Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Vai trò của ODA đối với các nước đang và kém phát triển, liên hệ thực tiễn với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.24 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, vốn là một hoạt động vật chất quan trọng cho
mọi hoạt động của nền kinh tế. Nhu cầu về vốn đang nổi lên như một vấn đề
cấp bách. Đầu tư và tăng trưởng vốn là một cặp phạm trù của tăng trưởng kinh tế, để thực
hiện ch i ến l ư ợc phát tr i ển nền kinh tế t r on g gia i đoạn h i ện nay ở nướ c
ta cầ n đến một lượng vốn lớn. Cũng như các nước đang phát triển khác, trong chủ
trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta ,
ngu ồn v ốn hỗ trợ phá t tri ển chính t hứ c (ODA) là một tr on g nhữn g
nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, vốn ODA không thể
thay thế được vốn trong nước, mà chỉ là “chất xúc tác”, tạo điều kiện để khai thác tối đa
và hiệu quả mọi nguồn vốn phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại
hóa đấtnước. Hơn nữa, kinh nghiệm thu hút sử dụng vốn từ bên ngoài của nhiều
nước trên thế giới cho thấy không phải lúc nào ODA cũng mang lại hiệu quả tốt. ODA
như con dao hai lưỡi, nếu sử dụng khéo sẽ hỗ trợ thực sự cho công cuộc phát triển kinh tế -
xã hội. Nếu ngược lại sẽ dẫn tới hậu quả gánh nặng nợ nần khó trả cho nhiều
thế hệ
Có thể nhận thức được rằng ODA đang ngày càng nâng cao vai trỏ trong công cuộc
phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam nói riêng và các nước đang và kém phát triển nói
chung. Vấn đề đặt ra là làm sao khai thác được mặt tốt của ODA và đồng thời cũng hạn
chế được tác động và hậu quả không tốt của nó. Nhóm chúng em quyết định chọn đề
tài: “Vai trò của ODA đối với các nước đang và kém phát triển, liên hệ thực
tiễn với Việt Nam”. Mục đích của đề tài nhằm hệ thống hóa các vấn đề lý luận
và thực tiễn về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức đồng thời đánh giá khái quát thực
trạng quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ và phát triển chính thức ở Việt Nam những năm
qua.Trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và
sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ở Việt Nam trong những năm tới.
1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ODA
I. Nguồn gốc ra đời
Sau đại chiến thế giới thứ II các nước công nghiệp phát triển đã thoả thuận vềsự trợ


giúp dưới dạng viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với điều kiệm ưu đãi cho các nước
đa n g phá t triển. Tổ chứ c tà i c h ính quốc tế N gâ n hàn g th ế giớ i ( W o r ld
Ba nk) đã được thành lập tại hội nghị về tài chính- tiền tệ tổ chức tháng 7 năm 1944 tại
BrettonWoods (Mỹ) với mục tiêu là thúc đẩy phát triển kinh tế và tăng trưởng
phúc lợi củacác nước với tư cách như là một tổ chức trung gian về tài chính, một ngân
hàng thựcsự với hoạt động chủ yếu là đi vay theo các điều kiện thương mại bằng
cách pháthành trái phiếu để rồi cho vay tài trợ đầu tư tại các nước. Tiếp đó một sự kiện
quan trọng đã diễn ra đó là tháng 12 năm 1960 tại Paris các nước đã ký thoả thuận
thành lập Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Tổchức này bao gồm
20 thành viên ban đầu đã đóng góp phần quan trọng nhất trongviệc dung cấp
ODA song phương cũng như đa phương. Trong khuôn khổ hợp tác phát triển, các
nước OECD đã lập ra các uỷ ban chuyên môn trong đó có uỷ ban hỗtrợ phát triển
(Development Assistance Committee) nhằm giúp các nước đang phát triển phát triển kinh
tế và nâng cao hiệu quả đầu tư.
II. Khái niệm
Theo cách hiểu chung nhất, ODA là tất cả các khoản hỗ trợ không hoàn lại và các
khoản tín dụng ưu đãi (cho vay dài hạn và lãi suất thấp của các Chính phủ, các tổc hức
thuộc hệ thống Liệp hợp quốc, các tổ chức phi Chính phủ (NGOs), các tổ chức
tài chính quốc tế (IMF, ADB, WB ) giành cho các nước nhận viện trợ. ODA
đượcthực hiện thông qua việc cung cấp từ phía các nhà tài trợ các khoản viện
trợ không hoàn lại, vay ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán (theo định
nghĩa của OECD, nếu ODA là khoản vay ưu đãi thì yếu tố cho không phải đạt
25% trở lên). Về thực chất, ODA là sự chuyển giao một phần GNP từ bên ngoài vào
một quốc gia, do vậy ODA được coi là một nguồn lực từ bên ngoài.
2
III. Phân loại
Tuỳ theo phương thức phân loại mà ODA được xem có mấy loại
3
1. Phân theo phương thức hoàn trả
1.1 Vi ệ n trợ khôn g hoàn l ạ i

Bên nước ngoài cun g cấ p v i ện trợ (mà bên nhận khôn g p hả i
hoà n lạ i ) để bên n hận thự c hiện cá c chư ơ n g trìn h, dự á n theo sự th oả
thuận trước giữa các bên.Viện trợ không hoàn lại thường được thực hiện dưới các dạng
• Hỗ trợ kỹ thuật
• Viện trợ bằng hiện vật
1.2 Viện trợ có hoàn lại
Nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản tiền (tuỳ theo một quy mô và mục
đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời gian trả nợ thích hợp. Những điều kiện ưu đãi
thường là:
• Lãi suất thấp (tuỳ thuộc vào mục tiêu vay và nước vay)
• Thời hạn vay nợ dài (từ 20 - 30 năm)
• Có thời gian ân hạn (từ 10 - 12 năm)
1.3 Viện trợ hỗn hợp
Bao gồm sự kết hợp của viện trợ hoàn lại và viện trợ không hoàn lại
2. Phân loại theo nguồn cung cấp
2.1 ODA song phương
Là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến nước kia thông qua hiệp
định được ký kết giữa hai Chính phủ.
2.2 ODA đa phương
Là viện trợ chính thức của một tổ chức quốc tế (IMF, WB ) hay tổ chức khu vực
(ADB, EU, ) hoặc của một Chính phủ của một nước dành cho Chính phủ của một nước
nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa phương như UNDP
(Chương trình phát triển Liên hiệp quốc), UNICEF (quĩ nhiđồng Liên Hiệp
quốc) có thể không.
Các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp ODA chủ yếu
• Ngân hàng thế giới (WB)
• Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
• Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
3. Phân loại theo mục tiêu sử dụng
3.1 Hỗ trợ cán cân thanh toán

4
Gồm các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân sáchcủa Chính phủ, thường được
thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao trực tiếp chonước nhận ODA hay hỗ trợ nhập
khẩu (viện trợ hàng hoá).
3.2 Tín dụng thương mại
Tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có kèm theo điều kiện ràng buộc
3.3 Viện trợ chương trình (viện trợ phi dự án)
Nước viện trợ và nước nhận việntrợ kế hiệp định cho một mục đích tổng
quát mà không cần xác định tính chính xáckhoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế
nào.
3.4 Viện trợ dự án
Chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA. Điều kiện được
nhận viện trợ dự án là "phải có dự án cụ thể, chi tiết về các hạng mục sẽ sử dụng ODA".
IV. Đặc điểm
Một khoản tài trợ được coi là ODA nếu đáp ứng đầy đủ 3 điều kiện sau:
Một là: Được các tổ chức chính thức hoặc đại diện của các tổ chức chính thức cung
cấp. Tổ chức chính thức bao gồm các nhà nước mà đại diện là Chính phủ, các tổ chức liên
chính phủ hoặc liên quốc gia, và các tổ chức phi chính phủ hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận.
Hai là: Mục tiêu chính là giúp các nước đang phát triển (ĐPT) phát triển kinh tế,
nâng cao phúc lợi xã hội. Các lĩnh vực được ưu tiên sử dụng vốn ODA bao gồm: Xoá đói,
giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn; cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật như giao
thông vận tải, thông tin liên lạc, năng lượng; cơ sở hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, bảo
vệ môi trường; các vấn đề xã hội như tạo việc làm, phòng chống dịch bệnh, phòng chống
các tệ nạn xã hội; cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý
nhà nước, cải cách thể chế…
Ba là: Thành tố hỗ trợ (Grant element – GE) phải đạt ít nhất 25%. Thành tố hỗ trợ,
còn được gọi là yếu tố không hoàn lại là một chỉ số biểu hiện tính “ưu đãi” của ODA so
với các khoản vay thương mại theo điều kiện thị trường. Thành tố hỗ trợ càng cao càng
thuận lợi cho nước tiếp nhận

5
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ODA ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG VÀ KÉM
PHÁT TRIỂN
I. Nhu cầu của các nước đang và kém phát triển đối với nguồn vốn ODA
ODA – Official Development Assistance - Hỗ trợ phát triển chính thức. Gọi là “hỗ
trợ” vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thếp
với thời hạn cho vay dài. Gọi là “phát triển” vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư
này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước đầu tư. Gọi là chính thức vì bên nhận
vốn vay thường là Nhà nước.Thông qua các thành tố trên về ODA thì các nước đều thấy
được lợi ích của nguồn vốn vay ODA. Đặc biệt là các nước đang và kém phát triển nói
chung, trong đó Việt Nam là nước điển hình.
Trên thực tế hiện nay, Việt Nam cũng đang có nhu cầu lớn trong việc sử dụng vốn
ODA để phát triển cơ sở hạ tầng. Bước vào năn 2012, năm bản lề cho việc hoàn tất kế
hoạch Phát triển KT – XH 5 năm ( 2011-2015), Việt Nam càng cần nhiều hơn nữa sự hỗ
trợ về ODA, trong đó đối tác chính yếu là Nhật Bản trong việc cung cấp nguồn vốn vay
này, nhằm phát triển cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là công
tác xóa đói giảm nghèo.
Hiện nay với các dự án đang giải ngân thực hiện bằng nguồn vốn ODA từ Nhật
Bản như: Dự án Phát triển cơ sở hạ tầng Cảng quốc tế Cái Mép – Thị Vải, đường cao tốc
Bắc Nam (đoạn TP HCM – Dầu Giây), nhà máy nhiệt điện Ô Môn II, đại lộ Đông Tây TP
HCM, dựa án cải thiện môi trường nước TP HCM,… vẫn đang cần thêm nguồn vốn bổ
sung để hoàn tất. Bên cạnh đó, còn hàng loạt công trình cơ sở hạ tầng qui mô lớn thiết yếu
như dự án phát triển cơ sở hạ tầng cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng (cảng Lạch Huyện),
đường cao tốc Bắc Nam (đoạn Đà Nẵng – Quảng Ngãi), Trung tâm vũ trụ Việt Nam, dự án
cấp nước và xử lý nước thải Đồng Nai,… cũng đang được chính phủ Việt Nam đề nghị
chính phủ Nhât Bản cung cấp vốn ODA.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng nguồn vốn vay ODA chủ yếu được dung vào
các dự án phúc lợi và phát triển cộng đồng tại các quốc gia đang và kém phát triển và đây
cũng là nhu cầu cấp thiết nhất tại các quốc gia này. Trong đó lĩnh vực giáo dục là một
trong những ưu tiên hang đầu để các nước đồng ý hỗ trợ cho các nước đang và kém phát

triển vay bằng hình thức ODA. Chẳng hạn, vào ngày 21/08/2009, ngân hàng Nhà nước và
WB tại Việt Nam đã ký Hiệp định tài trợ cho chương trình đảm bảo chất lượng giáo dục
6
trường học và Chính sách phát triển giáo dục đại học giai đoạn 1. Tổng số vốn ODA mà
WB cho vay trong hai dự án này là 177 triệu USD. Chương trình được thực hiện tại 35
tỉnh, thành phố trên cả nước từ 2009-2015.
II. Lợi ích ODA mang lại cho các nước đang và kém phát triển
Nguồn vốn ODA được đánh giá là nguồn ngoại lực quan trọng giúp các nước thực
hiện các chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mình. Vai trò của ODA thể hiện trên các
giác độ cơ bản như
1. ODA là nguồn vốn bổ sung giúp cho các nước nghèo đảm bảo chi đầu tư phát
triển, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước
Vốn ODA với đặc tính ưu việt là thời hạn cho vay dài thường là 10 - 30 năm, lãi
suất thấp khoảng từ 0,25% đến 2%/năm. Chỉ có nguồn vốn lớn với điều kiện cho vay ưu
đãi như vậy Chính phủ các nước mới có thể tập trung đầu tư cho các dự án xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế như đường sá, điện, nước, thuỷ lợi và các hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế.
Những cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội được xây dựng mới hoặc cải tạo nhờ nguồn vốn ODA
là điều kiện quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế của các nước nghèo. Theo tính
toán của các chuyên gia của WB, đối với các nước có thể chế và chính sách tốt, khi ODA
tăng lên 1% GDP thì tốc độ tăng them 0.5%
2. ODA giúp các nước phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường
Một lượng ODA lớn được các nhà tài trợ và các nước tiếp nhận ưu tiên dành cho
đầu tư phát triển giáo dục, đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực
này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc dạy và học của các nước. Bên
cạnh đó, một lượng ODA khá lớn cũng được dành cho các chương trình hỗ trợ lĩnh vực y
tế, đảm bảo sức khoẻ cộng đồng.Nhờ có sự tài trợ của cộng đồng quốc tế, các nước đã gia
tăng đáng kể chỉ số phát triển con người của quốc gia mình.
Về phát triển nguồn nhân lực, tại Indonesia, mỗi năm có khoảng 7000 người được
đưa đi đào tạo tại Nhật Bản trong chương trình đào tạo đối tác của JICA. Trong năm tài
chính 2000, 12 khóa học đã được tổ chức tại Indo và 131 học viên từ châu Á và chau Phi

đã đến Indo học tập.
Tại Trung Quốc, từ năm 1990 đến năm 1997, có khoảng 16 dự án gìn giữ môi
trường sử dụng vốn ODA của Nhật Bản. Các khoản vay ODA cam kết cho năm tài chính
2000 có 20 trong số 23 dự án là các dự án nhằm bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, việc hợp
7
tác cũng mở rộng sang lĩnh vực chống ô nhiễm công nghiệp, các biện pháp chống ô nhiễm
nước và không khí, quản lý môi trường, trồng rừng, chống sa mạc hóa…
3. ODA giúp các nước xoá đói, giảm nghèo
Xoá đói giảm nghèo là một trong những tôn chỉ đầu tiên được các nhà tài trợ quốc
tế đưa ra khi hình thành phương thức hỗ trợ phát triển chính thức.Mục tiêu này biểu hiện
tính nhân đạo của ODA. Trong bối cảnh sử dụng có hiệu quả, tăng ODA một lượng bằng
1% GDP sẽ làm giảm 1% nghèo khổ, và giảm 0,9% tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh. Và nếu như
các nước giàu tăng 10 tỷ USD viện trợ hằng năm sẽ cứu được 25 triệu người thoát khỏi
cảnh đói nghèo. Nhật dành nhiều vốn ODA cho việc xóa đói giảm nghèo tại Indonesia, đất
nước chịu nhiều thiên tai và dịch bệnh.
Tuy nhiên thực tế cho thấy nghèo vẫn còn là vấn đề lớn nhất cần được giải quyết tại
nước này, đặc biệt là trong tình hình khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế và sự bất ổn
trong nước trong những năm gần đây. Tại Trung Quốc, nhờ sử dụng vốn ODA hiệu quả,
dân số nông thôn nghèo khó ở Trung Quốc từ 94,22 triệu người tính đến cuối năm 2000,
giảm xuống còn 26,88 triệu người năm 2010. Tỷ lệ dân số nông thôn nghèo khó trong tổng
số dân nông thôn Trung Quốc từ 10,2% năm 2000, giảm xuống còn 2,8% năm 2010. Trung
Quốc đã thực hiện trước thời hạn mục tiêu giảm 50% dân số nghèo khó theo Mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ của LHQ, góp phần quan trọng cho sự nghiệp xóa giảm đói nghèo của
toàn thế giới.
4. ODA là nguồn bổ sung ngoại tệ và làm lành mạnh cán cân thanh toán quốc tế
của các nước
Đa phần các nước rơi vào tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, gây bất lợi cho cán
cân thanh toán quốc tế của các quốc gia này. ODA, đặc biệt các khoản trợ giúp của IMF có
chức năng làm lành mạnh hoá cán cân vãng lai cho các nước tiếp nhận, từ đó ổn định đồng
bản tệ.

Khủng hoảng tài chính châu Á là cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1997
ở Thái Lan rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, trung tâm tiền tệ lớn, và giá cả
của những tài sản khác ở vài nước châu Á, nhiều quốc gia trong đó được coi là “những con
hổ Đông Á”. Cuộc khủng hoảng này thường được gọi là Khủng hoảng tiền tệ châu Á.
Ngày 14 tháng 5 và ngày 15 tháng 5 năm 1997, đồng Baht Thái bị tấn công đầu cơ
quy mô lớn mất giá gần 50%. Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 Baht mới
đổi được 1 dollar Mỹ. Chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã tụt từ mức 1.280 cuối
8
năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997. Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ
141,5 tỷ USD xuống còn 23,5 tỷ USD. Finance One, công ty tài chính lớn nhất của Thái
Lan bị phá sản. Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ
dollar Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ
đôla Mỹ.
Kết quả: đồng Baht Thái Lan đã tăng giá trở lại sau 1 năm sụt giá thảm hại
(55Baht/USD vào tháng 12/1997 tăng lên khoảng 38 Baht/USD tháng 11/1998).
5. ODA được sử dụng có hiệu quả sẽ trở thànhnguồn lực bổ sung cho đầu tư tư
nhân
Ở những quốc gia có cơ chế quản lý kinh tế tốt, ODA đóng vai trò như nam châm
“hút” đầu tư tư nhân theo tỷ lệ xấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối với những nước
đang trong tiến trình cải cách thể chế, ODA còn góp phần củng cố niềm tin của khu vực tư
nhân vào công cuộc đổi mới của Chính phủ.Tuy nhiên, không phải lúc nào ODA cũng phát
huy tác dụng đối với đầu tư tư nhân. Ở những nền kinh tế có môi trường bị bóp méo
nghiêm trọng thì viện trợ không những không bổ sung mà còn “loại trừ” đầu tư tư nhân.
Điều này giải thích tại sao các nước ĐPT mắc nợ nhiều, mặc dù nhận được một lượng
ODA lớn của cộng đồng quốc tế song lại không hoặc tiếp nhận được rất ít vốn FDI.
6. ODA giúp các nước tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương
trình, dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính và xây dựng
chính sách quản lý kinh tế phù hợp với thông lệ quốc tế
Lượng vốn ODA nhận được từ các tổ chức tài chính quốc tế càng cao, càng chứng
tỏ độ tin cậy của cộng đồng quốc tế nước tiếp nhận càng lớn. Ngược lại nước nhận viện trợ

phải nỗ lực cải cách thể chế, tích cực chống thể chế, tích cực chống tham nhũng và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn quốc gia, đây là những điều khoản tiên quyết để được nhận hỗ
trợ nhiều hơn từ các nhà tài trợ song phương và đa phương.
ODA giúp các nước nghèo cải cách hành chính, kinh tế thông qua các chương
trình viện trợ dự án, làm cho cơ chế quản lý kinh tế những nước này tiếp cận với những
chuẩn mực chung quốc tế; góp phần cải tiến cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và
đưa nền kinh tế tham gia phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ.
Căn cứ vào những kết quả đã đạt được cho đến nay trong quá trình thực hiện
tuyên bố Paris và cam kết Hà Nội (HCS) về Hiệu quả viện trợ, cũng như kế hoạch thực
9
hiện chương trình hành động Accra tại một số Bộ và địa phương có thể rút ra một số bài
học sau đây:
• Những hoạt động hiệu quả viện trợ cụ thể có thể được thực hiện một cách tích cực bởi các
cơ quan và đơn vị thụ hưởng có lợi ích thực tế và rõ ràng mà hoạt động này mang lại. Bộ Y
tế đã có sáng kiến xây dựng các cột mốc thực hiện HSC về hiệu quả viện trợ để gắn với các
hoạt động của Bộ. Tác động của các hoạt động này có thể đóng góp cải thiện dịch vụ y tế
cho xã hội. Đó chính là tác động của hiệu quả viện trợ đối với hiệu quả phát triển trong
lĩnh vực y tế.
• Cam kết chính trị cấp cao là hết sức quan trọng để thúc đẩy thực hiện các hoạt động hiệu
quả viện trợ. Việc Thứ trưởng Bộ Y tế đồng chủ tọa Nhóm quan hệ đối tác Y tế (HPG) là
một ví dụ cụ thể về cam kết chính trị cấp cao đối với việc thực hiện Chương trình nghị sự
về hiệu quả viện trợ. Ví dụ cụ thể về việc thay đổi, cải cách chính sách quản lý kinh tế ảnh
hưởng đến việc nhận được viện trợ nước ngoài.
• Năm 1999, sau khi khảo sát dự án cải tạo hệ thống cấp thoát nước tránh lũ lụt cho các quận
5, quận 6, và quận 11 của TP.HCM, ADB nhận thấy dự án này rất quan trọng nên đã đồng
ý cho vay ưu đãi ODA 70 triệu USD và thỏa thuận với chính quyền thành phố đóng khoản
vay vào tháng 12-2005 và gia hạn thêm 6 tháng nữa trước khi đóng gói thầu. Trên thực tế,
ADB đã đóng gói thầu vào cuối tháng 6-2006. Lý do là sau 7 năm kể từ khi dự án được
triển khai, ADB nhận thấy dự án chỉ được rút ra 6 triệu USD dành cho hoạt động tư vấn.
Tuy chính quyền thành phố có bàn bạc gia hạn thêm vài năm nữa nhưng ADB nhận thấy

rằng có kéo dài thêm 10 năm nữa, dự án vẫn không hoạt động được. Đại diện ngân hàng
tuyên bố nấu thành phố muốn tiếp tục thực hiện dự án này, họ phải đưa ra kế hoạch cụ thể,
cách thức cũng như thời gian thực hiện. ADB muốn có câu trả lời rõ ràng hơn và sẵn sàng
giúp đỡ để thực hiện dự án.
Trước 2007, với sự hỗ trợ kỹ thuật của ODA, một số bộ luật quan trọng đã được
chuẩn bị đúng hạn và được Chính phủ trình Quốc hội thông qua đáp ứng nhu cầu cải cách
thể chế trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật
Phòng chống tham nhũng…
7. Tiếp xúc với thiết bị mới, hiện đại
Tại Trung Quốc, hợp tác về y tế sức khỏe viện trợ ODA không hoàn lại (hợp tác kỹ
thuật) của Nhật tập trung tại Thượng Hải và Bắc Kinh và các thành phố khác. Các hình
thức hợp tác như cung cấp các thiết bị y tế hiện đại, chuyển giao công nghệ chuẩn đoán và
chữa bệnh tại các cơ sở y tế.
10
Việc cải thiện và nâng cao chất lượng trang thiết bị cũng như trình độ khám chữa
bệnh thông qua các dự án viện trợ không hoàn lại tại hai bệnh viện lớn là Bệnh viện Bạch
Mai và Bệnh viện Chợ Rẫy và các dự án hợp tác kỹ thuật trong lĩnh vực y tế của Nhật Bản
cũng đã góp phần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ y bác sĩ cũng như trang thiết bị y
tế, qua đó cải thiện đời sống nhân dân mà đặc biệt là dân nghèo thành thị.
8. Có thêm cơ hội tham gia vào các tổ chức tài chính thế giới, đạt được sự giúp
đỡ lớn hơn về vốn từ các tổ chức này. Nước viện trợ đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa
nước cần vốn với các tổ chức quốc tế
Thúc đẩy hội nhập, phát triển và mở rộng các hình thức kinh tế đối ngoại khác, đặc
biệt là thương mại quốc tế:
Về xuất khẩu, đầu tư nước ngoài với công nghệ hiện đại, kéo theo sản phẩm có chất
lượng cao, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu, tận dụng được kinh nghiệm tiêu thụ, hệ thống phân
phối và uy tín của nước ngoài, cải biến cơ cấu xuất khẩu tăng tỉ trọng sản phẩm chế biến,
chế tạo, giảm tỷ trọng sản phẩm thô, sơ chế. Ngoài ra, định hướng chiến lược khuyến khích
xuất khẩu của nước nhận đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng
Cùng với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng được đẩy mạnh: nhập khẩu máy

móc thiết bị, nguyên liệu, công nghệ cho quá trình sản xuất.
Ngoài ra, ĐTQT còn giúp phát triển các hình thức kinh tế đối ngoại khác như: xuất
khẩu sức lao động (tại chỗ), chuyển giao công nghệ, quan hệ quốc tế và tiền tệ.
III. Hạn chế của ODA
Các nước cung cấp viện trợ (nước giàu) khi viện trợ ODA đều gắn với những lợi
ích và chiến lược như mở rộng thị trường, mở rộng hợp tác có lợi cho họ, đảm bảo mục
tiêu về an ninh - quốc phòng hoặc theo đuổi mục tiêu chính trị Vì vậy, họ đều có chính
sách riêng hướng vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay họ có lợi thế (những mục tiêu
ưu tiên này thay đổi cùng với tình hình phát triển kinh tế - chính trị - xã hội trong nước,
khu vực và trên thế giới). Vì vậy dẫn đến một số hạn chế, bất lợi khi nhận ODA của các
nước đang và kém phát triển
1. ODA mang tính ràng buộc
ODA có thể ràng buộc (phải chi tiêu ở nước cung cấp viện trợ) hoặc có thể ràng
buộc một phần (một phần chi tiêu ở nước cấp viện trợ, phận còn lại chi ở bất kỳ đâu)
11
• Về kinh tế, nước đang và kém phát triển (nước tiếp nhận ODA) phải chấp nhận dỡ bỏ dần
hàng rào thuế quan bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ và bảng thuế xuất nhập khẩu
hàng hoá của nước tài trợ. Nước đang và kém phát triển (nước tiếp nhận ODA) cũng được
yêu cầu từng bước mở cửa thị trường bảo hộ cho những danh mục hàng hoá mới của nước
tài trợ; yêu cầu có những ưu đãi đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài như cho phép
họ đầu tư vào những lĩnh vực hạn chế, có khả năng sinh lời cao
• Nguồn vốn ODA từ các nước giàu cung cấp cho các nước đang và kém phát triển cũng
thường gắn với việc mua các sản phẩm từ các nước này mà không hoàn toàn phù hợp,
thậm chí là không cần thiết đối với các nước đang và kém phát triển. Ví như các dự án
ODA trong lĩnh vực đào tạo, lập dự án và tư vấn kỹ thuật, phần trả cho các chuyên gia
nước ngoài thường chiếm đến hơn 90% (bên nước tài trợ ODA thường yêu cầu trả lương
cho các chuyên gia, cố vấn dự án của họ quá cao so với chi phí thực tế cần thuê chuyên gia
như vậy trên thị trường lao động thế giới).
• Nguồn vốn viện trợ ODA còn được gắn với các điều khoản mậu dịch đặc biệt nhập khẩu
tối đa các sản phẩm của họ. Cụ thể là nước cấp ODA buộc nước đang và kém phát triển

(nước tiếp nhận ODA) phải chấp nhận một khoản ODA là hàng hoá, dịch vụ do họ sản
xuất.
Nước tiếp nhận ODA tuy có toàn quyền quản lý sử dụng ODA nhưng thông thường, các
danh mục dự án ODA cũng phải có sự thoả thuận, đồng ý của nước viện trợ, dù không trực
tiếp điều hành dự án nhưng họ có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ
trợ chuyên gia. Vì vậy các nước đang và kém phát triển khi nhận ODA thì vẫn phải chịu sự
giám sát quản lí gián tiếp của các nước cấp viện trợ.
• Bên cạnh ưu điểm nổi bật của các dự án vay vốn ưu đãi ODA là lãi suất vay thấp là hàng
loạt điều kiện bắt buộc như phải sử dụng nhà thầu (với mức lương nhân công rất cao), vật
tư, thiết bị… của nước cho vay. Khi nguồn lực còn hạn chế, các nước đang và kém phát
triển đều chấp nhận điều kiện ràng buộc để đầu tư hạ tầng.
• Tác động của yếu tố tỷ giá hối đoái có thể làm cho giá trị vốn ODA phải hoàn lại tăng lên.
2. Quá trình thực hiện các dự án sử dụng vốn ODA còn nhiều hạn chế
Đó là những hạn chế về năng lực chuyên môn của các cơ quan chủ quản, các khu vực trong
chu trình ODA: xây dựng, thẩm định, tổ chức, quản lý và thực hiện dự án
12
• Trong khi các nước đang và kém phát triển đang rất nỗ lực để tăng thêm viện trợ ODA
nhằm “gỡ nút thắt cổ chai về hạ tầng” và “kích thích kinh tế”, thì những nỗ lực đó lại bị
chặn lại bởi thủ tục hành chính phức tạp, cũng như năng lực hạn chế của cấp thừa hành bên
dưới.
• Hệ quả nữa của hạn chế về ODA rất rõ là việc giải ngân ODA chậm trễ – vốn là căn bệnh
kinh niên – lại gây nhiều quan ngại mà Chính phủ các nước đang và kém phát triển lại
đang rất cần tiền cho các chương trình kích cầu, cũng như để bù đắp lại thâm hụt cán cân
thanh toán. Giải ngân vốn ODA khá chậm như những dự án đầu tư lớn phát triển cơ sở hạ
tầng đều thuộc lĩnh vực ưu tiên bố trí vốn đối ứng. Chính phủ các nước thường đề nghị bố
trí khối lượng vốn đối ứng lớn, song thục tế không giải ngân hết. Việc chậm giải ngân như
vậy đã ảnh hưởng tới cả cân đối ngân sách chung và kế hoạch phát triển của các nước.
• Chậm tiến độ là điều thường xuyên xảy ra với các công trình giao thông trong thời gian
qua, bởi rất nhiều nguyên nhân như giải phóng mặt bằng chậm, biến động giá, năng lực
nhà thầu hạn chế.Có nhiều nguyên nhân khiến nhà thầu quốc tế không tham gia dự thầu.

Tuy nhiên, tại không ít dự án sử dụng vốn vay ưu đãi ODA, chậm tiến độ còn do một
nguyên nhân khác là sự thờ ơ của các nhà thầu quốc tế.
• Ngoài ra, tình trạng thất thoát, lãng phí; xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút và sử
dụng vốn ODA vào các lĩnh vực chưa hợp lý; trình độ quản lý thấp, thiếu kinh nghiệm
trong quá trình tiếp nhận cũng như xử lý, điều hành dự án… khiến cho hiệu quả và chất
lượng các công trình đầu tư bằng nguồn vốn này còn thấp có thể đẩy nước tiếp nhận
ODA vào tình trạng nợ nần. Vì vậy ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ. Các nước khi
tiếp nhận và sử dụng vốn ODA do tính chất ưu đãi nên ghánh nặng nợ xuất hiện. Một số
nước do sử dụng không hiệu quả ODA, có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau
một thơi gian lại lâm vào vòng nợ nần không có khả năng trả nợ.nần thường. Các khoản
ODA thường giậm chân tại chỗ, gây lãng phí lớn và làm ảnh hưởng xấu tới những nước
đang và kém phát triền vốn là những quốc gia có thu nhập thấp và trung bình.
13
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG NGUỒN VỐN ODA TẠI VIỆT NAM
I. Tình hình huy động, tiếp nhận và sử dụng ODA của Việt Nam
1. Tình hình huy động
ODA của các tổ chức quốc tế và các nước phát triển là một trong những kênh cấp
vốn khá quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Vì vậy, việc duy
trì một lượng vốn ổn định hoặc gia tăng theo hướng năm sau cao hơn năm trước cũng như
nâng cao mức độ giải ngân luôn là những mục tiêu quan trọng
1.1 Chiến lược huy động vốn ODA của Việt Nam:
Nh ận thứ c đư ợc rằng OD A là một nguồn lực có ý nghĩa quan
trọn g từ bên ngoài và xuất phát từ xu hướng vận động và những ưu tiên của nhà tài trợ
chính phủ Việt Nam luôn luôn coi trọng và quan tâm đến việc huy động các nguồn ODA.
Trước hết, để duy trì lòng tin đối với các nhà tài trợ nhằm duy trì các nguồn cung
cấp ODA đang khai thác chính phủ Việt Nam đã tạo ra một khung pháp lý cho việc khai
thác và sử dụng nguồn vốn ODA thông qua việc ban hành các chính sách và các
văn bản pháp lý điều tiết các hoạt động liên quan đến ODA.
Cụ thể: Trước năm 1993, việc quản lý và sử dụng ODA được điều tiết bởi từng
quyết định riêng lẻ của Chính phủ đối với từng chương trình, dự án ODA và từng nhà tài

trợ cụ thể. Để quản lý vay và trả nợ nước ngoài một cách có hệ thống Nhà nước ban hành
nghị định 87/1997/NĐ-CP ngày 5/8/1997 về quy chế vay và trả nợ nước ngoài
đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phân công trách nhiệm rõ ràng
giữa các cơ quan của chính phủ, các Bộ, Ngành, Địa phương và các tổ chức kinh tế trong
việc quản lý, sử dụng vốn vay nước ngoài. Các văn bản này đã tạo ra hành lang pháp lý
trong việc quản lý và sử dụng vay nợ nước ngoài góp phần thực hiện hiệu quả các chương
trình, dự án sử dụng ODA tạo niềm tin cho các nhà tài trợ và điều đó sẽ tạo thuận lợi cho
việc huy động tài trợ của các nhà tài trợ.
Bên cạnh đó, để tăng khối lượng nhận viện trợ Việt Nam cũng đã chủ động
tìm kiếm các nguồn cung cấp ODA, tăng cường,mở rộng các mối quan hệ với các
quốc gia, tổ chức quốc tế, chủ động đưa ra những khó khăn, những lĩnh vực
cần được hỗ trợ với các nhà tài trợ và đưa ra những cam kết trong việc quản lý và
sử dụng vốn của các nhà tài trợ.
14
Tình hình thu hút vốn ODA theo ngành từ năm 1993 – 2007
Ngành, lĩnh vực %
Nông nghiệp và phát triển nông thôn 15.9
Năng lượng và công nghiệp 23.1
Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông 25.6
Cấp thoát nước và phát triển đô thị 9.5
Y tế, giáo dục, môi trường và các ngành khác 25.9
Tổng số 100
1.2 Các nhà tài trợ và lĩnh vực ưu tiên tài trợ cho Việt Nam
Đối với Việt Nam trước năm 1993 nguồn viện trợ chủ yếu từ Liên Xô và
các nước Đông Âu nhưng kể từ khi nối lại quan hệ với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế
năm 1993 thì cho đến nay tại Việt Nam có trên 45 tổ chức tài trợ chính thức
đang hoạt động với khoảng 1500 dự án ODA và trên 350 tổ chức phi chính phủ đang có
tài trợ cho Việt Nam.
Sau đây là các lĩnh vực ưu tiên chủ yếu của một số nhà tài trợ lớn dành
choViệt Nam:

Nhà tài trợ Ưu tiên toàn cầu Ưu tiên Việt Nam
Nhật Hạ tầng kinh tế và dịch vụ Hạ tầng kinh tế và dịch vụ
Đức Phát triển kinh tế và cải thiện
điều kiện sống
Hỗ trợ cải cách kinh tế và phát triển hệ
thống giao thông
Mỹ Tăng trưởng kinh tế, ổn định dân
số và sức khỏe
Cứu trợ nạn nhân chiến tranh và trẻ em
mồ côi
Pháp Phát triển đô thị, giao thông vận
tải, giáo dục, khai thác mỏ
Phát triển nhân lực, giao thông vận tải,
thông tin liên lạc
Canada Cơ sở hạ tầng, phát triển khu vực
tư nhân, môi trường
Hỗ trợ kinh tế và tài chính, hỗ trợ thiết
chế và quản lý
Anh Nhiều lĩnh vực Xóa đói giảm nghèo và vận tải
WB Thúc đẩy phát triển kinh tế và
phúc lợi
Xóa đói giảm nghèo và vận tải
IMF Cân bằng về mậu dịch quốc tế và
ổn định tỷ giá hối đoái
Hỗ trợ cán cân thanh toán và điều chỉnh
cơ cấu
1.3 Huy động vốn ODA qua các thời kì
1.3.1 Giai đoạn trước tháng 10/1993
Trước đây, nước ta nhận được hai nguồn ODA song phương chủ yếu. Một từ các
nước thuộc tổ chức SEV (Hội đồng tương trợ kinh tế) trong đó chủ yếu là Liên Xô (cũ).

Hai là từ các nước thuộc tổ chức DAC (Uỷ ban hỗ trợ phát triển) và một
sốnước khác, trong đó chủ yếu là Thuỵ điển, Phần Lan, Đan mạch, Nauy, Pháp, Ấn
độ Các khoản ODA trên giúp chúng ta xây dựng một số ngành quan trọng
15
nhấtcủa sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế nước ta. Sau cuộc khủng hoảng chính
trịở Liên xô cũ và Đông Âu, SEV giải thể đã làm cho nguồn viện trợ từ các
nước này chấm dứt dẫn tới rất nhiều khó khăn cho nước ta, nhiều kế hoạch
không có vốn đểhoàn thành.Ngày 3/2/1994 Hoa Kỳ xoá bỏ cấm vận với Việt Nam. Cùng
với các chính sách đốingoại mở rộng quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực tạo điều
kiện cho Việt Nam nhậnđược một số lượng viện trợ lớn từ các nước phát triển và các tổ
chức quốc tế.
1.3.2 Giai đoạn phát triển hợp tác mới từ tháng 10/1993
Báo hiệu đáng mừng cho giai đoạn này được bắt đầu bằng sự kiện rất
quan trọng vào tháng 10/1993, quan hệ của ta với quỹ tiền tệ quốc tế (IMF),
Ngân hàngthế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) được khai thông. Tháng
11/1993 Hội nghịcác nhà tài trợ cho Việt Nam họp tại Paris mở ra giai đoạn hợp tác phát
triển mới giữanước ta và cộng đồng các nhà tài trợ, tạo ra các cơ hội quan trọng để hỗ trợ
Việt Namtiến hành công cuộc phát triển nhanh và bền vững thành công của hội nghị thể
hiện ở chỗ V iệ t Nam đã tranh thủ đượ c sự đồn g tình và ủng h ộ mạnh mẽ
củ a cộn g đồn g quốc tế vào công cuộc đổi mới phát triển của Việt Nam thông
qua đối ngoại, bằng cách cam kết dành ODA cho Việt Nam. Kể từ n ă m 1993 khi
Vi ệt Nam bắ t đầu bìn h thư ờng h óa quan h ệ vớ i các tổ chứctài chính quốc
tế, nhiều Chính phủ và tổ chức đã nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam.Các nhà tài trợ đã
ngày càng quan tâm nhiều hơn đến Việt Nam và có nhữngđộng tháihợp tác tích
cực với Chính phủ Việt Nam trong vấn đề này Năm 1993 Việt Nam bắt đầu tiếp nhân
nguồn hỗ trợ phát triển chính thức.
Thông qua 15 Hội nghị CG thường niên, tổng vốn ODA đã được các nhà
tàitrợ cam kết đạt 42,438 tỷ USD với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước,
kể cảnhững năm kinh tế thế giới gặp khó khăn như khủng hoảng tài chính khu vực châu Á
vào năm 1997.Cùng với xu hướng tăng lên của ODA Việt Nam đã thực hiện đa

phương hóavới các nhà tài trợ. Trong đó Nhật Bản là quốc gia viện trợ song
phương lớn nhất, chiếm 42,9% và Ngân hàng thế giới là cơ quan viện trợ đa phương
lớn nhất, chiếm hơn 26,6 % trong tổng số vốn ODA cho Việt Nam. Các nhà tài trợ
lớn tiếp theo là Ngân hàng Phát triển Châu Á hơn 14,4%; Pháp hơn 4,4%; Đức hơn
2,9%; Đan Mạch hơn 2,7%; Thụy Điển hơn 2%; Trung Quốc 1,5%; Úc 1,4%; Liên minh
Châu Âu 1,3%.
16
Việt Nam dành được sự quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng tài trợ quốc tế và các nhà
đầu tư nước ngoài sẽ không quan tâm tới Việt Nam nếu như họ không tin tưởng vào triển
vọng phát triển tốt đẹp ở đất nước ta. Điều quan trọng chính là sự đánh giá cao của cộng
đồng quốc tế về những gì mà Việt Nam đã làm trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi
mới nền kinh tế.
1.3.3 Giai đoạn hiện nay
Những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế-xã hội và xóa đói giảm nghèo
thời gian qua bên cạnh những nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương của Việt Nam, không
thể không kể đến sự đóng góp và hỗ trợ của các nhà tài trợ. Nguồn vốn này đã được huy
động để hỗ trợ những lĩnh vực ưu tiên phát triển cao nhất của đất nước, đặc biệt là tăng
cường cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, xóa đói giảm nghèo, chú trọng tới vấn đề ứng phó với
biến đổi khí hậu toàn cầu.
Các chính sách thu hút và sử dụng ODA của Việt Nam trong thời gian qua đã phát
huy hiệu quả. Tính đến cuối năm 2010, các nhà tài trợ đã cam kết cung cấp ODA cho Việt
Nam trên 64 tỷ USD. Những năm gần đây, lượng vốn ODA cam kết năm sau đều cao hơn
năm trước, lên tới khoảng 8 tỷ USD mỗi năm, thể hiện sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào
khả năng phát triển (và trả nợ) của Việt Nam. Số liệu Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho thấy trong
5 năm 2006-2010, tổng số vốn ODA cam kết cho Việt Nam đạt 31,7 tỷ USD, tăng 21,5%
so với giai đoạn 5 năm trước đó. Các chương trình, dự án tài trợ được ký kết trong thời kỳ
2006-2010 cũng đạt 20,1 tỷ USD, tăng 17,9% so với 5 năm trước. Vốn giải ngân được
trong thời kỳ này đạt 13,8 tỷ USD, tăng 17% so với giai đoạn trước đó.
Năm 2011, trong bối cảnh Việt Nam phải cắt giảm đầu tư công để kiềm chế lạm
phát, nguồn vốn ODA với lãi suất ưu đãi và thời hạn vay kéo dài càng được coi là nguồn

lực quan trọng để đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong 6
tháng đầu năm nay, việc huy động và giải ngân ODA tiếp tục đạt kết quả ấn tượng, trong
đó giải ngân vốn ODA đã tăng cao kỷ lục. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch – Đầu tư, tổng
giá trị giải ngân vốn ODA 5 tháng đầu năm 2011 ước tính đạt 1,26 tỷ USD, bằng 52,5% kế
hoạch giải ngân của cả năm. Đây được xem là con số giải ngân ODA cao kỷ lục so với
nhiều năm trước đó. Dự báo cho 6 tháng đầu năm nay, Bộ Kế hoạch – Đầu tư ước tính khả
năng vốn ODA giải ngân đạt khoảng 1,35 tỷ USD, bằng 56,25% kế hoạch cả năm.
17
Vốn ODA ký kết cũng tăng rất cao trong 6 tháng đầu năm nay. Tổng số vốn ODA
ký kết trong 5 tháng đầu năm nay thông qua các hiệp định từ mức hơn 1 tỷ USD trong các
công bố chính thức cách đây khoảng hai tháng, vọt lên trên 1,66 tỷ USD, tăng khoảng 20%
so với cùng kỳ năm ngoái. Về hoạt động thu hút vốn ODA, chỉ tính trong 4 tháng đầu năm
đã có 11 dự án viện trợ chính thức được ký kết với tổng giá trị 1.028,21 triệu USD, gấp
hơn 2 lần so với cùng kỳ. Trong đó vốn vay đạt 1.002,28 triệu USD, viện trợ không hoàn
lại đạt 25,93 triệu USD. Đáng chú ý có những dự án quy mô lớn như dự án xây dựng Nhà
máy điện Nghi Sơn 2 trị giá 365,82 triệu USD; dự án xây dựng cầu Nhật Tân 2 trị giá
304,25 triệu USD.
Tuy nhiên, trong những năm tới, nguồn vốn ODA của các nước cung cấp
cho Việt Nam có thể sẽ giảm xuống. Sở dĩ có nhận định như vậy là do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khuvực Châu Á, chiến tranh ở Trung Á, và
thảm học ở Nhật Bản vừa qua làm cho nềnkinh tế của một số nước cung cấp viện trợ
gặp khó khăn dẫn đến việc các nước có thểcắt giảm lượng viện trợ ODA hàng năm.
Công tác thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam trong 17 năm qua đã đạt
được những thành quả to lớn, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Một trong những nguyên nhân dẫn đến kết quả trên là sự chỉ đạo và điều
hành của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đối với công tác quản lý và sử dụng nguồn
vốn ODA thông qua việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện khung thể chế về quản lý
và sử dụng nguồn vốn này. Đây cũng chính là điểm nổi bật nhất trong việc quản lý ODA
tại Việt Nam trong những năm qua
2. Tình hình tiếp nhận và sử dụng

Năm 1993 được lấy làm mốc kể từ ngày Việt Nam bắt đầu tiếp nhận nguồn viện trợ
phát triển chính thức (ODA) từ các nhà tài trợ song phương, đa phương cũng như các tổ
chức phi chính phủ. Đa phần vốn vay ODA ưu đãi đều dùng cho công cuộc xoá đói giảm
nghèo, phát triển nông nghiệp nông thôn, giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Hiện nay,
ngân hàng thế giới là cơ quan viện trợ đa phương lớn nhất, Nhật Bản là quốc gia viện trợ
song phương lớn nhất cho Việt Nam. Xét về viện trợ không hoàn lại thì Pháp là lớn nhất và
Đan Mạch là thứ nhì. Ngoài ra theo số liệu đến năm 2008 , hiện có trên 50 Nhà tài trợ song
phương và đa phương đã cung cấp nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt
Nam với mức cam kết năm sau cao hơn năm trước tổng cộng trên 42 tỷ USD.
18
Các ngành nghề được hưởng ODA nhiều nhất ở VN là các ngành thuộc hạ tầng:
Giao thông, đô thị, nước sạch và môi trường; thuộc lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, thuộc
lĩnh vực phát triển con người (y tế/ giáo dục), nông nghiệp (thuỷ sản). Vốn ODA đã có
những đóng góp quan trọng trong xóa đói giảm nghèo và hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn tại Việt Nam. Điển hình là tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ mức 58% vào năm 1983 xuống
còn 37% năm 1998; 28,9% năm 2002 và dưới 10% năm 2004.
Tìình hình cam kết ODA và thực hiện ODA của nước ta từ năm 1993 đến nay
Đơn vị tính: tỷ USD
Năm
Cam
kết
Thực
hiện
% Thực
hiện
% Tăng
vốn CK
1993 1.81 0.41 22.65 0.00
1994 1.94 0.73 37.63 7.18
1995 2.26 0.74 32.74 16.49

1996 2.43 0.90 37.04 7.52
1997 2.40 1.00 41.67 -1.23
1998 2.20 1.24 56.36 -8.33
1999 2.21 1.35 61.09 0.45
2000 2.40 1.65 68.75 8.60
2001 2.40 1.50 62.50 0.00
2002 2.50 1.53 61.20 4.17
2003 2.83 1.42 50.18 13.20
2004 3.44 1.65 47.97 21.55
2005 3.44 1.85 53.78 0.00
2006 3.75 1.80 48.00 9.01
2007 4.50 2.00 44.44 20.00
2008 5.40 2.20 40.74 20.00
2009 5.90 3.00 50.85 9.26
2010 8.06 3.54 43.92 36.61
2011 8.34 3.65 43.76 3.47
Qua bảng trên ta nhận thấy tốc độ tăng trưởng và khả năng thu hút vốn ODA của
nước ta tăng với tốc độ khá nhanh và ổn định trong suốt giai đoạn từ 1993 đến nay. Mặc dù
có một giai đoạn ngắn tăng trưởng âm nhưng giai đoạn này trùng với cuộc khủng hoảng
kinh tế còn gọi là khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 đã ảnh hưởng đến toàn cầu khiến
cho việc nhận viện trợ của Việt Nam cũng bị giảm sút. Còn lại trong suốt quá trình từ
1993- 2003 là mức độ tăng trưởng ổn định trên dưới 8%, đặc biệt tăng cao vào giai đoạn từ
2004- 2008 thời điểm này trùng với giai đoạn trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
19
Đặc biệt trong ba năm trở lại đây số vốn viện trợ mà Việt Nam Nhận được tăng đáng kể, từ
5.4 tỉ năm 2008 lên đến 8.34 tỉ năm 2011, nguyên nhân chính là do nhà tài trợ ODA chính
thức cho nước ta chính là Nhật Bản không ngừng gia tăng số vốn viện trợ của
mình vào Việt Nam.
Tuy khả năng thu hút ODA của chúng ta tăng trưởng ở mức khá nhưng việc thực
hiện vốn cam kết hay nói cách khác là tốc độ giải ngân của Việt Nam còn chậm và chưa

đạt được hiệu quả cao và đang có xu hướng sút giảm. Cụ thể, trong suốt quá trình dài tiếp
nhận ODA từ bên ngoài của nước ta, bắt đầu từ năm 1993 đến nay, tỉ lệ vốn được giải ngân
thường xuyên thấp hơn 50%, kể cả trong giai đoạn Việt Nam đang tập trung đổi mới kinh
tế, cần nhiều vốn đầu tư cho việc nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng như hiện nay. Hậu quả
là, tốc độ giải ngân chậm gây ra việc lãng phí, thất thoát vốn gây ra gánh nặng nợ không
cần thiết cho thế hệ sau và gây ảnh hưởng xấu cho khả năng thu hút các nguồn đầu tư quốc
tế khác, khiến Việt Nam trở nên kém hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư.
Như đã nói ở trên, Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Từ năm
1992 - 2003, viện trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam đạt khoảng 8,7 tỉ USD, chiếm
khoảng 30% tổng vốn ODA của cộng đồng quốc tế cam kết dành cho Việt Nam, trong đó
viện trợ không hoàn lại khoảng 1,2 tỉ USD. Từ năm 2001, Nhật Bản cắt giảm 10% ngân
sách ODA nhưng vẫn giữ và tăng kim ngạch ODA cho Việt Nam. Năm 2003, mặc dù Nhật
tiếp tục cắt giảm 5,8% vốn ODA cho các nước nói chung, nhưng ODA cho Việt Nam vẫn
là 91,7 tỉ Yen, giảm khoảng 1% so với năm 2002. Từ năm 2002 - 2006, tổng vốn viện trợ
Nhật Bản cho Việt Nam vào khoảng 479 tỉ Yen, tương đương 4,1 tỉ USD. Vào năm 2010
con số đó đã lên đến 1.64 tỉ USD và trong năm nay, năm 2012 Nhật cam kết sẽ tiếp tục
tăng viện trợ ODA cho nước ta, dự định là khoảng 1.9 tỉ USD.
Cơ cấu vốn ODA của Nhật cho Việt Nam
Đơn vị tính: %
Năm 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Vốn vay 90.4 82.1 82 87 87.5 88.3 89.9
Viện trợ 4.1 9.4 9.3 5.7 6.3 5.4 4.5
Hợp tác 5.4 8.6 8.7 7.3 6.2 6.3 5.6
Từ bảng số liệu trên ta thấy, vốn vay chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng vốn ODA của
Nhật cho Việt Nam. Xét về phân bổ theo ngành, một tỷ trọng lớn vốn vay ODA được dành
cho xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông. Vốn dành cho phát triển cơ sở hạ tầng xã hội (như
20
giáo dục, sức khỏe, và vệ sinh công cộng) tương đối thấp. Hơn nữa, viện trợ không hoàn
lại thường cấp cho những ngành có tính sinh lợi thấp (như nông nghiệp).
Tóm lại, quá trình tiếp nhận ODA của các nước dành cho Việt Nam diễn ra liên tục

hàng năm, con số viện trợ tuy có phụ thuộc vào tình hình kinh tế thế giới nhưng nhìn
chung vẫn duy trì ở mức ổn định và có chiều hướng tăng. Tuy nhiên, việc sử dụng ODA
sao cho hiệu quả vẫn còn lại một bài toán khá nan giải đối với chúng ta, vì trên thực tế khả
năng sử dụng, giải ngân ODA của Việt Nam thực sự là kém hiệu quả.
II. Liên hệ một số ví dụ cụ thể
1. Hầm Hải Vân
Hầm Hải Vân được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định đầu tư bằng nguồn vốn
ODA của Chính phủ Nhật Bản và vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam. Đây là hầm
đường bộ lớn nhất được xây dựng ở Việt Nam và là một trong 30 hầm lớn và hiện đại nhất
của thế giới với hệ thống đường hầm hoàn chỉnh có tổng chiều dài 15,1 km. Hầm Hải Vân
được trang bị và lắp đặt các hệ thống thiết bị điện, thông gió đạt chuẩn của Nhật Bản,
Phần Lan với tính năng tự động hóa cao. Tổng vốn đầu tư xây dựng hầm Hải Vân hơn
127,9 triệu USD. Trong đó vốn ODA chiếm hơn 75%.
 Hiệu quả dự án đem lại
Mở đường hầm là tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội của cả nước,
nhưng trực tiếp là của miền Trung. Mở đường hầm là điểm đầu và điểm cuối của con
đường hành lang Đông - Tây, là con đường mà các nước ASEAN và các nước vùng sông
Mê Kông coi đây là một trong những dự án quan trọng.
Cải thiện điều kiện giao thông qua lại trên đoạn đường đèo hiểm trở Hải Vân, nơi
thường xuyên xảy ra ách tắc và tai nạn giao thông. Giảm đoạn đường qua đèo từ 22 km
xuống còn khoảng 10 km bằng tuyến đường hầm an toàn, hiệu quả và thuận lợi.
2. Cảng Cái Mép - Thị Vải
Dự án phát triển cảng quốc tế Cái Mép- Thị Vải thuộc khu vực tỉnh Bà Rịa- Vũng
Tàu là một trong những dự án lớn và đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển kinh tế- xã
hội các tỉnh phía Nam. Tại Quyết định số 659/QĐ-TTg ngày 24/6/2004, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt đầu tư dự án bằng nguồn vốn vay đặc biệt của JBIC và giao Bộ GTVT
làm chủ đầu tư, Ban QLDA 85 làm đại diện chủ đầu tư. Tổng mức đầu tư dự án lên tới
11.473 tỷ đồng bằng nguồn vốn vay ODA của Nhật Bản và vốn đối ứng của Việt Nam.
21
Toàn bộ dự án được chia làm 6 gói thầu gồm 1 gói dịch vụ tư vấn kỹ thuật, 3 gói thầu xây

lắp, 1 gói nạo vét luồng và một gói cung cấp dịch vụ cung cấp thiết bị khai thác cảng.
 Hiệu quả dự án đem lại
Cảng Cái Mép được thiết kế để tiếp nhận tàu container có trọng tải lên đến 80.000
DWT với công suất thông qua đạt 600.000- 700.000 TEU mỗi năm. Chiều dài bến 600m
với tổng diện tích lên tới 48ha. Còn cảng Thị Vải cũng có khả năng tiếp nhận tàu hàng tổng
hợp có tải trọng lên đến 75.000 DWT. Công suất thông qua cảng đạt 1,6- 2 triệutấn/năm.
Tổng diện tích của cảng là 27ha.
Hai bến cảng này của dự án sau khi hoàn thành và đưa vào vận hành khai thác sẽ
nâng cao lượng hàng thông qua tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, đồng thời tạo điều kiện thuận
lợi cho việc giao thương xuất nhập khẩu hàng hóa trong và ngoài nước. Đặc biệt, dự án có
thể góp phần thúc đẩy phát triển các khu kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng và cả nước
nói chung, đóng góp một phần quan trọng vào chiến lược phát triển cảng biển trong những
năm tới.
3. Đại lộ Đông Tây
Đại lộ Đông Tây được khởi công vào ngày 31/1/2005 với tổng vốn đầu tư trên 600
triệu đô la . Dự án có chiều dài toàn tuyến 21,89km, đi qua địa bàn các quận 1, 2, 4, 5, 6, 8,
Bình Tân và huyện Bình Chánh, tạo thành một tuyến trục giao thông Đông – Tây.
 Hiệu quả đem lại:
Kết nối hai đầu Đông Bắc - Tây Nam thành phố, cải thiện hệ thống giao thông nội
thị hiện đang quá tải. Có đại lộ Đông – Tây, các phương tiện giao thông ra vào cảng Sài
Gòn để đi và về các tỉnh miền Đông và miền Tây sẽ không phải đi vào trung tâm thành
phố. Đây sẽ là con đường huyết mạch nối với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, tạo
thành mối liên kết chặt chẽ các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Dự án đại lộ Đông Tây tạo tiền đề cho việc giãn dân cư đô thị về phía Đông và phía
Nam thành phố, đặc biệt góp phần quan trọng hình thành trung tâm thương mại mới ở Thủ
Thiêm thuộc quận 2
Từ trước đến nay, mặc dù ở bên kia bờ con sông Sài Gòn, nhưng Thủ Thiêm là một
bán đảo gần như cô lập với TP.HCM, vì giao thông trắc trở. Vì vậy, con đường hầm dài
1,49km của dự án cùng với 5 cây cầu sẽ đưa bán đảo Thủ Thiêm với diện tích 737ha nối
liền với trung tâm thành phố và trở thành trung tâm của thành phố trong tương lai, khi

22
TP.HCM xác định sẽ phát triển về hướnđông và hướng nam Đại lộ Đông - Tây được coi là
điểm nhấn quan trọng nhất của cửa ngõ đi vào Thủ Thiêm.
Một giá trị lớn khác của đại lộ Đông Tây, là cải tạo môi trường ven kênh, tạo vẻ mỹ
quan thành phố. Khi đại lộ này hoàn thành, những nhà chòi ổ chuột của 10.000 hộ ở hai
bên kênh Tàu Hủ - Bến Nghé sẽ được thay bằng những công viên cây xanh, công trình
công cộng. Đi cùng với công trình này sẽ là dự án nhà máy xử lý nước và chống ngập cho
3.000ha nội thành.
4. Cầu Cần Thơ
Cầu Cần Thơ là cây cầu bắc qua sông Hậu, nối thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh
Long, khi hoàn thành cây cầu này sẽ là cầu dây văng có nhịp chính dài nhất tại khu vực
Đông Nam Á.Tổng mức đầu tư 4.832 tỷ bằng nguồn Viện trợ phát triển chính thức của
chính phủ Nhật và vốn đối ứng của chính phủ Việt Nam (khoảng 15%).
 Hiệu quả đem lại
Sau khi hoàn tất cầu Cần Thơ sẽ nối thông phần còn lại của vựa lúa đồng bằng sông
Cửu Long với cả nước.Tạo động lực mới cho sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
của vùng nói riêng và cả khu vực miền Nam nói chung.
Đối với TP Cần Thơ, cây cầu sẽ tạo một nét mới mạnh mẽ, hiện đại tô điểm cho
cảnh quan của Tây Đô. Chắc chắn Tây Đô sẽ đẹp hơn và người dân Tây Đô sẽ có thêm
một niềm tự hào khi nói tới thành phố quê hương mình.
III. Ưu và Nhược điểm của các dự án ODA tại Việt Nam
1. Tác động tích cực của nguồn vốn ODA đối với Việt Nam
1.1 Trong lĩnh vực Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Vốn ODA đã góp phần đáng kể phát triển hệ thống thuỷ lợi, lưới điện nông thôn,
trường học, trạm y tế, giao thông nông thôn, cấp nước sinh hoạt, tín dụng nông thôn quy
mô nhỏ, phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xoá đói, giảm nghèo.
Ví dụ: Trong lĩnh vực này có các chương trình và dự án ODA ký kết trong thời kỳ
gian qua đạt tổng trị giá khoảng 5,5 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như Dự
án giảm nghèo các tỉnh vùng núi phía Bắc, Dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa
vào cộng đồng, Dự án phát triển sinh kế miền Trung, Chương trình cấp nước nông thôn,

giao thông nông thôn và điện khí hóa nông thôn, Chương trình thủy lợi Đồng bằng sông
Cửu Long và nhiều dự án phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm nghèo
23
khác, đã góp phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời
sống người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc
tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.
1.2 Trong lĩnh vực năng lượng điện
Là lĩnh vực sử dụng nguồn vốn ODA lớn với các dự án đã ký trong thời gian qua
đạt trên 7,6 tỷ USD. Nhờ có vốn ODA, ngành Năng lượng điện đã tăng đáng kể công suất
nguồn; phát triển và mở rộng mạng lưới phân phối điện, kể cả lưới điện nông thôn, một số
cơ sở sản xuất công nghiệp được đầu tư bằng nguồn vốn ODA đã góp phần tạo công ăn
việc làm ở một số địa phương.
Ví dụ: Một số dự án tiêu biểu như Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại (596,9 triệu USD),
Nhà máy thuỷ điện Hàm Thuận Đa Mi (435 triệu USD), Nhiệt điện Phú Mỹ (507,6 triệu
USD), Dự án Năng lượng Nông thôn 2 (218,5 triệu USD); Lưới điện đồng bằng sông Cửu
Long (88 triệu USD); Nhà ga hành khách Quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất (186 triệu USD).
1.3 Trong lĩnh vực Giao thông vận tải và Bưu chính viễn thông
Vốn ODA đã góp phần nâng cấp và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và cải thiện
chất lượng dịch vụ. Hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa, cảng biển, đường
hàng không, cơ sở hạ tầng bưu chính, viễn thông đã có những bước phát triển rõ rệt.
Ví dụ: Đề án "Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các
khoản vốn vay ưu đãi khác của các nhà tài trợ thời kỳ 2011 – 2015" mới được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt. Theo đề án, nguồn vốn này sẽ được ưu tiên sử dụng cho xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng, trong đó sẽ dành phát triển các tuyến đường cao tốc, xây dựng
đường bộ ở những vùng kinh tế trọng điểm nơi có thể kết nối thuận lợi giữa các vùng
vùng, miền và quốc tế. Một số dự án tiêu biểu như 2 dự án đường cao tốc đang triển khai là
tuyến đường Cầu Giẽ-Ninh Bình ở phía Bắc và TPHCM - Long Thành - Dầu Giây ở phía
nam, còn 2 dự án khác đang chờ vốn để khởi công là dự án đường cao tốc Đà Nẵng -
Quảng Ngãi, vốn đầu tư 1,4 tỉ đô la và dự án đường cao tốc Bến Lức - Long Thành vốn
đầu tư 1,68 tỉ đô la. Một số dự án khác dự kiến sẽ được đầu tư bằng các nguồn vốn vay

ODA là dự án đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ; đường cao tốc Ninh
Bình - Thanh Hóa; đường cao tốc Thanh Hóa - Hà Tĩnh…
1.4 Trong lĩnh vực Giáo dục và đào tạo
24
Vốn ODA đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật cho công tác
dạy và học ở tất cả các cấp (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, giáo
dục đại học, cao đẳng và dạy nghề); đổi mới sách giáo khoa và chương trình giáo dục phổ
thông; đào tạo nâng cao trình độ giáo viên; gửi giáo viên và sinh viên đi đào tạo và bồi
dưỡng ở nước ngoài; xây dựng chính sách và tăng cường năng lực quản lý ngành.
Ví dụ: Theo Bộ GD - ĐT, từ năm 1998 đến nay, đã có 9 dự án được triển khai bằng
nguồn vốn ODA với tổng vốn trên 825 triệu USD và 6 dự án được thực hiện bằng nguồn
vốn viện trợ không hoàn lại với tổng vốn trên 25 triệu USD. Tỷ lệ giải ngân các dự án
trong đạt trên 74%.
1.5 Trong lĩnh vực Y tế
Vốn ODA đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật chất và kỹ thuật cho công tác
khám và chữa bệnh, tăng cường công tác kế hoạch hóa gia đình; phòng chống HIV/AIDS
và các bệnh truyền nhiễm; đào tạo cán bộ y tế; hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao
năng lực quản lý ngành.
Ví dụ Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, khoảng
58% trong tổng vốn ODA (khoảng 0,9 tỷ USD) đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật
chất và kỹ thuật cho công tác khám và chữa bệnh (xây dựng bệnh viện và tăng cường trang
thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh viện huyện và các trạm
y tế xã, xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc gia, , tăng cường
công tác kế hoạch hóa gia đình, phòng chống HIV/AIDS và bệnh truyền nhiễm như lao, sốt
rét; đào tạo cán bộ y tế, hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng cao năng lực quản lý ngành.
1.6 Trong lĩnh vực Môi trường
Vốn ODA đã được sử dụng để hỗ trợ bảo vệ và cải thiện môi trường sống trong các
lĩnh vực như trồng rừng, quản lý nguồn nước, cấp nước và thoát nước, xử lý nước thải, rác
thải ở nhiều thị xã, thành phố, khu công nghiệp và các khu dân cư tập trung.
Ví dụ: Một số dự án cải thiện môi trường tại Thành phố Vũng Tàu như dự án thu

gom, xử lý và thoát nước TP. Vũng Tàu (vốn ODA của Pháp), quy mô 22.000m3/ngày
đêm, vốn đầu tư gần 9.000 tỷ đồng, đã đền bù giải phóng mặt bằng đạt trên 50%, đang xúc
tiến phần móng nhà máy; xây dựng các trạm bơm, lắp đặt hệ thống mạng, chủ trương tập
trung tổng lực trước mùa mưa năm 2012 để cơ bản giải quyết các khu vực đã có mặt bằng
sạch.
25

×