Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ NƯỚC TA NÓI CHUNG VÀ TỈNH HÀ NAM NÓI RIÊNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.32 KB, 6 trang )

SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ NƯỚC TA NÓI
CHUNG VÀ TỈNH HÀ NAM NÓI RIÊNG
I. LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ
1. Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu kinh tế được hình thành một cách khách quan do sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân
công lao động xã hội. Cơ cấu kinh tế luôn luôn biến đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện và việc chuyển đổi
cơ cấu kinh tế là một quá trình. Có hai dạng cơ cấu kinh tế là cơ cấu kinh tế đóng và cơ cấu kinh tế mở trong
đó cơ cấu kinh tế mở được vận dụng rộng rãi ở các nước vì những ưu điểm của nó
Ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu thành
phần kinh tế. Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động xã hội và chuyên môn
hoá sản xuất thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian
địa lý, cơ cấu thành phần kinh tế hình thành dựa trên chế độ sở hữu. Trong cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành kinh
tế giữ vai trò quyết định, vì vậy đề tài chỉ tập trung nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế mà rõ hơn là chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế là tổng hợp các ngành kinh tế được hình thành và mối quan hệ của các ngành
đó với nhau biểu thị bằng vị trí, sự tác động qua lại và tỷ trọng của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Từ các góc độ kác nhau cơ cấu ngành kinh tế được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như: Cơ cấu ngành
theo giá trị sản lượng, cơ cấu ngành theo sản phẩm cuối cùng, cơ cấu ngành theo quy mô vốn đầu tư và cơ
cấu ngành theo lao động. Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu ngành chỉ mang tính thời điểm vì cơ cấu ngành luôn
luôn biến đổi để phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội và đó là quá
trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2. Một số lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Lý thuyết phân kỳ phát triển của Rostow.
Rostow cho rằng quá trình phát triển kinh tế của bất cứ quốc gia nào cũng trải qua năm giai đoạn: Xã
hội truyền thống -> Chuẩn bị cất cánh ->Cất cánh ->Trưởng thành -> Tiêu dùng cao. Có thể nói rằng lý thuyết
phân kỳ phát triển kinh tế rất có ý nghĩa đối với vấn đề chuyển dịch cơ cấu trong quá trình công nghiệp hoá
ở những nước đang phát triển hiện nay. Nó đặt ra nhiệm vụ mà những nước này cần phải thực hiện để
chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho việc chuyển nền kinh tế của nước mình sang giai đoạn cất cánh.
Lý thuyết nhị nguyên.
Trong lý thuyết này, A.Lewis nhận định để có thể thúc đẩy phát triển kinh tế của những nước chậm
phát triển cần bằng mọi cách mở rộng khu vực sản xuất công nghiệp hiện đại mà không cần quan tâm đến


khu vực nông nghiệp truyền thống vì tự nó sẽ rút lao động từ khu vực nông nghiệp sang và biến nền sản
xuất xã hội từ trạng thái nhị nguyên sang nền kinh tế công nghiệp phát triển.. Có thể nói rằng lý thuyết nhị
nguyên đã gây được ấn tượng mạnh mẽ đối với các quốc gia chậm phát triển muốn đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hoá và trên thực tế các chính sách công nghiệp hoá và cơ cấu kinh tế của các nước này đã ít
nhiều chịu ảnh hưởng của lý thuyết nhị nguyên.
Lý thuyết cân đối liên ngành
Theo lý thuyết này, tất cả các ngành kinh tế có liên quan mật thiết đến nhau trong chu trình “đầu ra”
của ngành này là “đầu vào“ của ngành kia vì vậy phải phát triển cân đối các ngành. Tuy nhiên, lý thuyết này
cũng bộc lộ những yếu điểm lớn đó là đưa nền kinh tế đến chỗ khép kín, tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài
và nước đang phát triển thì không có điều kiện để vận dụng những lý thuyết trên.
Lý thuyết cơ cấu ngành không cân đối hay “cực tăng trưởng”
Lý thuyết này cho rằng nên duy trì một cơ cấu không cân đối vì nó sẽ gây nên áp lực kích thích đầu tư,
hơn nữa nó sẽ khắc phục được tình trạng khan hiếm nguồn lực khi chỉ phải tập trung nguồn lực cho một số
ngành nhất định. Với những ưu điểm của mình lý thuyết đã được áp dụng rộng rãi ở những nước chậm phát
triển từ đầu thập niên 80 trở lại đây.
Với Hà nam, một tỉnh mới được tách lập lại, nền kinh tế kém phát triển, nguồn lực hạn hẹp nhất là
nguồn lực về vốn. Vì vậy, Hà nam nên áp dụng mô hình “cực tăng trưởng” cho quá trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế của mình, tập trung vào một vài ngành, lĩnh vực đầu tầu lôi kéo toàn bộ nền kinh tế của tỉnh
phát triển.
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế chịu tác động của nhiều nhân tố, do đó việc phân tích các nhân tố
này sẽ cho phép tìm ra một cơ cấu ngành hợp lý. Có hai nhóm nhân tố chính ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế :
Nhóm nhân tố địa lý, tự nhiên: vị trí địa lý, khí hậu, đất đai, tài nguyên.
Nhóm những nhân tố trên ảnh hưởng lớn tới việc hình thành cơ cấu kinh tế. Bởi vì nguyên tắc của
chuyển dịch cơ cấu kinh tế là phải tạo ra được một cơ cấu kinh tế hợp lý trên cơ sở sử dụng được hiệu quả
mọi lợi thế so sánh. Với mỗi đặc điểm khác nhau về vị trí địa lý, khí hậu, đất đai, tài nguyên thì sẽ có một cách
lựa chọn cơ cấu kinh tế khác nhau. Ví dụ như tỉnh Hà Nam có nguồn tài nguyên đá vôi rất phong phú, vì vậy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Hà Nam sẽ theo hướng tập trung phát triển công nghiệp khai thác và sản xuất
vật liệu xây dựng để tận dụng được lợi thế về nguồn tài nguyên này.

Nhóm nhân tố kinh tế, xã hội: dân số và nguồn lao động, truyền thống lịch sử, thị trường, khoa học
công nghệ, kết cấu hạ tầng, cơ chế chính sách
Cũng như nhân tố địa lý tự nhiên, nhóm nhân tố này cũng tác động trực tiếp tới việc hình thành và
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Với nguồn lao động dồi dào, nhân công rẻ sẽ thúc đẩy phát triển các ngành
thu hút được nhiều lao động, vốn đầu tư ít; cầu và cạnh tranh trên thị trường ảnh hưởng trực tiếp tới việc
hình thành cơ cấu ngành kinh tế; ngoài ra kết cấu hạ tầng phát triển, an ninh chính trị ổn định, cơ chế chính
sách thông thoáng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công
nghiệp hoá- hiện đại hoá.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ CỦA NƯỚC
TA NÓI CHUNG VÀ TỈNH HÀ NAM NÓI RIÊNG.
1. Vai trò của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đối với phát triển kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một nội dung quan trọng của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Nếu xác định được phương hướng và giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế
xã hội cao trong sự phát triển. Có thể khẳng định rằng, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có một vai trò quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế vì:
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả các yếu tố lợi thế
của nền kinh tế, vùng hoặc địa phương. Các yếu tố đó là nguồn lực tài nguyên, lao động... yếu tố lợi thế so
sánh như chi phí sản xuất.
Thông qua quá trình tổ chức khai thác có hiệu quả các yếu tố lợi thế, trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế sẽ tìm ra các ngành mũi nhọn tạo khả năng tăng trưởng mạnh cho đất nước, vùng hoặc
địa phương đồng thời giải quyết mối quan hệ bền vững giữa tăng trưởng kinh tế với bảo tồn tài nguyên
thiên nhiên, với phát triển nguồn nhân lực.
Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trước hết chuyển dịch cơ cấu ngành nhằm nâng cao vai trò và thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa các
ngành với nhau, tạo đà cho các ngành cùng nhau tăng trưởng và phát triển.
Chuyển dịch cơ cấu ngành giúp các ngành có điều kiện tiếp thu trình độ khoa học công nghệ, thúc đẩy
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Mặt khác chuyển dịch cơ cấu ngành sẽ nâng cao tính hiệu quả và mở rộng quá trình hợp tác kinh tế
giữa các vùng trong nước cũng như quốc tế.
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế tạo ra sự thay đổi trong cơ cấu xã hội.

Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không chỉ có tác động đến thay đổi cơ cấu dân cư mà còn
tạo điều kiện nâng cao trình độ người lao động và mức sống dân cư, từ đó cũng làm thay đổi cơ cấu tiêu
dùng của dân cư.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Việc phát triển mạnh các ngành công
nghiệp sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày, điện, điện tử... đã thu hút một lực lượng lớn lao động từ
khu vực nông nghiệp và nông thôn. Bên cạnh đó, mức thu nhập của dân cư ở khu vực thành thị thường cao
hơn ở nông thôn dẫn tới một bộ phận dân cư di chuyển từ nông thôn ra thành thị làm thay đổi cơ cấu dân
cư.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với khu vực nông nghiệp và nông thôn, việc chuyển
dịch cơ cấu sản xuất theo hướng phát triển các ngành đem lại hiệu quả kinh tế cao, phát triển các lĩnh vực
phi nông nghiệp, gắn chặt với quá trình xây dựng nông thôn làm cho thu nhập và đời sống của người lao
động trong khu vực này được cải thiện, do đó cơ cấu tiêu dùng của người dân cũng thay đổi. Nếu trước đây
người dân chỉ tiêu dùng những hàng hoá thông thường thì ngày nay khi thu nhập tăng lên người ta sẽ
chuyển sang tiêu dùng hàng hoá xa xỉ, hàng hoá thứ cấp.
Như vậy, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có vai trò hết sức quan trong đối với quá trình phát triền
kinh tế xã hội mỗi quốc gia.Vì vậy, vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một yêu cầu bức thiết để đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Có nhiều nguyên nhân khiến phải đặt vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, trong đó có ba nguyên
nhân chủ yếu:
Thứ nhất, khái niệm “Cơ cấu ngành” là một khái niệm “động”. Không có một khuôn mẫu cơ cấu ngành
chung, ổn định cho mọi thời kỳ phát triển. Cơ cấu ngành được hình thành dựa trên sự phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội cùng với tiến bộ khoa học công nghệ. Vì phân công lao động xã
hội luôn thay đổi, khoa học công nghệ tiến bộ không ngừng do đó cơ cấu ngành kinh tế luôn nằm trong tình
trạng phải biến đổi để có thể phù hợp với quá trình phát triển và tạo ra được một cơ cấu ngành hợp lý. Đó là
một cơ cấu ngành phải tạo ra sự ổn định, tăng trưởng và phát triển cho nền kinh tế xã hội.
Thứ hai, kinh nghiệm thành công của một số nước trong việc lựa chọn cơ cấu ngành hợp lý.
Nổi bật là trường hợp của Nhật Bản, là nước thành công trong việc lựa chọn chiến lược phát triển
hướng nội, vì vậy nền kinh tế đạt được sự phát triển thần kỳ và đã trở thành một nước công nghiệp phát

triển.
Một điển hình thành công nữa trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là trường hợp của các
nước NIC và ASEAN với việc thực thi chiến lược hướng ngoại.
Đài Loan thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung phát triển nông nghiệp bằng con
đường hiện đại hoá, thâm canh hoá, hoá học hoá, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp điện, điện tử,
hàng tiêu dùng thông thường và hàng tiêu dùng cao cấp do đó Đài Loan đã phát triển đều cả về công nghiệp
và nông nghiệp.
Singapore có sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đặc biệt mạnh dạn. Lúc đầu, kinh tế Singapore chủ
yếu dựa vào thương mại quốc tế và dịch vụ. Khoảng 15 năm trở lại đây nhà nước Singapore quyết định xây
dựng những ngành sản xuất tạo nên sức mạnh kinh tế của mình. Các ngành công nghiệp có chất lượng cao
như công nghiệp điện tử, dụng cụ y tế, hoá dầu, vận tải biển, du lịch được đưa vào cơ cấu kinh tế. Bên cạnh
đó, ngành dịch vụ cũng được đầu tư phát triển và có một vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của
Singapore.
Như vậy, từ kinh nghiệm của các nước phát triển hiện nay, kể cả những nước láng giềng mà trước
đây có điểm xuất phát tương tự đã cho ta bài học bổ ích và từ đó thấy được sự cần thiết phải chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế.
Thứ ba, yêu cầu phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải thay đổi
cơ cấu ngành kinh tế để tạo ra động lực cho tăng trưởng. Các nước đang phát triển, phải thay đổi căn bản
cơ cấu Công nghiệp và Nông nghiệp, trong đó vai trò của Công nghiệp được tăng cường, giảm mạnh tỷ trong
Nông nghiệp trong cơ cấu GDP. Do đó vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là một đòi hỏi cấp thiết phải đặt ra.
Đối với Hà Nam, một tỉnh mới được tái lập vào năm 1997, xuất phát điểm về kinh tế rất thấp. Về cơ
bản, Hà Nam vẫn là một tỉnh thuần nông với những khó khăn của địa bàn vùng chiêm trũng, công nghiệp địa
phương lạc hậu, nhỏ bé, thương mại xuất khẩu, du lịch, dịch vụ chưa phát triển. Kết cấu hạ tầng ở thị xã Phủ
Lý bị chiến tranh tàn phá nhiều lần và chưa được đầu tư xây dựng, vì vậy, gần như phải xây dựng từ đầu.
Trong khi đó, nguồn thu ngân sách rất hạn hẹp, chưa có thu chủ lực, đời sống nhân dân còn ở mức thấp so
với vùng Đồng bằng Sông Hồng và với cả nước.
Những khó khăn đó đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân tỉnh một nhiệm vụ nặng nề, phải tìm ra hướng để
khắc phục khó khăn, đưa nền kinh tế của tỉnh tiến lên ngang tầm so với các tỉnh khác. Một trong những
hướng giải quyết đó là phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế của tỉnh, cụ thể là phải tập

trung phát triển ngành Công nghiệp của tỉnh thành ngành mũi nhọn, làm đòn bẩy cho tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Muốn vậy, tỉnh Hà Nam phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá tăng tỷ trọng ngành Công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng Nông nghiệp trong cơ
cấu GDP.

×