Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Ngăn ngừa rủi ro tín dụng đối tượng hộ sản xuất kinh doanh ở chi nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông thôn huyện Đông Sơn – Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.05 KB, 77 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Đất nước ta sau hơn 20 năm đổi mới đã đạt đựoc nhiêu thành tựu to lớn
về kinh tế trong đó sự nghịêp công nghiệp hoá_hiện đaị hoá là nhịêm vụ trọng
tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá - hiện
đại hoá chính là quá trình tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật và công
nghệ, quá trình cơ khí hoá, hiện đại hoá nền sản xuất, phải được gắn liền với
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động xã hội. Song để làm
đuợc đièu đó cần phải có những đìều kịên nhất định mà một trong những tiền
đề quan trọng là sự tích luỹ về vốn.
Ở nước ta hiện nay, hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng là nguồn
cung cấp vốn chủ yếu cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong quá trình đổi
mới và tái cơ cấu lại ngân hàng (NH), bên cạnh những sản phẩm, dịch vụ
truyền thống, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã từng bước đổi mới hoạt
động của mình, chuyển sang kinh doanh đa dạng các sản phẩm dịch vụ, phát
triển và ứng dụng các sản phẩm mới trong hoạt động kinh doanh. Tuy vậy
hoạt động tín dụng của ngân hàng vẫn được xem là chủ đạo trong hoạt động
kinh doanh và chimd tỷ trọng lớn trong lợi nhuận của mỗi ngân hàng thương
mại. Hoạt động tín dụng đã góp phần tích cực cho sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên bên cạnh các mặt được của hoạt động tín dụng thì nó cũng bộc lộ
những hạn chế và rủi ro mà các Ngân hàng đang phải đối mặt đó là rủi ro tìêm
ẩn còn cao, nợ quá hạn (NQH) ngày một gia tăng. Do vậy để hệ thống Ngân
hàng Việt Nam phát triển ổn định, vững chắc, an toàn, hiệu quả thì một trong
những mối quan tâm hàng đầu là phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt
động của các Ngân hàng thương mại.
Sau một thời gian thực tập, được tìm hiểu về tình hình kinh doanh của
NHNN
o
&PTNT Huyện Đông Sơn em nhận thấy những năm qua hoạt động tín
1
dụng đã mang lại lợi nhuận chính trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh.


Tuy nhiên trong những nam gần đây bắt đầu bộc lộ những đấu hiệu rủi ro
trong tín dụng như nợ quá hạn (NQH), nợ khó đòi ngày một tăng cao, những
tìm ẩn khác về rủi ro tín dụng đang có xu hướng ra tăng. Vì vậy việc phòng
ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng đang trở thành một vấn đề hết sức cấp bách. Một
mặt tạo điều kiện nâng cao tính an toàn bền vững trong hoạt động, nâng cao
năng lực tài chính và uy tín cho chi nhánh. Mặt khác góp phần thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế địa phương một cách bền vững và thúc đẩy cải cách doanh
nghiệp nhà nước, phát triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các hộ sản
xuất kinh doanh trên địa bàn. Với những kiến thức tiếp thu được trong quá
trình học tập ở trường và đặc biệt sau thời gian thực tập tại chi nhánh
NHNN
o
&PTNT Huyện Đông Sơn, việc tìm hiểu và đưa ra các giải pháp để
phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và
đặc biệt đối với việc hộ sản xuất kinh doanh vay hộ sản xuất kinh doanh nói
riêng vì Đông Sơn là huyện trọng yếu lúa. Vì vậy em đã chon đề tài nghiên
cứu là “Ngăn ngừa rủi ro tín dụng đối tượng hộ sản xuất kinh doanh ở chi
nhánh Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông thôn huyện Đông
Sơn – Thanh Hóa”.
2. Mục đích nghiên cứu
_ Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về kinh tế hộ sản xuất.
_ Hệ thống hoá một số vấn đề cơ bản về tín dụng và rủi ro tín dụng
NHTM trong nền kinh tế thị trường.
_ Đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNN
o
&PTNT
Huyện Đông Sơn nói chung và đối với đối tượng hộ sản xuất nói riêng. Từ đó
rút ra một số tồn tại và nguyên nhân dẫn đến rủi ro.
_ Đề xuất các giải pháp nhằm ngăn ngừa rủi ro tín dụng tại chi nhánh
Ngân hàng Đông sơn.

2
3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế, từ
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tổng hợp; đến phương pháp
điều tra, phân tích, diễn giải - quy nạp, phương pháp thống kê, so sánh... qua
các thời kỳ để làm sáng tỏ chủ đề; nội dung và mục tiêu nghiên cứu của
chuyên đề:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng của NHTM, hộ
sản xuất.
- Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNN&PTNT Huyện
Đông Sơn.
- Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng nói chung và
rủi ro tín dụng đối với hộ sản xuất nói riêng.
3
PHẦN I
LÝ LUẬN CHUNG RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
ĐỐI VỚI KINH TẾ HỘ SẢN XUẤT
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH TẾ HỘ SX
1.1. Bản chất của kinh tế hộ
Thực tế ta thấy rằng ở bất kỳ quốc gia nào có nền nông nghiệp thì ở đó
đều tồn tại kinh tế hộ. Như vậy hộ ở đây được hiểu là một hình thưc tổ chức
trong kinh doanh nông nghiệp. Và để hiểu rõ được bản chất của kinh tế hộ ta
tìm hiểu một số khái niệm về hộ trên những phương diện khác nhau như sau:
Theo một số từ điển chuyên ngành kinh tế thì hộ được hiểu đơn thuần là
những người cùng sống trong một mái nhà.
Về phương diện thống kê hộ được hiểu là những người cùng sống
chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và cùng có chung nguồn ngân quỹ.
Nếu chỉ dừng lại ở đây ta hay nhầm khái niệm ‘hộ’ và khái niệm ‘gia
đình’ là một, tuy nhiên trong thực tế hai khái niệm này lại đựơc hiểu rất khác
nhau.Có thể nói gia đình là cơ sở của hộ. Nó là một loại hình hộ quy mô nhỏ,

và nó chứa đựng những nhân tố để hình thành các loại hình hộ mở rộng khác.
Đây chính là nguyên nhân dẫn đến việc trong nhiều tài liệu thường không
phân biệt được hai khái niệm trên mà gộp chung là ‘hộ gia đình’.Thực ra khái
niệm này là cách nói trùng lặp những nội dung khác nhau của hộ và gia đình.
Từ đó người ta có một khái niệm khá đầy đủ về hộ đó là: ‘hộ là hình
thức tổ chức sản xuất bao gồm một hoặc một nhóm người có cùng huyết tộc
hoặc có quan hệ huyết tộc sống chung trong một mái nhà, có chung một
nguồn thu nhập và cùng tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh’.
Như vậy ở khái niệm trên ta cần lưu ý một số điểm sau về hộ:
-Hộ là một nhóm người có cùng huyết tộc hay quan hệ huyết tộc;
-Họ cùng sống chung dưới một mái nhà;
4
-Có chung một nguồn thu nhập và ăn chung. Ăn chung ở đây không chỉ
có ý nghĩa ăn thông thường mà còn hàm ý phân phối chung nguồn thu nhập
mà các thành viên của hộ làm ra được trong một khoảng thời gian nhất định;
-Cùng tiến hành sản xuất chung.
Qua những hiểu biết về hộ ta có thể xây dựng khái niệm kinh tế hộ như
sau: Kinh tế hộ là tổng thể các quan hệ kinh tế trong các hoạt động sản xuất kinh
doanh của hộ bao gồm quan hệ kinh tế nội bộ, quan hệ kinh tế giữa các hộ với
nhau, và quan hệ kinh tế giữa kinh tế hộ với các cơ quan quản lý vĩ mô.
Như vậy kinh tế hộ là một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, sản xuất kinh
doanh trên cơ sở sức lao động,nguồn vốn và những tư liệu sản xuất thuộc
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của các thành viên trong hộ.
Ta phải biết rằng kinh tế hộ trong nông nghiệp nông thôn không phải là
kinh tế nông hộ. Kinh tế nông hộ có phạm vi hẹp hơn, nó là một loại hình của
kinh tế hộ. Xét về lĩnh vực hoạt động, kinh tế nông hộ chỉ hoạt động trong
lĩnh vực nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp); còn kinh tế hộ bao hàm cả
kinh tế nông hộ và các loại hình kinh tế hộ khác như hộ ngành nghề, hộ nông
nghiệp kiêm ngành nghề, hộ làm dịch vụ….
Ngày nay khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì kinh tế hộ cũng

xuất hiện ngày càng nhiều hộ sản xuất hàng hoá với quy mô ngày càng lớn.
1.2. Đặc điểm của kinh tế hộ
Từ sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị năm 1988, kinh tế hộ là đơn vị
kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh, là đơn vị kinh tế cơ bản nhất ở nông
thôn. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế hộ. Tính tự chủ được biểu hiện:
-Nó là chủ thể kinh tế kinh doanh theo luật pháp và bình đẳng trước
pháp luật.
-Nó tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh
doanh của mình.
5
-Hộ được giao quyền sử dụng đất lâu dài và được vay vôn để sản xuất
kinh doanh.
-Có quyền tham gia hợp tác với các loại hình kinh tế khác theo nguyên
tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.
Chính các quyền tự chủ trên đã găn kết lợi ích với trách nhiệm và quyền
lợi của kinh tế hộ. Đây chính là động lực thúc đẩy kinh tế hộ phát triển.
Về trình độ sản xuất: hiện nay trình độ sản xuất kinh doanh của các hộ
chủ yếu còn ở mức thấp, sản xuất thủ công là chính, máy móc còn ít, mô hình
sản xuất giản đơn, tổ chưc sản xuất còn mang tính tư phát - chưa thực sự xuất
phát từ nhu cầu thị trường, quy mô sản xuất còn nhỏ, người lao động chưa
được đào tạo bài bản. Đồng thời hộ vẫn chủ yếu hoạt động sản xuất kinh
doanh theo tính chất truyền thống và thường bị chi phối bởi những phong tục
tập quán của làng quê. Trình độ ứng dụng khoa học công nghệ vào trong sản
xuất cũng như việc sử dụng hiệu quả các nguồn nội lực đều còn gặp phải
nhiều hạn chế.
Về tổ chức: hộ bao gồm các thành viên chủ yếu có quan hệ thân thuộc
với nhau, ít lao động thuê ngoài, tuỳ thuộc vào mùa vụ trong sản xuất. Trong
sản xuất kinh doanh, chủ hộ là đại diện cũng như là lao động (lđ) trực tiếp,
chịu trách nhiệm và tự giác trong các hoạt động của hộ. Vì vậy chủ hộ thường
là người lớn tuổi vẫn còn khả năng lao động và có uy cũng như có khả năng

quản lý trong gia đình.Do cách thức tổ chức như vậy mà kinh tế hộ có sự
thống nhất chặt chẽ giữa việc sở hữu, quản lý, sử dụng các yếu tố sản xuất, có
sự thống nhất giữa quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối và sử dụng, tiêu
dùng trong một đơn vị kinh tế. Do thống nhất về lợi ích nên có sự gắn kết tính
tự nguyện, tự giác cao trong lao động.
Về nhân lực: hộ chủ yếu sử dụng nguồn nhân lực tự có (các thành viên
có khả năng lao động trong gia đình). Đây là nguồn nhân lực ở quy mô gia
6
đình được huy động để tăng gia sản xuất. Một số hộ sản xuất hàng hoá có thể
thuê thêm lao động, đó có thể là lao động thời vụ cũng có thể là lao động
thường xuyên nếu hộ đó có quy mô sản xuất lớn. Nhưng trong nông nghiệp
nước ta hiện nay với quy mô kinh tế hộ còn nhỏ thêm vào đó là tính mùa vụ
trong nông nghiệp khá cao nên việc thuê lao động thường xuyên chiếm tỷ lệ
rất ít, chủ yếu hiện nay lao động trong nông nghiệp là lao động được thuê vào
những lúc mùa vụ bận rộn.
Về quy mô sản xuất: hộ thường sản xuất sản phẩm, dịch vụ có quy mô
nhỏ, ở mức gia đình và trang trại là chủ yếu. Có nhiều lý do cho vấn đề này
nhưng chủ yếu là do điều kiện về nguồn vốn; về khả năng quản lý còn yếu;
công nghệ sản xuất lạc hậu, chủ yếu các sản phẩm sản xuất ra còn ở dưới dạng
thô hoặc chế biến thủ công nên sức cạnh tranh trên thị trường yếu.
Về khả năng quản lý: khả năng quản lý của hộ nói chung còn nhiều hạn
chế. Việc quản lý và tổ chức sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm được tích
luỹ trong cuộc sống chứ vẫn chưa có một lớp, một chương trình nào đào tạo
một cách bài bản về quản lý cũng như cách sản xuất cho khoa học trong nông
nghiệp. Và trong kinh tế hộ thì chủ hộ thường thống nhất quản lý mọi yếu tố
từ nguyên vật liệu, sản xuất và tiêu thụ cho nên đôi khi nó không đảm bảo
được tính hiệu quả của việc quản lý.
Về nguồn vốn sản xuất: chủ yếu là vốn tự có với quy mô nhỏ. Đây là
nguồn vốn có được do tiết kiệm tích luỹ được; hoặc do vay mượn của bạn bè
người thân quen. Đến nay khi các chính sách tín dụng của ngân hàng ngày

càng quan tâm đến việc phát triển hộ cũng như ngày càng đơn giản hoá thủ
tục vay mượn, thì đã có nhiều hộ sản xuất với quy mô lớn và kế hoạch sản
xuất hợp lý đã dần tiếp cận được với vốn tín dụng ngân hàng.
Ngoài ra kinh tế hộ sản xuất kinh doanh có sự gắn bó chặtt chẽ đối với
đặc tính của sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn.Cụ thể như đối tượng
7
sản xuất của hộ chủ yếu thuộc lĩnh vực nông nghiệp, tính đa dạng, phức tạp về
chủng loại, thời gian sống của các loại cây - con đã quyết định tính đa dạng,
phức tạp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ. Vì vậy nó dẫn đến tính
thời vụ trong sản xuất, sử dụng vốn trong nông nghiệp. Do đó nó đòi hỏi tính
chuyên môn hoá phải kết hợp với đa dạng hoá trong nông nghiệp.
2. RỦI RO TRONG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG
2.1. Khái niệm rủi ro trong kinh doanh của ngân hàng
2.1.1. Rủi ro và sự tồn tại tất yếu trong nền kinh tế thị trường
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về rủi ro đựơc các nhà kinh tế học
đưa ra nhưng chúng đều thống nhất ở một nội dung là coi rủi ro là những bất
trắc xảy ra trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp gây nên
những thiệt hại cho doanh nghiệp.
Nghiên cứu rủi ro trong kinh doanh chúng ta thấy rằng, trong hoạt động
kinh doanh luôn chứa đựng những rủi ro và những rủi ro này có thể tác động
trực tiếp đến kết quả doanh lợi và là nguy cơ dẫn đến sự phá sản của các
doanh nghiệp bất cứ lúc nào. Nhưng không vì thế mà chúng ta hoảng sợ,
không dám kinh doanh, vì không chấp nhận rủi ro thì không thể có lợi nhuận
cao bởi lẽ mọi kế hoạch kinh doanh có khả năng thu lợi nhuận lớn thì luôn
tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhưng rủi ro quá lớn thì có thể đưa người kinh doanh
vào thế bị phá sản. Do vậy việc thừa nhận có rủi ro trong kinh doanh và tìm
kiếm nhiều phương pháp ngăn ngừa rủi ro là đòi hỏi xuất phát từ yêu cầu của
sự tồn tại và phát triển trong kinh doanh. Để đứng vững trên thương trường,
các doanh nghiệp không còn con đường nào khác là phải đương đầu với rủi ro
có thể xảy ra để tìm biện pháp phòng ngừa, hạn chế nhằm giảm tối đa thiệt hại

do rủi ro gây nên.
8
2.1.2. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Như chúng ta đã biết rủi ro luôn luôn tiềm ẩn trong các hoạt động của
đời sống xã hội nói chung và trong hoạt động kinh doanh nói riêng, trong đó
có hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Ngân hàng có hoạt động đặc thù
là huy động nguồn tiền nhàn rỗi từ công chúng để kinh doanh ( dưới hình thức
cho vay hoặc đầu tư vào các tài sản sinh lời…) và cung ứng các dịch vụ thanh
toán, vì vậy hoạt động ngân hàng luôn tiềm ẩn những rủi ro .
Rủi ro là khả năng dẫn đến những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu
do khách hàng không thực hiện đúng các nghĩa vụ của họ trong các giao dịch
với ngân hàng.
Xuất phát từ quan điểm và nhận thức trên, yêu cầu đặt ra cho chúng ta
là phải tìm cách giải bài toán khó khăn và phức tạp này mà mục tiêu là tối
thiểu hoá rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
2.2. Phân loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng
Một ngân hàng trong nền kinh tế thị trường phải đối mặt với nhiều loại
rủi ro. Nhưng trong bài viết này chúng ta nghiên cứu một số rủi ro mà các
ngân hàng thương mại đặc biệt quan tâm sau:
2.2.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro xảy ra khi mà khoản tiền cấp cho khách hàng
sử dụng mà ngân hàng không thu dược đầy đủ cả gốc và lãi khoản vay hoặc
việc thanh toán nợ gốc và lãi vay không đúng kỳ hạn và nội dung thoả thuận.
2.2.2. Rủi ro lãi suất
Trong hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng vừa đóng vai trò là
người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay. Để huy động được vốn, ngân
hàng phải trả một khoản chi phí gọi là lãi suất huy động vốn, và khi cho vay
sẽ thu phí gọi là lãi suất cho vay, như vậy lãi suất cũng là một loại giá cả.
Trong cơ chế thị trường giá cả luôn biến động theo quan hệ cung cầu, nên lãi
9

suất cũng biến đổi. Thiệt hại do rủi ro lãi suất gây ra làm chi phí cho nguồn
vốn lớn hơn chi phí sử dụng vốn, nếu tình trạng này kéo dài dẫn đến thua lỗ
trong hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Như vậy rủi ro lãi suất là những biến động do biến động lãi suất đối với
hoạt động tài chính ngân hàng. Rủi ro lãi suất bắt nguồn từ mối quan hệ qua
lại của tài sản có, tài sản nợ và các hợp đồng ngoại bảng. Cơ cấu tài sản có và
tài sản nợ sẽ quyết định tình thế rủi ro lãi suất của một ngân hàng . Tình thế
rủi ro lãi suất phụ thuộc vào mức độ mất cân đối về thời lượng giữa tài sản có
và tài sản nợ. Chẳng hạn ngân hàng dùng tài sản nợ ngắn hạn có lãi suất thay
đổi để đầu tư vào tài sản nợ dài hạn có lãi suất cố định, thì lãi suất ngắn hạn
tăng lên, chi phí ngân hàng sẽ tăng trong khi thu nhập ở tài sản dài hạn vẫn
giữ nguyên.
Ngoài ra lạm phát tăng cũng ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng do
lãi suất buộc phải điều chỉnh tăng lên.
Rủi ro lãi suất liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng còn xảy ra khi
ngân hàng ký hợp đồng cho khách hàng vay theo lãi suất cố định tại thời điểm
ký hợp đồng, song đến khi giải ngân cho vay thì lãi suất huy động vốn tăng
lên, nhưng ngân hàng không tăng được lãi suất cho vay. Hoặc ngân hàng ký
hợp đồng cho vay theo lãi suất thả nổi, khi đến kỳ hạn giải ngân vốn vay, lãi
suất thị trường giảm xuống nhưng chi phí bình quân lãi suất huy động vốn vẫn
ở mức cao. Rủi ro lãi suất còn được hiểu là do lãi suất thả nổi, đến kỳ giải
ngân lãi suất tăng cao, gây rủi ro trả nợ cho ngân hàng. Do đó trong quản trị
điều hành rủi ro tín dụng cần hết sức quan tâm đến rủi ro lãi suất.
2.2.3. Rủi ro hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền tính ra một đồng tiền khác.
Rủi ro hối đoái là do sự biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền. Trong nên
kinh tế thị trường, tỷ giá luôn biến động. Với biến đổi của tỷ giá hối đoái, bất
10
kỳ một khoản nợ nào dù thời hạn dài hay ngắn, đối với một đồng tiền nhất
định, đều có thể tạo ra cho ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tỷ giá hối đoái.

Rủi ro hối đoái liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng khi khách hàng vay
vốn ngoại tệ, bán đi lấy nội tệ, hoặc kinh doanh nhập khẩu nhưng không cân
đối được vốn ngoại tệ phải mua trên thị trường, đến khi trả nợ thì tỷ giả tăng
cao, gây rủi ro cho khách hàng và cho ngân hàng. Trường hợp rủi ro hối đoái
cũng liên quan trực tiếp đến tín dụng đối với ngân hàng khi không cân đối
được nguồn ngoại tệ để cho vay, ngân hàng thương mại luôn ở trong trạng
thái “ Trường” hay “ Đoản” về một loại tài sản ngoại tệ nào đó.
2.2.4. Rủi ro nguồn vốn
Rủi ro nguồn vốn thường xảy ra dưới hai hình thức:
- Rủi ro do ứ đọng vốn: Tức là nguồn vốn huy động của ngân hàng bị ứ
đọng không cho vay được, cũng như không thể chuyển sang được các loại tài
sản sinh lời khác.
Như chúng ta đã biết một trong các hoạt động của ngân hàng thương
mại là “ đi vay để cho vay” nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nếu số tiền huy động
ngân hàng không sử dụng hết ( tức lượng tiền dự trữ vượt mức cần thiết mà
không sinh lời ) thì đến kỳ hạn ngân hàng vẫn phải trả lãi cho số vốn huy
động, các chi phí nghiệp vụ và chi phí quản lý. Điều này dẫn đến thua lỗ trong
kinh doanh ngân hàng không khắc phục có thể dẫn đến đóng cửa ngân hàng.
- Rủi ro do thiếu vốn: Do việc chuyển hoán các kỳ hạn sử dụng vốn và
nguồn vốn không nhịp nhàng dẫn đến ngân hàng không đủ khả năng đáp ứng
nhu cầu thanh toán của khách hàng, nếu ngân hàng không có biện pháp kịp
thời để đảm bảo khả năng thanh toán mà không có cách giải quyết kịp thời để
đảm bảo khả năng thanh toán thì rất dễ dẫn đến rủi ro thanh toán và ngân hàng
dễ phá sản.
11
2.2.5. Rủi ro thanh khoản
Trong nền kinh tế thị trường các NHTM luôn phải duy trì một mức dự
trữ nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán hiện tại, đột xuất nảy sinh trong
tương lai. Khi ngân hàng không đảm bảo khả năng thanh toán mà không có
cách giải quyết kịp thời dễ dẫn đến hiệu ứng dây chuyền trong việc rút tiền và

làm cho ngân hàng có thể phá sản.
3. RỦI RO TÍN DỤNG VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA RỦI RO TÍN DỤNG
3.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường hệ thống ngân hàng được ví như hệ thống
thần kinh của nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt,
lành mạnh và hiệu quả là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân
bổ và sử dụng hiệu quả…, kích thích tăng trưởng kinh tế một cách bền vững.
Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, thì rủi ro trong kinh doanh là không
thể tránh khỏi, mà đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng rất
nhạy cảm nó có phản ứng dây truyền, lây lan và ngày càng có biểu hiện phức
tạp. Sự sụp đổ của ngân hàng có ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ đời sống –
kinh tế – xã hội của một quốc gia và có thể lan rộng sang quy mô quốc tế.
Đối với ngân hàng, cung ứng tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản,
thường mang lại thu nhập chính cho ngân hàng cũng không nằm ngoài quy
luật trên và nó luôn chứa đựng những rủi ro. Vậy rủi ro tín dụng là gì? Ta có
thể hiểu rõ rủi ro tín dụng như sau:
Rủi ro tín dụng là: Khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín
dụng cho khách hàng . Cụ thể hơn, rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng
không trả được đúng nợ với ngân hàng xét trên cả hai khía cạnh: số lượng và
thời gian. Do đó, rủi ro tín dụng có thể phân thành:
12
- Rủi ro mất vốn: Khi khách hàng không hoàn trả một phần hoặc toàn
bộ khoản tín dụng ( Xét trên khía cạnh số lượng ). Từ đó làm giảm vốn tự có
của NHTM dẫn đến giảm sức mạnh tài chính của ngân hàng ( Mất vốn chỉ có
thể khấu trừ vào vốn tự có của ngân hàng ).
- Rủi ro vốn bị ứ đọng: Khi khách hàng không có khả năng hoàn trả
đúng hạn làm cho các khoản cho vay của ngân hàng bị bất động hoá. (xét trên
khía cạnh thời gian). Từ đó gây ra những chi phí cơ hội cho ngân hàng. Phần
nguồn vốn đã huy động để cho khách hàng vay cần phải trả lãi ( trả lãi tiền
gửi, trả lãi cho các giấy tờ có giá, trả lãi các khoản vay, trả cổ tức cho cổ

đông…) nhưng lại không tạo được nguồn thu tương ứng.
Rủi ro tín dụng là nguyên chủ yếu dẫn tới việc các ngân hàng bị phá
sản. Rủi ro tín dụng luôn tồn tại với hoạt động tín dụng, chúng ta không thể
giảm nó xuống bằng không mà chúng ta phải chấp nhận sự tồn tại của nó.
Nhưng không có nghĩa rằng chúng ta không quan tâm đến rủi ro, mà chúng ta
cần có biện pháp để phòng ngừa hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro tín dụng có
thể xảy ra.
Hạn chế rủi ro tín dụng là tổng thể các biện pháp nhằm giảm thiểu
những thiệt hại cho ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Các biện pháp này sẽ
được trình bày rõ hơn ở phần sau.
3.2. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
* Đối với ngân hàng
- Tăng chi phí, giảm lợi nhuận trong hoạt động ngân hàng:
Trong hoạt động ngân hàng chi phí là một yếu tố quan trọng để thực
hiện các nghiệp vụ. Thông thường chi phí cho các hoạt động ngân hàng bao
gồm: chi phí trả lãi cho khách hàng gửi tiền, chi phí mua sắm phương tiện,
thiết bị phục vụ hoạt động của ngân hàng, điện sáng, điện thoại… Khi rủi ro
tín dụng xảy ra để bù đắp được những khoản tín dụng gặp rủi ro đòi hỏi ngân
13
hàng phải tăng lãi suất cho vay, dẫn đến có ít khách hàng vay vôn hơn và làm
giảm lợi nhuận trong kinh doanh của ngân hàng.
Khi rủi ro xảy ra ngân hàng không thu được số vốn như dự kiến do vậy
không quay vòng được vốn, mất cơ hội đầu tư các dự án khả thi, làm giảm lợi
nhuận của ngân hàng.
- Giảm khả năng thanh toán của ngân hàng:
Rủi ro tín dụng xảy ra, làm cho ngân hàng không thu hồi được gốc lãi số
vốn đã cho vay, do vậy làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng. Nếu tình
trạng này kéo dài có thể làm ngân hàng mất khả năng thanh toán và phá sản.
- Suy giảm uy tín của ngân hàng:
Rủi ro tín dụng xảy ra phản ánh hiệu quả kinh doanh, quản lý của ngân

hàng kém, lòng tin của khách hàng với ngân hàng giảm, chính là giảm uy tín
của ngân hàng trên thị trường. Nó tác động mạnh nhất tới nghiệp vụ huy động
vốn của ngân hàng làm giảm quy mô hoạt động của ngân hàng. Uy tín ngân
hàng giảm cũng làm giảm lòng tin đối với các tổ chức tài chính tiền tệ trên thế
giới. Do vậy ngân hàng khó khăn trong việc quan hệ vay vốn, thiết lập quan
hệ đại lý với các tổ chức đó
* Đối với hộ sản xuất
- Tín dụng ngân hàng góp phần tác động đến các đơn vị sử dụng nguồn
vốn vay của ngân hàng có hiệu quả. Nguồn vốn từ tín dụng ngân hàng là một
nguồn tài chính giúp các hộ kinh doanh có đủ vốn để phát triển sản xuất, đổi
mới công nghệ, thúc đẩy sản xuất hàng hoá. Ngoài ra còn góp phần thúc đẩy
quá trình tập trung vốn và ổn định sản xuất, phục hồi và phát triển các làng
nghề truyền thống. Đối với các hộ thiếu vốn đầu tư thì một trong những cách
huy động vốn nhanh nhất là vay của ngân hàng.
Do đó rủi ro tín dụng tại các ngân hàng sẽ làm cho hộ ít có cơ hội vay
vốn, rất có thể nhiều phương án kinh doanh khả thi sẽ bị bỏ qua- Rủi ro tín
14
dụng xảy ra nhiều sẽ làm niềm tin giữa các hộ và ngân hàng bị suy giảm, làm
cho quan hệ tín dụng căng thẳng, thủ tục vay vốn ngày càng chặt chẽ, là rào
cản đối với các hộ làm ăn chính đáng.
* Đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình tập trung và điều hoà nguồn vốn
giữa các chủ thể trong nền kinh tế, tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hoá và
chu chuyển tiền tệ. Nhờ đó mà thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh.
Tín dụng ngân hàng là công cụ chủ yếu để tài trợ, đầu tư cho các
nghành kinh tế then chốt và các ngành các vùng kinh tế kém phát triển. Thông
qua hệ thống ngân hàng, luồng tiền được chuyển từ những nơi nguồn vốn
nhàn rổi sang những nơi cần vốn đầu tư, thức đẩy sự phát triển cân đối giữa
các vùng, miền…
Nhờ có tín dụng ngân hàng trên cơ sở cho vay mở rộng sản xuất, phát

triển ngành nghề, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, góp phần thực
hiện mục tiêu chính sách xã hội của nhà nước. Đây là một nhiệm vụ khó khăn
và quan trọng đối với mọi Nhà nước. Các ngân hàng đã đóng một vai trò quan
trọng trong việc kết hợp với chính phủ giải quýêt nhiệm vụ này.
Do vậy rủi ro tín dụng xảy ra trên phạm vi rộng cũng tạo ra rủi ro cho
nền kinh tế, nền kinh tế không có mức tăng trưởng cao hoặc sự phát triển
kinh tế không đồng điều giữa các vùng, miền và cũng không thể giúp Nhà
nước thực hiện các mục tiêu chính sách xã hội.
15
4. NGUYÊN NHÂN GÂY RA RỦI RO TÍN DỤNG TRONG NGÂN
HÀNG
4.1. Nguyên nhân khách quan
4.1.1.Nguyên nhân do chính sách của Nhà nước: Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý cùng với các chính sách của nhà nước nhiều khi
dẫn đến những rủi ro tín dụng. Có thể thấy rất rõ điều này thông qua xem xét
những khúc mắc trong hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam:
- Sự chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ;
- Quyết định thường xuyên thay đổi trong thời gian ngắn ( ảnh hưởng
trực tiếp đến doanh nghiệp vay vốn)
4.1.2.Môi trường kinh tế
Yếu tố điển hình được đề cập là chu kỳ kinh tế. Rủi ro tín dụng thường
xảy ra khi nền kinh tế suy thoái. Ví dụ, khi nền kinh tế suy thoái, các ngân
hàng đặc biệt gặp nguy hiểm với các khoản cho vay các doanh nghiệp sản
xuất hàng hoá tiêu dùng cao cấp có độ bền cao như ôtô, tủ lạnh,…, các khoản
cho vay bất động sản… Lý do đơn giản bởi thời kỳ này, người tiêu dùng
thường cắt giảm các khoản chi tiêu thiết yếu như thực phẩm. Nền kinh tế Nhật
Bản cùng với các ngân hàng của nước này lại là một minh chứng cho sự ảnh
hưởng của chu kỳ kinh tế đối với hoạt động ngân hàng.
4.1.3. Thông tin không cân xứng, Rủi ro đạo đức, nguyên nhân bất
khả kháng

- Thông tin không cân xứng: Quan hệ tín dụng giữa khách hàng là quan
hệ kinh tế, vì vậy phát sinh nhu cầu trao đổi và thu thập thông tin giữa các
bên. Tuy nhiên trong thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau xảy ra tình
trạng thông tin không cân xứng. Ngân hàng thường không có đầy đủ thông tin
về khách hàng như: quan hệ bạn hàng, kế hoạch sản xuất kinh doanh, quan hệ
thanh toán, tình hình tài chính, tiêu thụ sản phẩm…
16
Khách hàng không có đầy đủ thông tin về ngân hàng: quy mô, các dịch
vụ đáp ứng, phương thức tài trợ phù hợp, giá cả thực tế…
Việc thiếu thông tin trong các giao dịch này sẽ đưa đến lựa chọn đối
nghịch và rủi ro đạo đức. Do thông tin không cân xứng do vậy thay vì sự lựa
chọn những khách hàng có khả năng trả nợ cho ngân hàng thấp, gây rủi ro cho
ngân hàng.
- Còn đối với rủi ro đạo đức, người vay sau khi nhận được khoản tiền
vay thực hiện những hoạt động trái với cam kết đưa đến khó có thể hoàn trả
vốn vay, gây rủi ro cho ngân hàng.
- Nguyên nhân bất khả kháng: ở đây có thể kể đến những thiên tai, hoả
hoạn, người vay đột tử… nó có thể tác động trực tiếp tới hoạt động kinh
doanh và hiệu quả kinh doanh của khách hàng, làm cho hoạt động kinh doanh
khách hàng giảm sút, gặp khó khăn. Từ nguyên nhân đó dẫn đến khả năng trả
nợ cho ngân hàng sẽ giảm và có thể dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Việc ứng dụng những thành tựu công nghệ đã đem lại nhiều thành công
cho Ngân hàng, trong đó bao gồm cả hoạt động cho vay.
Phát hành thẻ tín dụng, cấp các khoản tín dụng thông qua máy cho vay
tự động, sử dụng những phần mềm quản lý khách hàng (MIS), cho phép
khách hàng được nối mạng với máy tính Ngân hàng để ra lệnh mở thư tín
dụng …thực sự đã góp phần tạo ra một diện mạo mới trong hoạt động cho vay
của các Ngân hàng. Tuy nhiên nhiều rủi ro tín dụng cũng phát sinh từ đây:
- Rủi ro cạnh tranh: Khi một công nghệ dịch vụ tài chính ra đời, các
công ty phi tài chính có thể mua nó dễ dàng. Sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các

đối thủ mới này góp phần khiến Ngân hàng dường như vội vã hơn trong các
hoạt động cho vay. Điều này đặc biệt nghiêm trọng khi Ngân hàng tăng cường
cho vay tiêu dùng trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng để rồi không thu hồi được
nợ khi kinh tế suy thoái. Nhật Bản là chứng minh cho rủi ro này;
17
- Việc phát triển của các máy cho vay tự động ( thông qua hệ thống
chấm điểm tín dụng tự động ) làm thay đổi quy trình một cách tích cực. Tuy
nhiên những thông tin từ phía người vay rất có thể không chính xác mà hệ
thống máy móc không thể nhận ra được. Ví dụ: người vay có thể bị giảm sút
trong thu nhập mà hệ thống thông tin của Ngân hàng chưa cập nhật được. Để
có được khoản vay, người vay sẽ che giấu thông tin trên, và hệ thống máy tính
của Ngân hàng thông qua việc chấm điểm tín dụng và trên cơ sở chiết xuất
thông tin từ (MIS) sẽ chấp nhận đơn xin vay trên mà không hề biết rằng rủi ro
tín dụng đang chờ đợi Ngân hàng;
- Sự bùng nổ thẻ tín dụng cũng làm tăng rủi ro tín dụng. Điều này lý
giải vì sao cho vay tiêu dùng ngày càng là một loại hình cấp tín dụng vô cùng
rủi ro.
4.2. Nguyên nhân từ phía người vay
Khách hàng của NHTM có thể chia thành 4 loại: Cá nhân, hộ sản xuất
và doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác và chính phủ. Với mỗi loai khách
hàng này, do có những đặc tính khác nhau nên việc tạo ra rủi ro tín dụng từ họ
cũng khác nhau. Sau đây chúng ta chỉ xem xét hai đối tượng phổ biến nhất của
Ngân hàng đó là cá nhân và doanh nghiệp.
4.2.1. Khách hàng là cá nhân
- Người vay bị thất nghiệp nên không đảm bảo được mức thu nhập như
đã dự kiến ban đầu.
- Người vay gặp những sự cố bất thường trong cuộc sống cũng là một
nguyên nhân gây rủi ro tín dụng cho Ngân hàng.
- Do người vay hoạch định ngân quỹ không chính xác, không dự tính
hết được các khoản chi tiêu dẫn đến xác định sai thu nhập có thể sử dụng để

trả nợ Ngân hàng.
18
4.2.2. Khách hàng là các hộ sản xuất, doanh nghiệp
a. Rủi ro phi tài chính: Phản ánh mục đích sử dụng vốn và việc khách
hàng có thiện chí trong việc vay trả nợ Ngân hàng cũng như những biến động
bất ngờ ảnh hưởng đến hoạt động bất ngờ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh:
- Rủi ro đạo đức: khách hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích;
- Khách hàng có “tính ăn cắp tại tâm” cũng gây thiệt hại đáng kể cho
Ngân hàng. Nhiều vụ lừa đảo, lập hồ sơ giả, dự án giả để vay vốn Ngân hàng
đã, đang và sẽ còn diễn ra.
- Do những thay đổi bất ngờ, ngoài ý muốn của các điều kiện sản xuất
kinh doanh, chẳng hạn như biến động về giá cả, thị hiếu,…từ các thị trường
cung cấp và thị trường tiêu thụ.
b. Rủi ro tài chính: phản ánh khả năng thực hiện các nghĩa vụ trả nợ
gốc và lãi vay cho chủ nợ.
Các hộ sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng nhiều của điều kiện tự nhiên,
vì vậy khi gặp những biến động xấu về tự nhiên, thời tiết thì dễ bị thiệt hại. Các
hộ còn sản xuất kinh doanh trên cơ sở kinh nghiệm là chính. Vì thế còn gặp
nhiều rủi ro trong kinh doanh và nó biểu hiện cụ thể ở các khía cạnh sau:
- Khách hàng trong việc tận dụng các nguồn lực để tạo ra doanh thu
yếu;
- Khả năng tiêu thụ sản phẩm suy giảm;
- Khả năng trang trải các chi phí tài chính có thể biểu hiện xấu;
- Khả năng thanh toán của khách hàng có vấn đề;
- Tình hình biến động về khả năng sinh lợi về thu nhập theo thời gian
có chiều hướng suy giảm;
19
- Quy mô nợ đòn bẩy (nợ so với vốn cổ phần) không hợp lý, doanh
nghiệp sử dụng vốn vay quá nhiều để tài trợ cho hoạt động kinh doanh thì rủi

ro tài chính sẽ tăng lên.
- Khách hàng phải đối mặt với những khoản trả bất thường làm gia tăng
nhu cầu thanh toán tiềm năng trong tương lai.
Tất cả 8 yếu tố trên, cán bộ tín dụng có thể đánh giá thông qua việc
phân tích, tìm hiểu phương án kinh doanh của hộ.
4.3. Nguyên nhân do bản thân Ngân hàng
- Chính sách tín dụng không hợp lý. Ngoài ra, trong thể lệ cho vay có
những sơ hở để khách hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn của Ngân hàng.
- Cán bộ Ngân hàng không chấp hành đúng quy trình cho vay, quyết
định cho vay thiếu thông tin sát thực.
- Thiếu sự giám sát tín dụng – một phần vì thiếu kiến thức về hoạt động
của người vay.
- Sự cạnh tranh (Ngân hàng mong muốn có tỷ trọng cho vay nhiều hơn
các Ngân hàng cạnh tranh. Điều này có thể dẫn đến cho vay quá mức, tức là
cho vay quá khả năng có thể chi trả của người vay)
- Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh, như thông đồng với
khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn rồi vay ké, xâm tiêu khi giải ngân hay
khi thu nợ.
4.4. Nguyên nhân từ các bảo đảm tín dụng
4.4.1. Trường hợp có bảo đảm bằng tài sản
- Có 3 yêu cầu đối với các bảo đảm tài sản là: Dễ định giá; dễ cho Ngân
hàng quyền được sở hữu hợp pháp; dễ tiêu thụ hay thuận tiện.
- Với các Ngân hàng nói chung dù cho vay có tài sản bảo đảm nhưng
vẫn có rủi ro. Chẳng hạn một ngôi nhà được đưa ra thế chấp nhiều khi không
thể thoả mãn được các yêu cầu trên.
20
- Ở Việt Nam còn có rủi ro là Ngân hàng gặp khó khăn trong việc tiếp
cận, nắm giữ các tài sản bảo đảm để xử lý chúng.
4.4.2. Trường hợp bảo đảm đối nhân (bảo lãnh)
Bảo lãnh là sự bảo đảm gián tiếp có 3 bên tham gia, trong đó bên thứ

ba, tức là bên bảo lãnh, đồng ý chịu trách nhiệm về khoản nợ cho bên thứ hai
là khách hàng của Ngân hàng nếu người này không trả được nợ cho bên thứ
nhất là Ngân hàng. Vấn đề chủ yếu của người bảo lãnh là dù Ngân hàng có cố
gắng giải thích về trách nhiệm trả nợ tiềm tàng đến đâu,người bảo lãnh không
bao giờ chờ đợi là sẽ được gọi để trả tiền. Nếu việc đó xảy ra thì có thể quan
hệ giữa người bảo lãnh và Ngân hàng sẽ trở nên căng thẳng; có thể khó thuyết
phục họ trả tiền nếu không kiện họ ra toà, mà việc này Ngân hàng chỉ tiến
hành khi không còn cách nào khác.
5. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN
DỤNG
5.1.Xây dựng chính sách tín dụng hiệu quả
Chính sách tín dụng của NHTM là một hệ thống các biện pháp nhằm
mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay của một NHTM, nhằm các mục tiêu
chủ yếu là lợi nhuận cao, sự an toàn và lành mạnh. Đây là cơ sở quản lý cho
vay, đảm bảo hiệu quả vốn tín dụng, chính sách cho vay cần quy định cụ thể
trong việc xem xét các loại khách hàng có thể cho vay, tiêu chuẩn Ngân hàng
có thể cho vay.
Nếu một Ngân hàng quá quan tâm đến chính sách tăng trưởng tín dụng
thì rủi ro tín dụng sẽ cao vì khi đó mục tiêu tăng trưởng tín dụng sẽ nới lỏng
điều kiện vay vốn, việc lựa chọn khách hàng không chặt chẽ. Ngược lại với
chính sách tín dụng thắt chặt thì việc lựa chọn khách hàng sẽ khắt khe và chỉ
cho vay các khoản tín dụng an toàn, đảm bảo chắc chắn.
21
Thông qua chính sách tín dụng, các Ngân hàng cũng định hướng cho
mình lĩnh vực khuyến khích cho vay và lĩnh vực hạn chế cho vay, đồng thời
xây dựng cơ cấu dư nợ một cách hợp lý để phát triển bền vững.
5.2.Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng
Các Ngân hàng cần bố trí, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm
định có năng lực, trình độ, am hiểu về kiến thức kỹ thuật – kinh tế –xã hội, có
khả năng tổng hợp, phân tích, đánh giá được thông tin để đưa ra các quyết

định tín dụng đúng đắn.
Bên cạnh việc thẩm định cán bộ làm công tác thẩm định cũng cần tham
gia tìm hiểu và tư vấn cho khách hàng đang hoạt động.
5.3.Nâng cao chất lượng giám sát tín dụng và xếp loại khách hàng
Giám sát tín dụng trong đó là một quá trình thu thập, xử lý những thông
tin tài chính cũng như phi tài chính của khách hàng và đưa ra các giải
pháp(nếu cần).
Đối với cán bộ tín dụng, những thông tin tài chính nói chung dễ tiếp cận
hơn ( qua các báo cáo tài chính, qua diễn biến thị trường – thị trường cổ phiếu,
thị trường đầu vào, dầu ra của doanh nghiệp, qua các phương tiện thông tin
đại chúng…). Tuy nhiên, vấn đề sẽ được nhấn mạnh ở đây là giám sát tín
dụng thông qua thu thập các thông tin phi tài chính.
Việc cán bộ tín dụng đi khảo sát, nghiên cứu tại cơ sở của người vay sẽ
giúp ích rất nhiều trong việc thu thập thông tin có tính chất định tính về khách
hàng, không thể hiện được những cơ số cụ thể nhưng lại giúp hình dung khá
rõ ràng về tình trạng hiện thời của khách hàng. Có những mẹo nhỏ tưởng
chừng đơn giản, nhưng hiệu quả mang lại rất lớn, nếu cán bộ tín dụng có khả
năng và óc phân tích tốt, chẳng hạn:
22
- Quan sát tình hình hoạt động ở kho bãi, văn phòng: mọi người có vẻ
vội vã hay không? Nhà kho có lộn xộn không? Các loại hàng hoá có bị phủ
bụi như thể nằm trên giá hàng năm trời không?…
- Chú ý chỗ làm việc của nhân viên kế toán: Có gì chứng tỏ nhân viên
kế toán ở đay được kiểm soát chặt chẽ không?; phương tiện làm việc của họ là
gì, máy tính hay một đống giấy tờ?
- Quan sát thật kỹ văn phòng của người chủ doanh nghiệp, ông chủ có
quan tâm đến mọi sự vụ trong doanh nghiệp, từ việc đặt hàng với người cung
ứng tới việc xuất kho bán ra cho khách hàng hay không? Thái độ của nhân
viên ra vào văn phòng thoải mái, kính cẩn hay sợ sệt? Hồ sơ tài liệu xếp trong
tủ kính có khoá, chất đống lên bàn làm việc hay được bố trí ngăn nắp trong

tầm với?
- Tiếp xúc với cả những cán bộ thuộc lớp lãnh đạo kế cận: Đánh giá
xem khả năng kế thừa trong quản trị điều hành doanh nghiệp như thế nào? vì
một nhà lãnh đạo giỏi có thể ốm đau, về hưu nên không thể tiếp tục đảm
nhiệm vai trò lãnh đạo doanh nghiệp nữa, trong khi ngân hàng đang muốn xây
dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài.
- Rất nhiều cán bộ tín dụng chỉ đến thăm qua loa nơi làm việc của
khách hàng và do vậy, đã bỏ qua những cơ hội ngàn vàng để nắm bắt những
thông tin về doanh nghiệp mà hoàn toàn không thể tìm thấy trong các báo cáo
tài chính và nghiên cứu thị trường, từ những thông tin này có thể đánh giá tư
cách người vay; khả năng lãnh đạo tình hình kinh doanh hiện tại cũng như
tương lai phát triển của doanh nghiệp.
Sau khi thu thập được các thông tin về khách hàng thì bước tiếp theo là
phải sử lý chúng. Với vác thông tin thu thập được cán bộ tín dụng sẽ phân tích
rõ điểm mạnh và yếu hiện tại của doanh nghiệp. Từ đó có thể tư vấn hoặc có
23
những biện pháp cần thiết để giảm thiểu rủi ro tín dụng nếu nó có nguy cơ
xuất hiện và có thể gây thiệt hại cho ngân hàng.
Xếp hạng khách hàng: Thông qua tiêu thức xếp loại khách hàng, ngân
hàng có chính sách tín dụng thích hợp. Đối với những khách hàng xếp loại
cao, có uy tín ngân hàng sẽ có chính sách tín dụng ưu đãi ( lãi suất, tài sản bảo
đảm,…) ngược lại loại khách hàng xếp loại thấp ngân hàng cần thắt chặt các
điều kiện tín dụng.
5.4. Xây dựng và sử dụng hiệu quả quỹ dự phòng rủi ro tín dụng
Trích lập quỹ dự phòng rủi ro được coi là một trong những biện pháp
quan trọng để hạn chế rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng. Do rủi ro là điều tất yếu
xảy ra trong kinh doanh của các NHTM, các NHTM không thể giảm nó xuống
bằng không, do vậy để giảm bớt tổn thất khi rủi ro xảy ra các NHTM cần trích
lập một quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Việc sử dụng các quỹ
đó như sau:

- Quỹ dự phòng rủi ro đặc biệt: Dùng để bù đắp các khoản rủi ro khi
ngân hàng làm ăn thua lỗ do những nguyên nhân khách quan mang lại.
- Quỹ dự phòng tổn thất tín dụng: Dùng để bù đắp các khoản tổn thất
tín dụng do khách hàng gây nên.
5.5. Giải pháp phân tán rủi ro
“ Không được đặt quá nhiều trứng vào một rổ” là câu châm ngôn luôn
được nhắc đến trong hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động cho vay nói
riêng. Cụ thể phương châm cho vay của ngân hàng sẽ bao gồm:
- Không nên tập trung cho vay một lĩnh vực;
- NHTM không nên dồn vốn đầu tư vào một hoặc vài khách hàng;
- Cho vay hợp vốn;
- Đa dạng hoá danh mục tài sản sinh lời.
24
5.6. Áp dụng các công cụ phái sinh trong phòng ngừa và hạn chế
rủi ro tín dụng
Trong phần trước chúng ta đã chứng minh rằng bằng việc đa dạng hoá
hoạt động cho vay, ngân hàng có thể giảm thiểu phần lớn rủi ro cá biệt của
danh mục cho vay. Tuy nhiên loại rủi ro hệ thống, ví dụ như chu kỳ kinh tế,
lạm phát… thì không thể phân tán được vì chúng ảnh hưởng đến danh mục
cho vay của ngân hàng. Khi nền kinh tế đi vào suy thoái, nhiều khoản cho vay
rơi vào tình trạng không trả được nợ, ngược lại, trong thời kỳ tăng trưởng,
kinh doanh tăng trưởng sản xuất và phần lớn các khoản nợ được thanh toán
đầy đủ. Từ những lý do trên, các ngân hàng hiện đại thường sử dụng các hợp
đồng tương lai và quyền chọn để phòng ngừa các rủi ro mang tính hệ thống
trên.
25

×