kinh doanh bảo hiểm, 1 doanh nghiệp không đảm bảo khả năng
thanh toán theo quy định. Thậm chí, lĩnh vực bảo hiểm thân tàu biển năm
thứ 9 vẫn lỗ.
Tại hội nghị ngành bảo hiểm 2010 diễn ra vào cuối tháng 3 vừa qua,
bức tranh về cạnh tranh bảo hiểm đã được nhiều doanh nghiệp phác họa khá
đầy đủ và phong phú Đặc biệt trong lĩnh vực phi nhân thọ, do hoạt động
chưa chuyên nghiệp, chạy theo doanh thu nên một số doanh nghiệp cạnh
tranh bằng mọi cách để giành dịch vụ, không chú ý đánh giá rủi ro, tính phí
bảo hiểm và thu xếp tái bảo hiểm, nên đã lỗ từ hoạt động kinh doanh bảo
hiểm. Các doanh nghiệp lâm vào tình cảnh đó, được lãnh đạo Cục nêu tên
như: AAA, Bảo hiểm Hàng không, Bảo Minh, ABIC, Bảo hiểm Than -
Khoáng Sản, Liberty, Chartis, MSIG, Fubon, ACE và Groupama.
Những nghiệp vụ có doanh thu phí chiếm tỷ trọng lớn trong tổng

doanh thu thường có cạnh tranh gay gắt nhất như: bảo hiểm xe cơ giới
(31,7%), bảo hiểm tài sản và thiệt hại (23,2%), bảo hiểm sức khỏe và tai nạn
con người (14,3%). Riêng với nghiệp vụ bảo hiểm học sinh, cạnh tranh gay
gắt đã làm tăng chi phí khai thác, khiến cho một số doanh nghiệp bảo hiểm
bị lỗ sản phẩm bảo hiểm con người.
6. Việc giải quyết bồi thường còn nhiều vướng mắc
14
Trước hết, tính công khai minh bạch về hồ sơ, thủ tục giải quyết bồi
thường chưa được thực hiện.
Thứ hai, việc đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục bồi thường giảm phiền phức
cho khách hàng chưa được cải thiện rõ rệt.
Thứ ba, còn nhiều vướng mắc trong việc thu thập hồ sơ chứng từ để
giải quyết bồi thường cho nạn nhân khi những hồ sơ chứng từ này buộc phải
lấy từ cơ quan có thẩm quyền như công an, bệnh viện.
Thứ tư, việc tự quyết, tự chịu trách nhiệm của DNBH trong việc giám
định bồi thường tổn thất chưa được phát huy và hay bị hình sự hóa.
Thứ năm, các DN hoạt động trong lĩnh vực tư vấn giám định và giải
quyết bồi thường (trung gian giữa DNBH và khách hàng) chưa hoạt động có
hiệu quả và phán quyết của họ nhiều khi không được pháp luật công nhận.
Cuối cùng là chưa có biện pháp xử phạt thích đáng DNBH trong việc
chậm trễ bồi thường cũng như xử phạt thích đáng các hành vi trục lợi BH
7. Hiện tượng thông đồng giữa các công ty bảo hiểm lớn
Mức độ tập trung thị trường cao dễ dẫn đến hiện tượng thông đồng
giữa các công ty bảo hiểm lớn, ảnh hưởng tới sự cạnh tranh lành mạnh của
thị trường, gây thiệt hại cho các công ty vừa và nhỏ.
B.KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP PHÁT NGÀNH BH TẠI VIỆT NAM
1. Các khuyến nghị đối với các nhà hoạch định chính sách và điều tiết
thị trường
1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo hiểm
Hệ thống pháp luật bảo hiểm cần được rà soát nhằm điều chỉnh các

quy định chưa phù hợp, bổ sung còn quy định còn thiếu hoặc chưa rõ ràng,
cụ thể:
1.1.1 Điều chỉnh những quy định chưa hợp lý và chưa rõ ràng
Cần nghiên cứu lại các quy định về thuế VAT. Mục tiêu phát triển của
ngành bảo hiểm không phải chỉ nhằm tăng doanh thu phí bảo hiểm, mà quan
trọng hơn là tăng tỉ lệ doanh thu phí bảo hiểm giữ lại trong nước, để đầu tư
15
trở lại nền kinh tế. Do đó, việc áp dụng thuế suất VAT 0% đối với việc tái
bảo hiểm trong nước cũng là một cách khuyến khích các công ty bảo hiểm
giữ lại phí bảo hiểm trong nước.
Vấn đề về chi phí quảng cáo cũng cần được cân nhắc. Có thể việc quy
định trần chi phí quảng cáo 10% trên tổng chi phí như áp dụng đối với các
ngành công nghiệp, dịch vụ khác là chưa hợp lý. Một công ty bảo hiểm với
kỹ năng đánh giá và quản lý rủi ro tốt thường có chi phí bồi thường thấp
hơn. Với trần chi phí quảng cáo 10% trên tổng chi phí, các công ty được
quản lý tốt sẽ bị kém lợi thế hơn do giới hạn chi phí quảng cáo của họ sẽ
thấp hơn các đối thủ cạnh tranh khác.
Các quy định về chấm dứt hợp đồng và hợp đồng vô hiệu cần được rà
soát lại nhằm đảm bảo việc áp dụng các quy định được rõ ràng và chính
xác. Hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng và hợp đồng
vô hiệu hoàn toàn khác nhau, do đó việc cung cấp sai thông tin để giao kết
hợp đồng bảo hiểm không thể dẫn đến hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng
hoặc hợp đồng vô hiệu.
1.1.2 Bổ sung các quy định còn thiếu
Yêu cầu trình độ, kinh nghiệm của lãnh đạo công ty bảo hiểm cần
được quy định rõ ràng. Cần phải có quy định cụ thể những vị trí nào cần đáp
ứng tối thiểu những yêu cầu gì về trình độ, kinh nghiệm.
Mặc dù việc chuẩn hoá các điều khoản và điều kiện của hợp đồng bảo
hiểm có thể gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường, nhưng việc chuẩn hoá
các thuật ngữ sử dụng trong hợp đồng bảo hiểm và các tài liệu đi kèm là hết

sức quan trọng. Các công ty bảo hiểm cần phải sử dụng cùng một thuật ngữ
bảo hiểm (có thể do Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam xây dựng) nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho người mua bảo hiểm đọc, hiểu và so sánh được các hợp
đồng bảo hiểm của các công ty bảo hiểm khác nhau và tránh việc hiểu sai,
hiểu lầm trong tương lai.
Cần ban hành các văn bản hướng dẫn liên quan tới các hoạt động cho
vay, đầu tư vào bất động sản, cổ phiếu của các công ty bảo hiểm, đặc biệt
các công ty có vốn nước ngoài nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư vốn
16
nhàn rỗi của các công ty bảo hiểm, và nhờ đó một mặt, tăng lượng vốn đầu
tư trở lại nền kinh tế, mặt khác tăng lợi nhuận của các công ty bảo hiểm và
người mua bảo hiểm. Bên cạnh đó, các quy định liên quan tới quản trị công
ty, minh bạch tài chính cần phù hợp với chuẩn quốc tế và việc tuân thủ các
quy định pháp luật cần được giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan quản lý nhà
nước, tạo lòng tin cho các công ty bảo hiểm khi đầu tư vào các công ty của
Việt Nam.
Cần phải ban hành những quy định pháp lý chặt chẽ hơn liên quan tới
các hoạt động tái bảo hiểm của các công ty bảo hiểm. Các văn bản pháp lý
hiện nay có quy định các tiêu chuẩn mà công ty tái bảo hiểm nước ngoài
phải đáp ứng, nhưng không quy định về việc các công ty bảo hiểm trong
nước phải công bố thông tin về công ty nhận tái bảo hiểm của họ. Việc cung
cấp thông tin về hoạt động tái bảo hiểm của các công ty bảo hiểm không chỉ
hỗ trợ bảo vệ người mua bảo hiểm, mà còn hỗ trợ các cơ quan chức năng
phát hiện các trường hợp công ty bảo hiểm ký kết hợp đồng bảo hiểm chỉ
nhằm để tái ra nước ngoài “fronting business”. Mặc dù loại hình kinh doanh
này không bị cấm ở Việt Nam, hoạt động kinh doanh cần được quản lý và
giám sát chặt chẽ. Loại hình kinh doanh này cung cấp cho nền kinh tế Việt
Nam một số sản phẩm bảo hiểm cần thiết, nhất là trong những trường hợp
công ty bảo hiểm trong nước chưa có khả năng thực hiện, tuy nhiên loại hình
kinh doanh này cũng có thể gây ảnh hưởng xấu tới quyền lợi của người mua

bảo hiểm bởi các công ty bảo hiểm chịu trách nhiệm pháp lý về trách nhiệm
đã cam kết nhưng lại không có đủ năng lực để bảo hiểm những rủi ro này.
Nếu loại hình kinh doanh này phát triển nhiều, sự phát triển lành mạnh của
thị trường có thể sẽ bị ảnh hưởng.
Mọi quy định pháp lý về bảo hiểm bắt buộc nên được quy định rõ
ràng trong một số văn bản pháp luật nhất định. Cần có sự kết hợp giữa các
cơ quan chức năng khác nhau để đảm bảo hệ thống văn bản điều chỉnh hoạt
động bảo hiểm của các ngành khác nhau như xây dựng, vận tải biển, cháy
nổ dễ hiểu hơn, rõ ràng hơn và việc thi hành luật được chặt chẽ hơn.
Vấn đề một công ty bảo hiểm rút lui khỏi thị trường hoặc trở nên mất
khả năng thanh toán cần được quy định chi tiết và cụ thể hơn. Các quy định
hiện hành có đề cập tới việc chuyển giao các hợp đồng bảo hiểm, nhưng
17
không đề cập cụ thể tới trường hợp một công ty bảo hiểm chủ động chấm
dứt hoạt động trên thị trường. Luật cũng liệt kê những biện pháp nhằm phục
hồi khả năng thanh toán của một công ty bảo hiểm, việc thành lập ban giám
sát nhằm kiểm soát các công ty mất khả năng thanh toán, nhưng chưa quy
định cụ thể các biện pháp này cần được thực hiện thế nào, ban giám sát được
thành lập và hoạt động ra sao. Luật cũng dẫn chiếu đến Luật Phá sản Doanh
nghiệp, nhưng công ty bảo hiểm không giống như bất kỳ công ty nào khác.
Quyền lợi của người mua bảo hiểm phải được ưu tiên bảo vệ. Áp dụng thủ
tục phá sản doanh nghiệp thông thường, thứ tự ưu tiên nhận thanh toán có
thể không đảm bảo được quyền lợi của người mua bảo hiểm. Do đó cần rà
soát kỹ các văn bản pháp lý có liên quản để đảm bảo các nguyên tắc của
Luật Phá sản Doanh nghiệp vẫn được tuân thủ, trong khi quyền lợi của
người mua bảo hiểm vẫn được bảo vệ tối đa.
Cần xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ cho các hoạt động điều tra tư
nhân và điều tra dân sự để các doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện chủ động
hơn về mặt thị trường. Các kết quả của hoạt động điều tra tư nhân và điều tra
dân sự cần phải được pháp chế hóa cụ thể để có giá trị pháp lý làm cơ sở cho

các doanh nghiệp bảo hiểm chủ động đánh giá và xử lý những trường hợp có
dấu hiệu trục lợi bảo hiểm trước khi vụ việc bị coi là mang yếu tố hình sự.
Sở dĩ cơ chế này là cần thiết vì trong ngành bảo hiểm, để thực hiện hoạt
động điều tra cần phải có những kỹ năng và chuyên môn phù hợp. Hệ quả
của việc xây dựng cơ chế này một mặt sẽ giúp các doanh nghiệp bảo hiểm
tránh được những trường hợp trục lợi bảo hiểm, mặt khác nếu ở một mức độ
có thể chấp nhận được thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ có cách xử lý mà vẫn
đạt được mục đích giao kết hợp đồng với khách hàng đó.
1.2 Lấp trống các phân đoạn thị trường bỏ ngỏ
Chính phủ phải chịu trách nhiệm lấp trống các phân đoạn thị trường
bỏ ngỏ. Với xu hướng như hiện nay, việc kinh doanh các sản phẩm dịch vụ
phục vụ một nhóm đối tượng đặc biệt, như nông dân, người nghèo chưa thể
đem lại hiệu quả kinh tế. Đối với bảo hiểm nông nghiệp chủ yếu phục vụ
nông dân, Bảo Việt Việt Nam và Groupama đã không thành công do nhiều
khó khăn về kỹ thuật và kinh tế.
18
Do đó, nhằm đảm bảo người nghèo và những nhóm bị thiệt thòi được
bảo vệ, các hình thức bảo hiểm khác như bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội hay
bảo hiểm tương hỗ cần được tăng cường nhằm tăng hiệu quả hoạt động. Đặc
biệt đối với bảo hiểm nông nghiệp, Chính phủ cần có những nghiên cứu kỹ
hơn, xây dựng các dự án thí điểm nhằm tìm ra phương thức thích hợp cho
việc cung cấp loại hình dịch vụ bảo hiểm này. Chính phủ cũng có thể xem
xét bắt buộc các hộ gia đình có vay vốn ngân sách hoặc vốn ODA phát triển
nông nghiệp theo các dự án hỗ trợ tín dụng phát triển nông nghiệp phải mua
bảo hiểm nôngnghiệp.
1.3 Tăng cường năng lực làm luật, kiểm tra, giám sát của các cán bộ
quản lý nhà nước
Như phân tích ở trên, việc phát triển mạnh của thị trường bảo hiểm có
thể vượt khả năng kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước. Thực tế cho
thấy sự phát triển của thị trường, sự gia tăng cạnh tranh giữa các công ty bảo

hiểm, việc đưa vào các sản phẩm mới, các thuật ngữ mới, các phương thức
kinh doanh mới, một mặt sẽ đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế, của
ngành và của người tiêu dùng, nhưng mặt khác cũng làm nảy sinh các biểu
hiện cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, sự mâu thuẫn giữa các
công ty bảo hiểm và người mua bảo hiểm.
Do đó, để có thể điều tiết thị trường một cách hiệu quả và bảo vệ
quyền lợi của các khách hàng thiếu kinh nghiệm, song song với việc tổ chức
các khoá đào tạo hay gửi cán bộ đi đào tạo ở trong nước, nước ngoài, các cơ
quan quản lý cần phải tăng cường trao đổi kinh nghiệm với các cơ quan
quản lý nhà nước ở các nước khác, tăng cường đối thoại với hiệp hội bảo
hiểm và với các doanh nghiệp bảo hiểm. Cho đến nay, công việc này đang
được thực hiện tương đối tốt và cần tiếp tục duy trì. Việc tuyển dụng các
nhân viên trước đây từng làm việc ở các công ty bảo hiểm nước ngoài vào
làm việc trong các cơ quan quản lý nhà nước cũng nên được khuyến khích.
Bên cạnh đó, việc đầu tư cơ sở hạ tầng, ứng dụng côngnghệ thông tin vào
quản lý cần được chú trọng, nhằm đảm bảo việc cập nhật và xử lý kịp thời
các diễnbiến trên thị trường.
19
1.4 Xây dựng hệ thống thu thập, lưu trữ, xử lý, chia sẻ số liệu thống kê
bảo hiểm và cơ chếcung cấp thông tin cho các doanh nghiệp bảo hiểm
Khác với các ngành khác, ngành bảo hiểm hoạt động dựa trên số liệu
thống kê được thu thập trong mộtthời kỳ dài. Một mặt, ngành bảo hiểm với
lịch sử phát triển ngắn chưa thể xây dựng một cơ sở dữ liệuđầy đủ phục vụ
hoạt động của các công ty bảo hiểm và các cơ quan quản lý nhà nước. Mặt
khác, hoạtđộng thu thập số liệu thống kê tại Việt Nam chưa được thực hiện
tốt so với các quốc gia khác. Đồng thờicơ chế để các cơ quan quản lý nhà
nước cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp bảo hiểm cũngchưarõ ràng.
Do dó, đây là một đòi hỏi cấp bách của ngành bảo hiểm Việt Nam.
Tuy nhiên, việc xây dựng được hệthống này là hết sức khó, không chỉ từ góc
độ tài chính, mà còn từ góc độ mức độ tự nguyện của cácdoanh nghiệp tham

gia thị trường. Bộ Tài Chính có thể giao cho Hiệp hội Bảo hiểm khởi xướng
dự ánnày. Cần xác định rõ các loại thông tin, số liệu cần được thu thập, lưu
trữ, mức độ xử lý và chia sẻ thôngtin giữa các nhóm đối tượng khác nhau
trên thị trường. Trách nhiệm thu thập, lưu trữ và cung cấp thôngtin, số liệu
của các doanh nghiệp bảo hiểm có thể được quy định trong các văn bản pháp
quy liên quan.
Cần có cơ chế rõ ràng về việc các cơ quan quản lý nhà nước cung cấp
thông tin cho các doanh nghiệpbảo hiểm. Cần cân nhắc việc tách bạch giữa
quản lý nhà nước và dịch vụ công. Có rất nhiều thông tinmà chỉ các cơ quan
quản lý nhà nước mới có thể thu thập (số liệu thống kê trên cả nước, hồ sơ
về tainạn giao thông, cháy nổ ) và các doanh nghiệp bảo hiểm cũng sẵn
sàng chi trả để có được các thôngtin này phục vụ cho hoạt động của mình.
Do đó việc tách quản lý nhà nước khỏi dịch vụ công vừa đảmbảo các cơ
quan quản lý nhà nước có ngân sách để thu thập thông tin, vừa tạo cơ chế để
các cơ quanquản lý nhà nước cung cấp thông tin và doanh nghiệp bảo hiểm
được tiếp cận thông tin một cách chínhthống.
1.5 Tiếp tục hoàn thiện thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường
chứng khoán nhằm tạo điềukiện thuận lợi cho toàn bộ nền kinh tế nói
chung sự phát triển của ngành bảo hiểm nóiriêng
20
Ngành bảo hiểm có mối quan hệ mật thiết với thị trường chứng khoán.
Ở đa số các nền kinh tế có ngànhbảo hiểm phát triển, các công ty bảo hiểm
đều được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đối vớingành bảo hiểm,
thị trường chứng khoán vừa đóng vai trò là kênh huy động vốn, vừa đóng
vai trò cungcấp các cơ hội đầu tư. Tại Việt Nam, một phần do môi trường
pháp lý, một phần do sự hạn chế về khảnăng tài chính và sự minh bạch tài
chính của các công ty, chưa có công ty bảo hiểm nào được niêm yếttrên thị
trường chứng khoán Việt Nam. Do đó, thị trường chứng khoán Việt Nam
chưa thực sự thực hiệnđược vai trò huy động vốn của mình. Đối với đầu tư,
trên thị trường còn quá ít sản phẩm, hoạt động cậpnhật thông tin còn yếu, sự

minh bạch thấp nên việc đầu tư cổ phiếu chưa thu hút được nhà đầu tư,
đặcbiệt các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, đa số các công ty bảo hiểm tập
trung vào trái phiếu Chính phủ,tiền gửi ngân hàng. Một số nghiên cứu khác
cho thấy, trong tương lai, tại Việt Nam, ngân hàng sẽ khôngcòn đủ sức đáp
ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp, và thị trường vốn cần phải được cải
thiện nhằmđảm bảo đủ vốn cho sự phát triển của nền kinh tế.
Do đó, trong bối cảnh phát triển này, sự cải thiện của thị trường chứng
khoán, việc cải thiện các quy địnhpháp lý, nỗ lực của các công ty bảo hiểm
cần phải được tiến hành đồng thời nhằm dẫn vốn từ các côngty bảo hiểm tới
các nhà đầu tư thông qua thị trường chứng khoán, và mặt khác, biến thị
trường chứngkhoán thành nơi cung cấp các cơ hội đầu tư tốt cho các công ty
bảo hiểm.
1.6 Đào tạo nhân sự chất lượng cao phục vụ ngành bảo hiểm
Nguồn nhân lực hiện nay mới chỉ đáp ứng được nhu cầu của thị
trường ở mức độ trung bình. Phân tíchcho thấy vẫn còn khoảng cách tương
đối lớn giữa kiến thức sinh viên được học ở trường đại học vàcông việc thực
tế khi đi làm. Sẽ không thực tế khi yêu cầu các sinh viên mới tốt nghiệp có
thể đảmđương ngay các công việc, tuy nhiên nghiên cứu cho thấy chương
trình đào tạo tại các trường đại họcvẫn còn chưa bám sát nhu cầu của ngành,
vẫn còn nặng các môn học về bảo hiểm bắt buộc, trong khinhu cầu về kiến
thức về bảo hiểm thương mại lớn hơn rất nhiều.
21
Do đó, việc đào tạo nhân sự cho ngành bảo hiểm vẫn phải được cải
cách cơ bản từ các trường đại học.Chính Phủ (thông qua Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Tài chính) cần chỉ đạo các tổ chức đào tạo này chđộng tìm kiếm
các cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp bảo hiểm để sinh viên có nhiều cơ
hội thực hànhhơn, nội dung giảng dạy phù hợp hơn với nhu cầu của ngành.
Việc liên kết đào tạo với các tổ chức đàotạo bảo hiểm, hiệp hội bảo hiểm của
nước ngoài cũng cần được khuyên khích hơn nữa.
2. Các khuyến nghị đối với các công ty bảo hiểm

2.1 Xây dựng chiến lược phát triển dài hạn
Ngành bảo hiểm Việt Nam hiện đang trải qua các giai đoạn phát triển
tương tự ngành bảo hiểm TrungQuốc thời kỳ trước khi gia nhập WTO (1996
– 2001) và những năm đầu sau khi trở thành thành viên WTO. Trong thời kỳ
này, đa số các công ty bảo hiểm đều tập trung vào phát triển doanh thu. Tại
TrungQuốc, trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, các công ty bảo hiểm trong
nước áp dụng chiến thuật “biểnngười” - tuyển rất nhiều đại lý và thay đổi đại
lý rất nhanh. Cuối năm 2001, số lượng đại lý bảo hiểm trong lĩnh vực nhân
thọ của Trung Quốc vượt con số một triệu người. Tương tự ở Việt Nam,
trong lĩnhvực nhân thọ, các công ty bảo hiểm cạnh tranh nhau bằng cách
tuyển nhiều đại lý, còn trong lĩnh vựcbảo hiểm phi nhân thọ, các công ty bảo
hiểm cạnh tranh nhau bằng cách giảm phí bảo hiểm. Nhận thứcđược vấn đề
này, từ năm 2003, các công ty bảo hiểm lớn trong nước của Trung Quốc đã
bắt đầu chú trọng tới việc tuyển dụng, lựa chọn và đào tạo. Và từ năm 2005,
bắt đầu thời kỳ hoàn toàn mở cửa, cáccông ty bảo hiểm Trung Quốc bắt đầu
“thay đổi chiến lược hoạt động, hướng tới sự phát triển liên tục lâudài, thay
vì tìm kiếm lợi nhuận trước măt”. Một mặt, các công ty tập trung giá tăng
giá trị cho sản phẩm,và mặt khác nỗ lực ổn định tăng trưởng hàng năm về
doanh thu và lợi nhuận1
1
”.
Học hỏi kinh nghiệm của các công ty bảo hiểm Trung Quốc, các công
ty bảo hiểm Việt Nam cần xâydựng chiến lược phát triển lâu dài. Doanh thu
phí bảo hiểm là một chỉ số quan trọng về phát triển, nhưngtrong bối cảnh
1
Công ty BH Ping An – Bài thuyết trình gửi cho BH Việt Nam
22
hiện nay của các công ty bảo hiêm Việt nam, có thể chỉ số này không quan
trọng bằng chỉsố phát triển nguồn nhân lực (ví dụ, sự cải thiện trình độ
chuyên môn, kỹ năng quản lý ) hoặc các chỉ sốvề hiệu quả hoạt động

(chuẩn hoá các quy trình, tiết kiệm thời gian cho từng công việc ), bởi đây
lànhững cơ sở vững chắc cho sự phát triển trong tương lai. Tất nhiên, không
có doanh thu cao, khôngcông ty nào có thể đầu tư, kể cả để phát triển nguồn
nhân lực hay phục vụ những mục đích khác. Tuynhiên, các công ty cần tự
xác định cho mình một thế cân bằng để không bị kiệt sức khi bước vào một
giaiđoạn mới của cạnh tranh.
Dưới đây là một số khuyến nghị cụ thể nhằm cải thiện khả năng cạnh
tranh của các công ty bảo hiểm.
2.2 Xây dựng văn hoá phục vụ khách hàng
Các phân tích cho thấy nhiều công ty bảo hiểm trong nước chưa xây
dựng được văn hoá phục vụ kháchhàng, trong khi các công ty nước ngoài,
thừa hưởng văn hoá này từ công ty mẹ, đang phát triển nó rấtthành công tại
Việt Nam. Trong khi các công ty nước ngoài chuẩn hoá mọi quy trình công
việc, tạo điềukiện thuận lợi cho khách hàng khi có thắc măc, khi thanh toán
phí bảo hiểm, khi yêu cầu thông tin, khiyêu cầu bồi thường Ngược lại, các
công ty trong nước mặc dù hiểu tầm quan trọng của các quy trình này, lại
chưa có một chiến lược phù hợp và một kế hoạch hành động để thực hiện
nó. Các công ty nướcngoài yêu cầu nhân viên của mình làm theo những quy
trình cụ thể khi phục vụ khách hàng, còn cáccông ty trong nước lại phụ
thuộc vào sự năng động của các cá nhân nhân viên trong việc phục vụ
kháchhàng. Điều này cũng gây ra một số vấn đề, bởi không phải mọi nhân
viên nào đều năng động như nhau khi làm việc với khách hàng. Do đó, nếu
có một nhân viên nào đó không năng động, sẽ không có cơ chếđể buộc họ
phải tuân theo và việc chăm sóc khách hàng sẽ không được đảm bảo.
Do đó, các công ty trong nước cần nâng cấp hệ thống và chương trình
đào tạo của mình nhằm cung cấptốt hơn các dịch vụ chăm sóc khách hàng.
Nhân viên bán hàng có thể hỗ trợ rất tốt khách hàng, nhưngnhư thế vẫn chưa
đủ. Các công ty cần phải đặt mình vào vị trí của khách hàng để đánh giá
phương thứcphục vụ khách hàng của mình nhằm xác định những khâu cần
23

cải thiện hơn nữa. Mục tiêu không phảichỉ là phục vụ tốt khách hàng mà là
ngày càng nâng cao hiệu quả công việc.
2.3 Nâng cao kỹ năng quản lý
Các nhà quản lý các công ty bảo hiểm trong nước có thể đã ở vị trí
quản lý trong một thời gian dài,nhưng họ lại thiếu kinh nghiệm về kinh tế thị
trường. Cách quản lý theo kiểu xã hội chủ nghĩa vẫn là gốc rễ trong các công
ty trong nước. Đưa ra quyết định chậm, phạm vi trách nhiệm không rõ ràng,
lương, thưởng không được xây dựng dựa trên thành quả làm việc, hạn chế
quyền tự quyết ở các cấpthấp hơn chỉ là một vài ví dụ điển hình. Đây là
hiện tượng phổ biến trong mọi ngành ở Việt Nam, chứkhông chỉ riêng
ngành bảo hiểm. Ngoài ra các kỹ năng quản lý nói chung, các nhà quản lý
còn cầnnhững kỹ năng chuyên ngành bảo hiểm. Thông thường các nhà quản
lý, đặc biệt các nhà lãnh đạo, không cần đến các kỹ năng kỹ thuật chuyên
ngành cụ thể. Tuy nhiên, họ cũng phải hiểu ngành của mình,các yếu tố ảnh
hưởng, xu hướng phát triển, lợi thế cạnh tranh trong ngành.
Do đó, các công ty trong nước cần tập trung vào những kế hoạch đào
tạo dài hạn. Lương, thưởng, chức vị phải gắn với kết quả công việc. Các
công ty cũng thể xem xét việc tuyển dụng các chuyên gia nướcngoài vào
các vị trí quản lý, bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm đưa kinh
nghiệm và kỹ năng của họ vào điều hành kinh doanh. Các công ty trong
nước cần chú trọng tới việc xây dựng kếhoạch chiến lược xem xét liệu sự
tham gia của đối tác nước ngoài vào điều hành kinh doanh có mang lạilợi ích
cho doanh nghiệp. Nếu có lợi ích, các công ty phải nỗ lực tìm kiếm đối tác
chiến lược nhằm thiết lập mối quan hệ hợp tác lâu dài.
2.4 Nâng cao kỹ năng bảo hiểm các rủi ro phức tạp
Hiện nay các công ty trong nước dựa vào các công ty tái bảo hiểm
nước ngoài và đối thủ cạnh tranhnước ngoài để thực hiện bảo hiểm cho các
rủi ro lớn và phức tạp như các nhà máy điện, các giếng dầu,hàng không, bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp Hiện nay mặc dù không có khả năng bảo
hiểm nhữngrủi ro này, các công ty trong nước vẫn có thể giành được hợp

đồng bởi phần lớn các dự án này được tàitrợ bởi vốn ngân sách, và chỉ các
công ty bảo hiểm trong nước được cung cấp các dịch vụ bảo hiểm chonhững
24
dự án này. Sau khi ký kết hợp đồng, các công ty bảo hiểm trong nước tái lại
cho các công ty táibảo hiểm ở nước ngoài và phần lớn doanh thu phí bảo
hiểm đều được tái ra nước ngoài. Các công ty bảo hiểm trong nước chỉ lưu
lại một phần phí nhỏ.
Khi các rào cản đối với các nhà cung cấp nước ngoài được xoá bỏ
theo yêu cầu của tự do hoá thì cáccông ty trong nước sẽ mất phân đoạn thị
trường này. Do đó, các công ty trong nước cần ngay lập tứchọc hỏi các kỹ
năng (thông qua đào tạo, tuyển dụng các chuyên gia nước ngoài), thu thập số
liệu thống kê để chuẩn bị cho tương lai bởi những công việc này đòi hỏi rất
nhiều thời gian.
2.5 Xây dựng hệ thống thu thập, lưu trữ, xử lý số liệu thống kê
Mặc dù hoạt động thống kê chỉ có thể được tiến hành nếu có sự phối
hợp ở mọi cấp, từ Chính phủ,xuống ngành, xuống các công ty, và cần có một
tổ chức đứng ra điều phối hoạt động thu thập số liệu nàyở mọi cấp, các công
ty bảo hiểm cần tích cực trong hoạt động này bởi đây là vấn đề thiết yếu đối
với mọicông ty.
2.6 Ứng dụng công nghệ thông tin
Các công ty bảo hiểm trong nước bị tụt hậu rất xa so với các đối thủ
cạnh tranh nước ngoài trong lĩnhvực ứng dụng công nghệ thông tin. Cho tới
nay, chưa có một công ty bảo hiểm trong nước nào có phần mềm bảo hiểm
chuyên biệt mặc dù các công ty đều nhận thấy tầm quan trọng của yếu tố
này. Các công ty trong nước cần giải quyết vấn đề này ngay lập tức. Cần
phải có một chiến lược công nghệ thông tin rõ ràng nhằm thích ứng với
những thay đổi trong tương lai. Trong môi trường kinh doanh ngày nay,
công nghệ thông tin là xương sống của mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Công nghệ thông tin hỗ trợ giảmchi phí lao động, làm cho hoạt động hiệu
quả hơn và góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng.

Việc đầu tư hàng triệu đôla vào một hệ thống công nghệ thông tin
thực sự là một thử thách đối với cáccông ty nhỏ, nhưng các công ty cần nỗ
lực hơn nữa nhằm tìm ra hướng đi thích hợp cho mình.
2.7 Phát triển mạng lưới khách hàng truyền thống
25

×