Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

HÌNH TƯỢNG CON LỢN TRONG TRANH TẾT DÂN GIAN ĐÔNG HỒ pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.5 KB, 8 trang )





HÌNH TƯỢNG CON LỢN TRONG TRANH TẾT
DÂN GIAN ĐÔNG HỒ



Tranh Dân gian từ xưa sáng tạo và được bán trong những ngày giáp tết, dân chúng
mua về treo, dán trong nhà đón Tết năm mới, vì vậy còn được gọi là tranh Tết.
Mỗi dòng tranh Dân gian ngoài điểm chung giống nhau, lại có những điểm khác
nhau. Sự khác nhau đó chính là tô đậm sự phong phú kho tàng Nghệ thuật Tranh
Dân gian Truyền thống (có khởi điểm từ cuối thế kỷ XVI) - cách ngày nay ngót
năm trăm năm lịch sử.
Các dòng Tranh Dân gian như: Tranh thờ làng Sình (Lại Ân - Huế), Tranh Kim
Hoàng : (Kim Bảng - Hoàng Bảng xứ Đoài - Hà Tây) ván gỗ khắc, chủ yếu là bản
nét đen giữ hình, in trên giấy hồng điều; màu sử dụng chủ yếu là màu bột pha keo
và tô vẽ thêm bằng tay. Dòng Tranh Hàng Trống: ván khắc cũng chỉ làm bản khắc
nét đen, in trên giấy trắng, rồi kết hợp dùng màu nước, màu phẩm để tô vờn, vẽ
thêm bằng tay. Dòng tranh Dân gian Đông Hồ kinh Bắc có những nét độc đáo và
có khác là: ngoài bản nét đen chủ đạo, còn được khắc các bản gỗ in màu (Tức là
tranh mẫu có bao nhiêu màu thì có bấy nhiêu bản gỗ khắc in màu đi cùng). Đặc
biệt là màu sử dụng in tranh chỉ dùng các loại màu chế từ các sản vật có trong tự
nhiên. Các màu chính (còn gọi là màu thuốc cái) như: Đen: (Than lá Tre già, qua
công đoạn đốt, ngâm, xay nhuyễn và lọc); Vàng: chế từ hoa Hoè; Xanh: chế từ lá
Tràm; Đỏ: chế từ hoa Hiên; Nâu đỏ: chế từ son đá mềm được mài; giã nhỏ và dây
kỹ và ngâm nhiễn; Trắng: chế từ vỏ Sò, vỏ Điệp được làm ải, xay nhỏ và ủ ) chổi
quét điệp bằng bó lá thông, hồ Nếp làm chất kết dính Tranh Dân gian Đông Hồ
không dùng tay vẽ thêm như các dòng tranh khác, mà đều thông qua chất liệu gỗ
(khắc và in) cùng với chất liệu màu chế từ sản vật tự nhiên, đã cho một cảm mỹ tạo


hình, về vẻ đẹp của chất liệu, độc đáo của dòng tranh này.
Tranh Dân gian Đông Hồ xưa kia có những đề tài gần như riêng về chủng loại (về
sau các dòng tranh có giao thoa với nhau, nên có mở rộng thêm). Các loại như: Đề
tài Lịch sử: thường gắn với các nhân vật như các tranh: Hai bà Trưng, Bà Triệu,
Đinh Tiên Hoàng cờ lau tập trận, Trần Hưng Đạo chiến thắng quân Nguyên Đề
tài sinh hoạt như các tranh: Đấu vật, Đánh đu, Hội làng, Hứng dừa, Đánh ghen,
Chăn trâu -thổi sáo, Chăn trâu - thả diều Các tích văn học, hoặc dân gian: Kiều,
Thạch Sanh, hoặc 4 tố nữ với Cầm, Kỳ, Thi, Hoạ Đặc biệt nổi bật là tranh các
con vật như: các tranh Lợn: Lợn đàn, Lợn độc, Lợn ăn cây dáy. Các Tranh Gà: Gà
đàn, Gà -Đại cát, Gà -Thư hùng, Gà trống - nghinh xuân. Tranh các con vật khác
như: Vịt, Trâu, Mèo, Rồng - Rước Rồng, Hổ - Ngũ Hổ, Chuột, Cá, Cóc. Đề tài tứ
quý: Mai - Hạc (mùa Xuân), Phù dung - Chim Trĩ (mùa Hạ), Ngô Đồng - Chim
Phượng (mùa Thu), Tùng - Chim Công (mùa Đông). Con vật khi là đề tài riêng,
hoặc khi được nghệ nhân sáng tạo em bé với gia cầm như bức Vinh hoa, Phúc Lộc
song toàn với (em bé ôm gà trống), (em bé ôm rùa), (em bé ôm cá); Hoặc đưa con
vật vào tranh với lối ẩn dụ nhằm phản ánh nội dung xã hội con người như các
tranh: Đám cưới chuột, Thày đồ Cóc
Con Lợn gắn bó bao đời với con người. Con Lợn có truyền thuyết xa xưa, gắn với
Lịch pháp, sử dụng thời khắc: năm, tháng, ngày, giờ vận vào con người (khi chào
đời là giờ sinh). Trong 12 sinh tiêu, được tượng trưng bởi 12 con vật (còn gọi là 12
con giáp: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) và với sự
hành âm hoặc dương kết hợp của từng mỗi con vật đó để phân tích cá tính, tiên
đoán vận mạng của mỗi con người, đã được tích hợp kinh nghiệm từ ngàn xưa tổng
kết lại. Con Lợn gọi là Hợi, trong 12 con giáp nó được xếp ở vị trí cuối cùng.
Làng có nghề làm tranh, con Lợn vào tranh dân gian Đông Hồ, gọi là Tranh Lợn.
Ngày tết mua tranh dân gian: Tranh Lợn, Tranh Gà về treo cùng là thưởng thức
cái đẹp tạo hình, còn biểu hiện ước muốn năm mới tăng gia sản xuất được sung
túc, đời sống no đủ. Tranh lợn đã đi vào đời sống thẩm mỹ dân gian tự bao đời.
Về Đông Hồ tìm hiểu nghệ thuật tranh lợn, thấy số lượng ván khắc mẫu tranh lợn
chỉ đếm trên đầu ngón tay. Ngày nay ta còn thấy có ba loại bản khắc tranh mẫu để

in ra các Tranh Lợn bán trong dịp Tết, đó là:
1. Tranh Lợn đàn (thể hiện Lợn mẹ và đàn con vây bên cạnh).
2. Tranh Lợn độc (thể hiện một con Lợn đang ăn bên bồn).
3. Tranh Lợn ăn cây Dáy (thể hiện con Lợn đang ngoạm nhai cây Dáy)
Nghệ thuật Tranh Lợn dân gian Đông Hồ: Với cả ba loại tranh mẫu (khắc-in) về
tranh Lợn đều có phong cách nhất quán, hoà đồng và nổi bật trong dòng tranh dân
gian Đông Hồ. Đặc điểm chung của các con Lợn trong tranh dân gian Đông Hồ
đều là: hình tượng Lợn béo, thể hiện theo dáng trông nghiêng. Nghệ nhân sáng tác
theo chiều này nhằm bộc lộ toàn bộ hình - dáng béo tốt của con Lợn. Trên thân
mình Lợn đều có hai xoáy Âm - Dương. Hai xoáy âm - dương này nằm phía trên
ngang mình Lợn, vị trí (gần vai và mông) phía trên của 2 chân (trước và sau), thu
hút sự chuyển động, làm cho ta càng có cảm giác như thấy con Lợn có dáng sinh
động. Nó vừa là cái đẹp hữu hình, vừa là ẩn chứa quan niệm về ngũ hành.
Các con Lợn đều là béo tốt: Mặt Lợn to, tai lớn. Mắt có vành mi. Mõm Lợn
nghiêng, nhưng Mũi lại gần như quay ra hướng chính diện, tạo dáng ngồ ngộ và
động. Ngấn mõm đều có 3 ngấn, và không quên hai ngấn mép của con Lợn như
đang ăn ngấu nghiến. Bàn chân Lợn có 3 móng, trông rất vững chân đế. Lưng Lợn
với độ cong hơi võng, được thể hiện bằng một hoặc hai nét to bản. Nét của ngấn
thủ (phần đầu lợn) với chân trước, vòng bụng và nét ngấn của bắp đùi sau là nét to
dầy nối vào nét cong lượn của bụng Lợn. Hình dáng và đường nét to dầy đã tạo
nên con lợn có dáng béo, khoẻ, vũng chãi, thể hiện ý tưởng ước muốn về phồn
thịnh của tăng gia sản xuất, đời sống ấm no, hạnh phúc thanh bình. Riêng đuôi Lợn
có những thay đổi linh hoạt, tạo cho mỗi loại tranh Lợn thêm phong phú. ở bức
Lợn ăn cây Dáy đuôi Lợn xoay ra cong lên ở trên đùi sau. ở bức Lợn ăn ở bồn đuôi
đặt trên ngấn khuỷ chân sau. Đuôi lợn ở bức Lợn đàn đuôi lại để thẳng xuống.
Song các đuôi Lợn có điểm chung nhất là: lông cuối đuôi đều được cách điệu như
một chiếc quạt hình lá đề, và đều quay ra phía trước. Trên các tranh Lợn nghệ nhân
thể hiện đảo ngược điểm nhìn của lông đuôi và mũi Lợn, kể cả tai Lợn (đều theo
hướng trông thẳng), trên toàn thân Lợn (là trông nghiêng), pha chút kiểu nghệ thuật
bản năng nguyên thuỷ - vẽ: mặt nghiêng nhưng mắt lại cho quay ra phía trước),

làm cho hình tượng trong tranh thêm sống động.
Với ba mẫu ván khắc: Tranh Lợn độc, thể hiện con lợn béo đang ăn bên bồn. Tranh
Lợn ăn cây Dáy thể hiện con Lợn đang ngoạm cây Dáy để ăn. Tranh Lợn đàn, thể
hiện đàn lợn con đang quây quần bên Lợn mẹ, mỗi con mỗi dáng vẻ: con muốn
trèo lên lưng, con muốn rúc vào bụng mẹ, các con khác đang hướng vào mầm lá
khoai để ăn tất cả đều có bố cục khoẻ, giản dị, giàu chất trang trí cách điệu, mà
đậm đà tính hiện thực. Chứa đựng ước muốn của người nông dân về tăng gia sản
xuất, về cuộc sống sung túc, đông vui hoà thuận, hạnh phúc, con cháu đầy đàn.
Đường nét trong tranh Lợn thiên về diễn nét to, đậm, giản dị mà cô đọng, chắc
khoẻ, chân thực, biểu hiện tình cảm chân thật, đôn hậu với phong cách tạo hình
đậm đà bản sắc dân tộc. Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ đã đóng góp sắc thái
phẩm chất tạo hình riêng, độc đáo. Nó còn là cầu nối giữa truyền thống và hiện đại
trong dòng nguồn của Mỹ thuật Việt Nam.
Tự xa xưa Đông Hồ và nghề làm tranh đã có câu ca dao xứ sở:
"Hỡi cô thắt bao lưng xanh,
Có về làng Mái với anh thì về.
Làng Mái có lịch có lề,
Có ao tắm mát, có nghề làm tranh.
Nàng về nàng ở với anh,
Cùng nhau “Vẽ, khắc” in tranh Lợn, Gà”
Làng Mái cũng chính là làng Đông Hồ, một làng cổ nổi tiếng có nghề làm Vàng
Mã, và nghề làm Tranh khắc gỗ Dân gian.
Những bức Tranh Lợn và những Tranh Gà mộc mạc hồn quê đã trở thành di sản
nghệ thuật và nó không thể thiếu trong những ngày tết tự xa xưa, nhất là năm mới
lại đúng vào năm Hợi. Nhà nhà đi sắm Tết không quên mua Tranh Lợn về trang
hoàng, đón một năm mới an khang - thịnh vượng - hạnh phúc, chơi tranh thành nhu
cầu trong đời sống tinh thần của nhân dân. Một nét đẹp văn hoá truyền thống lâu
đời còn lưu lại đến ngày nay.


×