Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Chức năng của luật tư trong việc bảo vệ trật tự cạnh tranh từ góc độ nghiên cứu so sánh pháp luật cạnh tranh không lành mạnh của một số quốc gia - giải pháp hoàn thiện cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15 MB, 111 trang )

TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
QUẢN
TRỊ KINH
DOANH
CHUYÊN NGÀNH
LUẬT KINH
DOANH
QUỐC TẾ
KHÓA
LUẬN TỐT NGHIỆP
6Dltà£:
CHỨC NĂNG CỦA LUẬT Tư TRONG VIỆC BẢO VỆ TRẬT Tự CẠNH TRANH TỪ
GÓC
ĐỘ
NGHIÊN
cứu so
SÁNH PHÁP
LUẬT
CẠNH TRANH
KHÔNG LÀNH
MẠNH
CỦA MỘT sô QUỐC
GIA
-
GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN


CHO
VIỆT
NAM
Sinh
viên thực hiện
Lớp
Khóa
Giáo viên hướng dẫn
Dương
Thị
Phượng
Anh
2
44
TS.
Bùi Nguyên Khánh
Í-Y.O^O^
im

Ni,
tháng 05
/
2009
MỤC LỤC
LỜI
NÓI ĐÀU
Ì
CHƯƠNG
1:
MỘT SÒ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN


BẢN VÈ
CHỨC
NĂNG
CỦA
LUẬT Tư
TRONG
VIỆC
BẢO VỆ TRẬT Tự
CẠNH
TRANH
5
/.
MỘT SÒ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN so
SÁNH PHÁP
LUẬT
TRONG
LĨNH vực
CẠNH
TRANH
KHÔNG LÀNH
MẠNH
(CTKLM)
5
1.1.
Khái quát về pháp
luật
chống
CTKLM 5
1.1.1.

Khái
niệm
về
CTKLM 5
1.1.2.
Các
quan niệm
về
CTKLM 6
1.1.2.1.
Trong
mối
quan
hệ
với
quyền
tự
do
cạnh
tranh
7
1.1.2.2.
Hành
vi
CTKLM
theo
Công ước
Paris
8
1.1.2.3.

Hành
vi
CTKLM và
chuẩn
mực
về đạo đức
kinh
doanh
9
1.1.3.
Các
hành
vi
CTKLM li
1.1.3.1.
Những hành
vi
xâm
hại
lợi
ích
của
đối
thù
cạnh
tranh
li
1.1.3.2.
Những hành
vi

xâm
hại
lợi
ích cùa khách hàng
13
Ì
.2.

hình pháp
luật
về
chống
CTKLM 15
Ì .2.Ì.

hình xây
dựng
đạo
luật
về
chống
CTKLM 15
1.2.2.

hình sử
dụng
quy định
trong
Bộ
luật

Dân sự 16
1.2.3.

hình không có các quy định đặc
biệt
về Cạnh
tranh
17
1.3.
Vị
trí của
pháp
luật
về
chống
CTKLM
trong
hệ
thống
pháp
luật
kinh tế
18
Ì .4.
Mối
quan
hệ
giữa
pháp
luật

về
chống
CTKLM
với
luật
chuyên ngành
19
Ì
.4. Ì.
Trong quan
hệ
với
pháp
luật
chống
HCCT
19
1.4.2.
Trong
mối
quan
hệ
với
pháp
luật
về sỦ hữu
trí
tuệ
20
Ì .4.3.

Trong
mối
quan
hệ
với
pháp
luật
bảo vệ
ngưỦi
tiêu dùng
22
Ì .5.
Xu
hướng
phát
triển
của
pháp
luật
về
chống
CTKLM Ủ
các nước trên
thế
giới
22
1.5.1.
Xu
hướng
đa

dạng
hóa
thiết
chế
thực
thi
22
1.5.2.
Xu
hướng
đa
dạng
hóa hệ
thống
chế tài
24
1.5.3.
Xu
hướng
hài
hòa hóa
pháp
luật
về
chống
CTKLM
trong
các
khối kinh tế,
khu

vực
26
li.
MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN so
SÁNH
CỦA
PHÁP
LUẬT VÈ
CHỨC
NĂNG
CỦA
LUẬT TƯ 28
2.1.
Khái quát về
Luật

28
2.2.
Chức năng
cùa
Luật
tư và
chức
năng của
Luật
công
trong việc
xử

các

hành
vi
CTKLM 29
2.2.1.
Chức năng của
Luật
công
trong việc
bảo vệ
trật
tự cạnh
tranh
29
2.2.2. Vai
trò của
Luật

trong việc
bào vệ
trật
tự cạnh
tranh
31
2.2.3.
Vai
trò cùa
Luật

trong việc
bảo vệ

trật
tự
cạnh
tranh trong
Luật
Cạnh
tranh
2004
của Việt
Nam
32
CHƯƠNG 2:
CHỨC
NĂNG
CỦA
LUẬT

TRONG
LĨNH
vực
CẠNH
TRANH
KHÔNG LÀNH
MẠNH Ở MỘT
SÒ QUỐC GIA
TIÊU
BIÊU
ì.
QUYÊN TIẾP
CẬN

CÔNG

Ì.
Ì.

chế khởi kiện
cá nhân
Ì .2.

chế khới kiện tập thể
li.
THIẾT CHÉ
THỰC THI
2.1.
Tòa án
2.1.1.
Chức năng
của
Tòa án

2.1.2.
Thẩm
quyền
cùa Tòa án
trong việc
xử
lý các
hành
vi
CTKLM

theo
Luật
Cạnh
tranh
2004
51
2.1.2.1.
Thẩm
quyền
cùa Tòa
án
đối với việc khởi kiện
quyết
định
giải
quyết
khiếu
nại
về
quyết
định
xử
lý vụ
việc
cạnh
tranh
52
2.1.2.2.
Thẩm
quyền

của toa
án
đối với
các
khiếu
kiện
đòi
bồi
thưấng
thiệt
hại
do
hành
vi
CTKLM
gây
ra
54
2.2.
Thương lượng và hòa
giải
54
2.2. Ì.
Thương lượng
55
2.2.2.
Hòa
giải
56
2.3.


chế tự
quản
57
ni.
TRÁCH
NHIỆM
DÂN
sự
CHO
HÀNH VI
CTKLM
59
3.
Ì.
Bồi
thưấng
thiệt
hại
và cơ
sấ pháp lý
của bồi
thưấng
thiệt
hại
60
3.1.1.
Thiệt hại trong
CTKLM
61

3.1.1.1.
Sự
cần
thiết
phải
xác định
thiệt
hại
62
3.1.1.2.
Bản
chất
cùa
thiệt
hại
62
3.1.1.3.
Đánh giá
thiệt
hại
63
3.1.2.
Hành
vi
CTKLM
64
3.1.3.
Lỗi trong
CTKLM
65

3.1.4.
Mối
quan
hệ nhân quả
giữa
hành
vi
CTKLM

thiệt
hại
66
CHƯƠNG
3:
MỘT
SÒ ĐỊNH HƯỚNG
HOÀN
THIỆN
CHỨC
NÂNG
CỦA
LUẬT

VÈ CẠNH
TRANH
KHÔNG LÀNH
MẠNH
TRONG
HỆ THÔNG PHÁP
LUẬT

VIỆT
NAM 67
ì.
CÁC
QUY
ĐỊNH VẺ
PHÁP
LUẬT CHỐNG CTKLM
67
Ì. Ì.
Dự
liệu
các hành
vi
CTKLM
chưa được
đề
cập
trong
LCT
2004
67
Ì .2. Đối
tượng
áp
dụng
(địa chi
áp
dụng)
70

ri
37
.37
.43
47
.48
1.3.
Quyền
khởi kiện
tập thể
71
Ì .4.
Nhu
cầu
hướng
dẫn
thi
hành
các quy
định
về chống
CTKLM 73
Ì
.5.
Đảm
bào
sự hài
hòa,
tính
tương

thích
giữa
các
luật
liên
quan
75
Ì
.6.

chế
xử

hành
vi
CTKLM
76
Ì
.7.
Tính
quốc
tế trong việc
áp
dụng
pháp
luật
quốc
gia
76
Ì

.8.
Pháp
luật
CTKLM
phải
đảm
bảo
hội
nhập
với
pháp
luật
quốc
tế

khu vực
78
li.
HOAN
THIỆN
PHÁP
LUẬT VÈ BỒI THƯỜNG
THIỆT
HẠI DO
HÀNH
VI
CTKLM GÂY RA
79
2.1.
Cách xác

định
thiệt
hại
thực
tế
cừa
người
bị
vi
phạm
81
2.2.
Cách xác
định
thiệt
hại
trên

sở
lợi
nhuận
bị
đơn
thu
được
từ
hành
vi vi
phạm.82
2.3.

Xác
định
những
tồn
thất
về

hội kinh
doanh cừa
người
bị
thiệt
hại
83
2.4.
Xác
định
chi
phí
ngăn
chặn,
khắc phục
thiệt
hại
84
2.4.
Ì.
Chi phí
ngăn
chặn


hạn
chế
thiệt
hại
84
2.4.2.
Chi
phí
tố
tụng
85
2.4.3.
Chi phí
để
khắc phục
thiệt
hại
85
2.5. Chi
phí
luật

86
2.6.
Quỹ
bồi
thường
cho
người

tiêu
dùng
86
HI.
CÁC ĐÈ XUẤT VÈ
VIỆC HOÀN
THIỆN
THIẾT
CHÉ THỰC THI 87
3.1.
Nâng
cao
năng
lực,
hiệu
lực
trong
quá
trình
thực
thi
nhiệm
vụ
cừa

quan quản
lý cạnh
tranh
88
3.2.

Tăng
cường
năng
lực
cùa Tòa án
trong việc
xử

các hành
vi
CTKLM 89
3.3.
Phát huy
vai
trò
cừa
thương
lượng
và hòa
giải
trong việc
giải
quyết
tranh
chấp
liên
quan đến
hành
vi
CTKLM 91

3.4.
Thừa
nhận về mặt
pháp
lý chức
năng
giải
thích
pháp
luật
cừa thẩm
phán
92
3.5.
Cần
thừa
nhận
vai
trò cừa
án
lệ
93
3.6.
Xây
dựng đạo
đức
kinh
doanh cừa doanh
nghiệp
94

3.7.
Nâng
cao
ý
thức
pháp
luật
cùa
doanh
nghiệp

người
tiêu
dùng
96
3.7.1.
Khả năng
tự
bảo vệ cừa doanh
nghiệp
96
3.7.2.
Khả năng
tự
bào
vệ cừa
người
tiêu
dùng
97

KẾT
LUẬN 99
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN
Hiệp hội các
quốc
gia Đông Nam A
BHSHTT
Bảo hộ sờ hữu trí tuệ
BLDS
Bộ
luật dân sự
BLTTDS
Bộ
luật tô tụng dân sự
BVNTD
Bảo vệ
người
tiêu
dung
CTKLM
Cạnh
tranh
không lành
mạnh
EU
Liên minh Châu Au
GATT
Hiệp định

chung
về thuế
quan
và thương mại
HCCT
Hạn chê
cạnh
tranh
LCT
2004
Luật
Cạnh
tranh
năm
2004
của
Việt
Nam
OFT

quan
Thương mại lành
mạnh
SHCN
Sở hữu công
nghiệp
SHTT
Sờ hữu trí tuệ
TRIPS
Hiệp định vê quyên sờ hữu trí tuệ liên

quan
đèn thương mại
WTO

chức
thương mại thê
giới
iv
LỜI
NÓI
ĐẦU
1.

do
lựa
chọn
đề tài
Trước
khi
ban hành
Luật
Cạnh
tranh,
Hiến
pháp
năm
1992 (được sửa
đổi,
bổ
sung

năm
2001)
đã
thừa
nhận quyền
tự
do
kinh
doanh

phát
triển
của
kinh
tế
nhiêu thành phàn

nước
ta,
đặt

sở cho
cạnh
tranh
giữa
các
doanh
nghiệp thuầc
mọi
hình

thức
sờ hữu

Việt
Nam. Bên
cạnh đó,
các
văn
bản quy phạm pháp
luật
khác như
Luật
Đầu tư nước ngoài
tại
Việt
Nam,
Luật
Doanh
nghiệp
Nhà
nước,
Luật
Hợp tác
xã,
Luật
Doanh
nghiệp, Luật
Thương
mại, Luật
Các

tổ
chức
tín
dụng,
Luật
Kinh
doanh
bảo
hiểm
cũng
đã góp
phần
tạo ra
khung
pháp lý cần
thiết
cho
việc
thực
hiện
các
quyền
đó
của
doanh
nghiệp.
Tuy
nhiên,
cũng từ
khi

cạnh
tranh
được
thừa
nhận,
các hành
vi
CTKLM
giữa
các
doanh
nghiệp
đã
xuất
hiện,
đe
doa
quyền
kinh
doanh,
gây
ra
những
hậu quả xấu cho môi
trường
kinh
doanh,
cho
doanh
nghiệp

làm ăn
chân chính

cho
người
tiêu
dùng.
Trong
khi
đó,
quy định
của
pháp
luật
liên
quan
đến
hoạt
đầng
cạnh
tranh
đã không
đủ
các
chế
định
để
ngăn
chặn
các

thủ
đoạn
CTKLM
tinh
vi,
phức
tạp
của mầt
bầ
phận doanh
nghiệp
trên
thị
trường.
Nhiều
hành
vi
chưa được
xử

hoặc
mức đầ xử
lý chưa nghiêm
làm
cho
quyền

lợi
ích hợp pháp
của

các
doanh
nghiệp
làm
ăn chân chính
bị
xâm
phạm.

chế
kinh
tế
thị
trường
đặt ra
nhu
cầu
phải
thiết
lập

duy
trì
mầt môi trường
cạnh
tranh
công
bằng

bình đẳng cho các chủ

thể
kinh
doanh.
Đây
cũng
là mầt
trong
những điều
kiện
để
Việt
Nam
thực
hiện
cam
kết
sau
khi gia
nhập
WTO.
Trước
bối
cảnh đó,
tại
kỳ
họp
thứ 10,
Quốc
hầi
khóa XI ban hành

Luật
Cạnh
tranh
(năm
2004)
có ý
nghĩa
đặc
biệt
quan
trọng
đối với
sự
điều
tiết
nền
kinh
tế theo

chế
thị
trường
tại
nước
ta.
Sau
hơn
hai
mươi
năm

thực
hiện
chính sách
đổi
mới,
lần
đầu tiên
tại
Việt
Nam
Luật
Cạnh
tranh
được ban hành
-
mầt văn bản pháp
luật
điều chỉnh
hoạt
đầng
cạnh
tranh
với
tính cách là mầt tiêu chí
căn
bản của nền
kinh
tế theo

chế

thị
trường.
Luật
Cạnh
tranh
ra đời
đánh dấu
mầt
bước phát
triển
mới
của
xây
dựng

hoàn
thiện
pháp
luật
kinh
tế
Việt
Nam.
Tuy
nhiên,
khác
với
các đạo
luật
khác,

Luật
Cạnh
tranh

đạo
luật
đặc thù
lần
đầu tiên được ban hành

Việt
Nam
trên

sở du
nhập
kiến
thức,
tiếp
thu
kinh
nghiệm
của
mầt
số nước tiên
tiến
trên
thế
giới.
Nhiều

chế
Ì
định,
khái
niệm
trong
luật
còn
rất
xa
lạ
không
chỉ
đối với
các
doanh
nghiệp
mà cả
đối với
các
luật gia,
các nhà nghiên cứu
cũng
như cơ
quan quản
lý.
Do
đó,
việc
triến

khai
áp
dụng
Luật
trong
thực
tiễn
đã
vấp
phải
không
ít
khó
khăn.
Mặc dù các
biểu
hiện
phản cạnh
tranh
vẫn
diễn ra trong đủi
sống
kinh
doanh,
nhưng cho đến nay
rất
hiêm
khi
có đơn
kiện

được
gửi
tới

quan quản

cạnh
tranh.
Đặc
biệt
trong
lĩnh
vực
CTKLM
(CTKLM),
khía
cạnh
gây
rối đối với
trật
tự quản

kinh tế
của hành
vi
CTKLM
được
các nhà
lập
pháp

Việt
Nam ưu
tiên
xem
xét
1
.
Theo
đó,
hành
vi
CTKLM
được nhìn
nhận
là một hành
vi vi
phạm hành chính.
Điều
này
hoàn toàn
khác
với
các nước có hệ
thống
pháp
luật
phát
triển,
nơi


pháp
luật
CTKLM
về

bản là
thuộc
lĩnh
vực
Tư.
Cạnh
tranh,
xét về bản
chất,

hoạt
động có tính sáng
tạo
của
các
chủ
thể kinh
doanh.
Điều
này
dẫn đến một hậu quả pháp


rất


thể

quan quản

cạnh
tranh
sẽ không ngăn
chặn
được một cách
hiệu
quả

kịp
thủi
các hành
vi
CTKLM
mới
nảy
sinh

chưa được
liệt

trong
các
văn
bản pháp
luật
hiện

hành

cạnh
tranh.
Mặt
khác,
từ
khía
cạnh
kinh tế trong việc
sử
dụng nguồn
lực

hội
đã cho
thấy
việc
huy động một
hệ
thống
các cơ
quan
Nhà
nước đông đảo
(trong
đó có cơ
quan quản

cạnh

tranh
đóng
vai
trò
trung
tâm)
nếu
chỉ
giải
quyết
một vụ
tranh
chấp
nhỏ
liên
quan
đến hành
vi
CTKLM
rõ ràng

không
thực
tế.
Thực
tiễn
phó
mặc
việc
xử


CTKLM
cho

quan quản

cạnh
tranh

các

quan
hành chính khác
đã
chỉ ra

rất
thiếu
hiệu quả.
Điều
này còn
được
thể hiện

hơn
trong bối
cảnh
pháp
luật
CTKLM

của
Việt
Nam
chưa

sự phân định rõ ràng
thẩm quyền
giữa

quan
quản

cạnh
tranh,
Quản

thị
trưủng,
Thanh
tra
chuyên ngành, Hải
quan

.thậm
chí là Công an
trong việc
xử
lý hành
vi
CTKLM. Do

đó,
việc
bổ
sung
các công
cụ
của
Luật


hết
sức cần
thiết.
Thông qua
những
phân tích
so
sánh
về
pháp
luật
CTKLM
của một số
quốc
gia

Việt
Nam,
luận
văn

với
đề
tài
"
Chức năng
của
Luật tư
trong việc
bảo
vệ
trật
tự cạnh
tranh
từ góc
độ
nghiên
cứu
so sánh pháp
luật
CTKLM của
một
số quốc
gia -
giải
pháp hoàn
thiện
cho
Việt
Nam" có mục
đích

chỉ rõ
Luật
tư có
vai
trò như
thế
nào
trong việc
bảo vệ
trật
tự
cạnh
' Bùi Nguyên Khánh, Chức năng cùa Luật tư trong việc bào vẻ trật tự cạnh tranh lừ góc độ nghiên cứu so
sánh
giữa
pháp
luật
CTKLM của
Việt
Nam và
CHLB Đức, Tạp
chi
Nhà
nước

Pháp
luật,
số
10/2007,
Tr.45

2
tranh
lành
mạnh
-
một
nhiệm
vụ công
quan
trọng trong
các Nhà nước có nền
kinh

thị
trường.
2.
Mục đích và
nhiệm
vụ nghiên cứu
Mục
đích nghiên
cứu:
Qua
việc
nghiên cứu một số vấn đề lý
luận

thực
tiễn
pháp

luật
chống cạnh
tranh
không lành
mạnh
của
một số
quốc
gia
tiêu
biểu, luận
văn đề
xuất
một số
giổi
pháp nhăm nâng
cao
hiệu
quổ
việc
bổo vệ
trật
tự
cạnh
tranh từ
góc độ
Luật
tư.
Nhiệm vụ
nghiên

cứu:
- Hệ
thống
hóa và làm rõ
những vấn
đề lý
luận
liên
quan
đến pháp
luật
chống
cạnh
tranh
không lành
mạnh;
- Phân tích quy định liên
quan
đến pháp
luật
chống cạnh
tranh
không lành
mạnh
của một số
quốc
gia
tiêu
biểu
và so sánh

với
các quy định của
Luật
Cạnh
tranh Việt
Nam năm
2004;
- Đưa
ra
các bình
luận,
đánh
giá;
trên cơ sờ xem xét tính phổ
biến
của pháp
luật
Việt
Nam
trong
lĩnh
vực này để rút
ra những nhận
xét về
những
ưu
điểm

những
hạn

chế
cùa pháp
luật
chống
CTKLM
của
nước
ta hiện
nay;
- Đề
xuất
một
số
giổi
pháp nhằm nâng
cao
vai
trò của
Luật

trong việc
bổo vệ
trật
tự
cạnh
tranh

Việt
Nam;
3.

Phạm
vi
nghiên cứu
Pháp
luật
chống
CTKLM

một vấn đề
phức
tạp,

nội
dung
rất
rộng
và liên
quan
nhiều
đến các
lĩnh
vục pháp
luật
khác,
đặc
biệt

các đạo
luật
kinh tế

chuyên
ngành có quy định liên
quan
nhiều
đến
cạnh
tranh,
pháp
luật
về hành
chính,
pháp
luật
về dân
sự do
đó, liên
quan
đến vấn đề này,
luận
văn chỉ
giới
hạn phạm
vi
nghiên cứu
trong
mối
quan
hệ
giữa
các quy định về hành

vi
CTKLM
trong
Luật
Cạnh
tranh
với
các quy định có liên
quan
đến
cạnh
tranh trong
một số đạo
luật
chuyên ngành về
SHTT,
pháp
luật
về
BVNTD
và một số quy định
của
pháp
luật
dân
sự
liên
quan
đến
BTTH

ngoài hợp
đồng.
Bên
cạnh đó,
pháp
luật
về
chống
CTKLM
có ở
rất
nhiều
nước trên
thế
giới,
do
vậy,
khi
tham khổo
kinh
nghiệm
của nước
ngoài,
luận
văn
chỉ
tiến
hành phân tích so sánh một số quy đinh
điều
chình hành

vi
CTKLM
trong
Luật
Cạnh
tranh
hoặc
án
lệ
của một số
quốc
gia
và vùng lãnh
thổ
3
tiêu
biểu
như: EU
trong
đó như: Đức, Pháp, Bỉ,
Italia,

Lan,
Phần
Lan,
Đan
Mạch,
thụy
điển,
Hungari,

Bungari;
một số
quốc
gia
khác như:
Trung
Quốc,
Nhật
Bản,
Đài
Loan,
Mỹ,
Canada,
Australia
4.
Phưong pháp
luận
và phương pháp nghiên cứu
Luận
văn sử
dụng
kết
hợp các phương pháp nghiên cứu như:
• Phương pháp
tổng
họp;
• Phương pháp
logic;
• Phương pháp
lịch

sử;
• Phương pháp chuyên
gia.
• Phương pháp so sánh
luật
học;
5. Kết cệu
của
luận
văn
Kết
cệu của
luận
vãn ngoài
phần
mở đầu và
kết luận, nội
dung
chính được
chia
thành 3 chương:
Chương
Ì:
Một số vện đề lý
luận
cơ bản về
chức
năng của
Luật


trong việc
bảo
vệ
trật
tự
cạnh
tranh
Chương
2:
Chức năng
của
Luật

trong lĩnh
vực
cạnh
tranh
không lành
mạnh
ở một số
quốc
gia
tiêu
biêu
Chương
3:
Một số định
hướng
hoàn
thiện

chức
năng
của
Luật
tư về
cạnh
tranh
không lành
mạnh
trong
hệ
thống
pháp
luật
Việt
Nam.
Để
hoàn thành được
luận
văn,
em đã cố
gắng
tìm
tòi,
tổng
hợp và phân tích
các thông
tin,

liệu

thu
thập
được.
Tuy
nhiên,
do hạn
chế
về mật
thời
gian
và vốn
kiến
thức
còn
ít
ỏi,
kinh
nghiệm
chưa
nhiều,
khóa
luận
không
thể
tránh
khỏi
những
thiếu
sót.


vậy,
em
rệt
mong
nhận
được sự
chỉ
bảo
của
thầy

trong
Trường và sự
góp ý
của bạn đọc.
Em
xin
chân thành cảm ơn
Tiến sĩ
Bùi Nguyên
Khánh,
Trường phòng
Luật
So
sánh,
Viện
Nhà nước và Pháp
luật,
đã
nhiệt

tình
hướng
dẫn,
giúp đỡ,
cung
cệp tài
liệu
quý báu để em có
thể
hoàn thành khóa
luận
này.
Sinh viên
Dương Thị Phượng
4
CHƯƠNG
1:
MỘT SÒ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN cơ BẢN VÈ
CHỨC
NĂNG
CỦA
LUẬT Tư
TRONG
VIỆC
BẢO VỆ TRẬT Tự
CẠNH
TRANH
/.MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN so
SÁNH PHÁP
LUẬT

TRONG
LĨNH vực
CẠNH
TRANH
KHÔNG LÀNH
MẠNH
(CTKLM).
LI. Khái
quát
về
pháp
luật
chổng CTKLM.
ỉ. ỉ. ỉ.
Khái
niệm
về CTKLM
Cho đến
nay,
CTLM mặc dù đã
được
tiếp
cận,
nghiên cứu

phản
ánh
trong
nhiều
học

thuyết,
song
đều không
đưa
ra
được
nội
hàm cụ
thể
cho khái
niệm
này.
Cũng
như
vậy,
pháp
luật
về
cạnh
tranh
cùa các
quốc
gia
trên
thế
giới
cũng
không
đưa
ra

được khái
niệm
thống
nhất
về
thế
nào

CTLM. Và do đó
chỉ

thể
hiểu
CTLM
một cách gián
tiếp
từ
việc
xác đựnh
những
hành
vi
CTKLM
được quy đựnh
trong
pháp
luật
về
cạnh
tranh

hoặc
trong
án
lệ
của
các
quốc
gia.
Tuy
vậy,
dưới
góc
độ
thực
tiễn,
các
quốc
gia
đều
có sự
thống
nhất
về
bản
chất
cùa CTLM.
Theo
đó
CTLM được
hiêu


cạnh
tranh trung thực,
công
bang,
hợp
pháp,
hợp đạo đức và
tập
quản
kinh
doanh; là
hình
thức cạnh
tranh
đẹp,
trong sáng,
cạnh
tranh
bằng
tiêm
năng von có của bản
thân
doanh
nghiệp,
vì lợi ích
của bản
thân trẽn tinh
thần
tôn

trọng
lợi ích
của
các chủ
thể
kinh
doanh
khác,
của người
tiêu
dùng

lợi
ích
công
cộng.
Như
vậy,
CTLM
có một số đặc
điểm
như
sau:
- Tuân
thủ
pháp
luật;
- Tôn
trọng truyền
thống,

tập
quán
kinh
doanh;
- Phù hợp
với
đạo đức
kinh
doanh;
- Phù hợp
với
thông
lệ
quốc
tế;
-

động
lực
thúc đấy phát
triến
kinh tế;
Qua các đặc
điểm
trên cho
thấy
CTLM có
nội
hàm
rất

rộng

từ
đó
rất
khó

thể
quy đựnh cụ
thể
đặc
điểm
nào
là hành
vi
CTLM.
Điều
đó
dẫn đến
việc
tiếp
cận
pháp
luật
từ
mặt trái của hành
vi

không
triệt

để
trong việc
xác
đựnh
về mặt
nội
dung.
Nêu
xuất
phát
từ
nguyên
tắc
các chủ
thể kinh
doanh
được
làm
những
gì pháp
luật
không
cấm
(chứ
không
chi
được
làm
những
gì mà

pháp
luật
quy
đựnh)
thì
5
không
thể
xác định được khái
niệm
chuẩn,
đúng
trong
mọi trường
hợp, cũng
không
thể
xác định được pháp
luật
cạnh
tranh
điều chỉnh
các hành
vi
cạnh
tranh
mang
tính
tích cực
để

từ
đó
quyết
định
đó
là hành
vi
cạnh
tranh
họp pháp.

ngược
lại
về
mặt
phương pháp
phải
xác
định
hành
vi
CTKLM
và quy định thành
điều
cấm.
Đối lập vữi
cạnh
tranh
lành
mạnh

là cạnh
tranh
không lành
mạnh
việc
xác định

lành
mạnh
hay không được căn cứ
trên

sờ
mục
đích,
tính
chất
và phương pháp
tiến
hành
cạnh
tranh
trên
thị
trường.
Do
đó,
CTKLM
là những
hành

vi
cạnh
tranh
đi
ngược
lại
các
nguyên
tấc

hội,
tập
quán

truyền
thống
kinh
doanh,
xâm
phạm
lợi
ích của các
nhà
kinh
doanh
khác,
lợi
ích của
người
tiêu dùng


lợi
ích
của

hội
2
.
Thực
tế
cho
thấy
khái
niệm
CTKLM còn có
những
tên
gọi
khác
nhau
như:
cạnh
tranh
không bình
đẳng,
cạnh
tranh
bất
hợp
pháp,

cạnh
tranh
bất
chính.
Tuy
nhiên,
thuật
ngữ CTKLM
được
sử
dụng
phổ
biến
hơn
cả,

"không bình
đẳng",
"bất
hợp pháp" hay
"bất
chính" đều không bao quát được
nội
dung của vấn
đề
đang
đặt
ra.
Khái
niệm

CTKLM và
cạnh
tranh
bất
hợp pháp nếu xét về
nghĩa
của
từ
thì
giữa
chúng

sự khác
nhau.
Thông thường tính
bất
hợp pháp được
hiểu

vi
phạm
điều
cấm
của
pháp
luật.
Còn
sự không lành
mạnh
bao

gồm
cả
tính
chất
vi
phạm
đạo
đức,
vi
phạm
tập
quán
kinh
doanh
truyền
thống.
Những hành
vi
CTKLM
không
phải
lúc nào
cũng
đồng
nghĩa
vữi
hành
vi
cạnh
tranh bất

hợp
pháp.
Bởi
vì,
pháp
luật
chống
CTKLM
là một
bộ
phận
của hệ
thống
pháp
luật
nói
chung,
quy định
những
hành
vi
cạnh
tranh
nào

bất
hợp
pháp.
về
mặt


luận,
pháp
luật
thuộc
kiến
trúc
thượng
tầng,
do
quan
hệ xã
hội
quyết
định

Điều
này
cũng

nghĩa
thường
lạc
hậu
hơn
so
vữi
sự phát
triển,
sự "sáng

tạo"
không
ngừng
của chủ
thể
cạnh
tranh

cùng
vữi
đó

các
quan
hệ
kinh
doanh, quan
hệ
cạnh
tranh

quan
hệ
CTKLM.
1.1.2.
Các
quan niệm vê CTKLM
Hiện
nay,
trên

thế
giữi

nhiều
quan
niệm
khác
nhau
về
CTKLM.
Theo
hiểu
biết
chung,
có ba
quan
điểm
chủ yếu
về
CTKLM như
sau:
2
Đặng

Huân,
Pháp
luật
về kiểm
soái
độc quyển


CTKLM

Việt
nam,
Nhà
xuất
bàn
Chinh
trị
Quốc
gia

nội 2004, Tr.
30,31
6
1.1.2.1.
Trong
mối
quan
hệ
với
quyền
tự
do
cạnh
tranh
Quan
niệm
thứ nhất

cho
rằng
"CTKLM
bao
gồm
tất
cả hành
vi
nào
xâm
hại
tới
hoạt
động
cạnh
tranh
trên
thị
trường,
xâm
hại
tới
quyền tự
do
cạnh
tranh
công
bằng
của
các

doanh
nghiệp".
Cạnh
tranh

thuộc
tính
tự
nhiên của các
nhà
kinh
doanh.
Cạnh
tranh
là động
lực
để các
đối thủ phải
tự
cải
tổ

trang
bị cho mình
nhẫng
điêu
kiện
tót nhát
đê
duy

trì
sự
tồn
tại

phát
triển
trên
thị
trường.
Kết
quả
đó
cũng
mang
lại
cho

hội
nhẫng
lợi
ích
đáng
kể,
ví dụ như
chất
lượng,
mẫu mã
sản phẩm
tốt


phong
phú
hơn
với
mức
giá
hợp lý
hơn

vậy,

cần
phải
được pháp
luật
bảo
hộ
với

cách là
quyền
của
các nhà
kinh
doanh

trở
thành
nội

dung
không
thể
thiếu
của
quyền
tự
do
kinh
doanh.
Cũng

thể
khẳng
định
rằng,
quyền tự
do
cạnh
tranh
của
các nhà
kinh
doanh

cạnh
tranh
lành
mạnh.
Đó

là hình
thức
canh đẹp,
trong
sáng

giải
thoát được
khỏi
thói

tật
xấu
trong
cuộc sống đời
thường
3
.
Trong
mối
quan
hệ
với
các
quyền tự
do
kinh
doanh
khác,
quyền tự

do
cạnh
tranh
có ý
nghĩa
quan
trọng.

chính là động
lực
thúc đẩy
việc
thực
hiện
quyền
sở hẫu

liệu
sản
xuất,
tự
do hợp
đồng
Hiện nay,
hầu
như
các
quốc
gia
trên

thế
giới
đều
thừa
nhận
cạnh
tranh
và đưa
ra
nhẫng
bảo
đảm
pháp lý nhằm thúc đẩy
tự
do
cạnh
tranh

đưa
ra
nhẫng
bảo
đảm
pháp lý nhàm thúc đẩy
tự
do
cạnh
tranh
lành
mạnh.

Để đảm bảo
quyền
tự
do
cạnh
tranh
lành
mạnh
cho các chủ
thể
kinh
doanh thì
phải
đảm
bảo
các
yêu
cầu sau:
-
Phải
có hệ
thống
pháp
luật
về
cạnh
tranh
hoàn
thiện;
-

Nhà
nước
phải


chế
kiểm
soát
giá
cả;
-
Phải kiếm
soát được độc
quyền

hạn chế hậu quả
sự
độc
quyền,
dù đó là
độc quyền
Nhà
nước;
-
Phải

chế tài
nghiêm
ngặt đối với
các hành

vi
CTKLM,
cạnh
tranh
bất
hợp
pháp,
và các mặt
tiêu
cực
khác
của cạnh
tranh;
-
Phải
đảm
bảo sự bình đẳng cho các thành
phần
kinh tế;
5
Bùi Ngọc Cường, Một so vắn để về tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tể hiện hành à Việt Nam NXB
Chính
trị
Quốc
gia

hội,

Nội,
2001

7
Tuy
nhiên,
tự
do
cạnh
tranh
không được
hiểu
là được sử
dụng
mọi
biện
pháp
hoặc
thực
hiện
mọi hành
vi
để
lôi kéo khách
hàng.
Tự do
nào
cũng

giới
hạn

nhiệm

vụ
của
luật
cạnh
tranh
chính là xác định
những
giới
hạn
dó.
Doanh
nghiệp
được
sử
dụng
tất
cả các
biện
pháp

luật
cạnh
tranh
không
cấm
để
thu
hút khách
hàng.
Với

quan niệm này,
các hành
vi
HCCT,
nhất
là những
hành
vi
lạm
dụng vị
trí
thởng lĩnh
thị
trường
cũng
thuộc
phạm trù
CTKLM
(quan
niệm
này được
phản
ánh
rất

trong
quy
đinh
của
Luật

Cạnh
tranh
Mông
cổ).
Ì.
Ì.2.2.
Hành
vi
CTKLM
theo
Công ước
Paris
Quan
niệm
về
CTKLM
được quy định
trong
Công ước
Paris
về
Bảo
hộ
quyền
sở
hữu trí
tuệ
(ký
kết
ngày

20-3-1883)
cụ
thể

Điều
lo
bis
(được
bổ
sung
vào
Công
ước năm
1900), theo
đó
"Sá?
cứ
hành
vi
cạnh
tranh
nào
đi ngược
lại
các
hành động
trung thực, thiện
chí
trong
công

nghiệp
hoặc
trong
thương
mại
đêu là
hành
vi
CTKLM"
Nội
dung của Điều lo
bis
đã
trở
thành một định
nghĩa quởc
tế nổi
tiếng
bởi

thể
hiện
mẫu
hình pháp
luật
hiện đại,
bao
gồm
các
điều khoản chung


liệt
kê các
hành
vi
CTKLM
quan
trọng
nhất
phải
bị cấm.
Điều khoản chung
được
bổ
sung
bằng
một
loạt
những
chỉ
dẫn
nêu rõ 3 nhóm hành
vi
CTKLM
quan ừọng
nhất
đó
là:
- Các hành
vi

gây
rởi (lộn
xộn);
- Các hành
vi
bôi
nhọ,
nói
xấu;
- Các
luận
điệu
lừa
dởi;

thể
nói
là,
toàn bộ Công ước
Paris
được xây
dựng
trên nền
tảng
khái
niệm
bảo
vệ
quyền
lợi


nhân
trong
hoạt
động công
nghiệp

thương
mại,
khía
cạnh
bảo
vệ
người
tiêu dùng và bảo vệ
lợi
ích công
đã
được
đặt sang
một
bên.
Theo
đó,
tiêu
chuẩn
xác định
"trung
thực
trong

hoạt
động công
nghiệp

hoạt
động thương
mại"
được
hiểu
như
là sự liên
quan
đến
hoạt
động
kinh
doanh
hơn

những người
tiêu
dùng.
Mặt
khác,
các quy định
của
Công ước
Paris
đã
tạo

điều
kiện
thuận
lợi
cho
sự
phát
triển
của các
thiết
ché
trong
mỗi
quởc
gia
chởng
lại
các hành
vi
CTKLM
trên toàn
thế
giới.
Các
quởc
gia
hiện
nay
như
Vương

quởc
Bi,
Italia
trong
thập
kỷ
20
và 30 đã
chấp nhận Điều
lObis
Công ước
Paris
như

một bộ
phận của
pháp
luật
8
quốc
gia

được sử
dụng
như pháp
luật
quốc
gia
để
xử

lý các hành
vi
CTKLM;
bời

khi
áp
dụng
không
chi
đem
lại lợi
ích cho
người
nước ngoài
mà còn đem
lại
lợi
ích cho chính công
dân
nước sở
tại.
Điều
lObis
Công ước
Paris
là một
điều khoản

thể

thực
hiện
một cách
trực
tiếp

các
quốc
gia
thành viên
vỉ điều
luật
này đã
xác
lập
các tiêu
chuẩn
tối
thiểu
trong việc
xử lý các hành
vi
CTKLM.
1.1.2.3.
Hành
vi
CTKLM

chuẩn
mực

về đạo đữc
kinh
doanh.
Quan
niệm
thữ
ba cho
rằng,
"CTKLM

hành
vi
cạnh
tranh
của
doanh
nghiệp
trong
quá
trình
kinh
doanh
trái
với
những chuẩn
mực
thông thường về đạo đữc
kinh
doanh,
gây

thiệt
hại
hoặc

thể
gây
thiệt
hại
đến
lợi
ích
của
Nhà
nước, quyền

lợi
ích hợp pháp của chủ
thể kinh
doanh
khác
hoặc người
tiêu dùng".
Theo quan niệm
này,
hành
vi
CTKLM
có các dấu
hiệu


bản sau:
-

hành
vi
của doanh
nghiệp
nhàm
mục
đích
cạnh
tranh;
- Hành
vi
đó
phải
nhằm vào
đối thủ hiện
hữu;
- Hành
vi
đó có
biểu hiện
trái
với
các
chuẩn
mực đạo đữc
kinh
doanh, hoặc

trái
với
pháp
luật
(cũng

trái
đạo
đữc);
- Hành
vi
đó gây
thiệt
hại
hoặc

thể
gây
thiệt
hại
cho
Nhà
nước,
đối thủ
cạnh
tranh
hoặc cho người
tiêu dùng;
Theo quan niệm này,
CTKLM

chính là
những
hành
vi
trái
với
các
chuẩn
mực
đạo đữc
kinh
doanh
thông
thường.

phản
ánh khía
cạnh chuẩn
mực
đạo đữc
trong
kinh
doanh
của
các
chủ
thể tham
gia thị
trường.
Thông

thường,
để xác
định
một
doanh
nghiệp

khả năng
cạnh
tranh với
doanh
nghiệp
khác hay không,
phải
căn
cữ
vào
các
chỉ
tiêu
thể hiện
năng
lực

trình
độ
kinh
doanh,
như
quy


đầu
tư,
doanh
số,
công
nghệ,
hiệu
quả
lợi
nhuận Đối
với
các
doanh
nghiệp
CTKLM,
thay

quan
tâm
đến các
điều
kiện
trên
đây,
họ
tiến
hành
cạnh
tranh

bàng các
biện
pháp
thiếu
trung thực, giả dối
như:
quảng
cáo
thổi
phồng những
đặc tính
hữu
ích,
chất
lượng
cao
hơn
thực
tế
đạt được,
nói
xấu,
dèm
pha
chất
lượng
hàng
hóa,
hạ
thấp

uy
tín của thương nhân khác Nhìn
chung,
CTKLM
theo
quan niệm
này là
những
hành
vi
cạnh
tranh
đi ngược
lại
với
các nguyên
tắc

hội,
tập
quán

truyền
thống
kinh
doanh,
xâm
phạm
lợi
ích của

các nhà
kinh
doanh khá,
lợi
ích
của
người
tiêu
dùng và
lợi
ích
của

hội.
9
Quan
niệm
thứ
ba về
CTKLM
cũng

quan
niệm
được quy định
tại
Luật
Cạnh
tranh
2004

của Việt
Nam
(Điều
3
khoản
4,
LCT
2004).
Với
những
dấu
hiệu
trên thì
không
phải bất
kỳ
hành
vi
xâm
hại
đến
lợi
ích của
doanh
nghiệp
đều bị
coi
là hành
vi
CTKLM


bị
xử
lý bời
pháp
luật
CTKLM mà
chỉ
những
hành
vi
do
đối thủ
cạnh
tranh
thặc
hiện đối với đối thủ
cạnh
tranh,
không vì
mục
đích
cạnh
tranh
sẽ không
bị coi
là hành
vi
CTKLM và do đó
sẽ bị

xử

bởi
pháp
luật
chung
-
pháp
luật
dân
sặ.
Mặt
khác,
để đảm
bảo
quyền
tặ
do
kinh
doanh,
tặ
do
cạnh
tranh của
các chủ
thể
tham
gia thị
trường được
diễn ra

một
cách công bàng, bình
đẳng,
Nhà
nước
quy
định
hoạt
động
cạnh
tranh phải
tuân
thủ
nguyên
tắc trung thặc,
công bàng

không
được
xâm
phạm
lợi
ích
hợp
pháp của
doanh
nghiệp,
của
người
tiêu dùng


nhìn
chung
là phải
tuân
theo
các quy định
của
pháp
luật.
Như
vậy, với
ba
quan
điểm
như đã
nêu

trên,
chúng
ta

thể thấy
rằng,
theo
quan
niệm
thứ
nhất
thì việc

nhận
dạng
các
hành
vi
CTKLM

rất
rộng,
có sặ hòa
lẫn
giữa
các hành
vi
được
coi là
HCCT

những
hành
vi
CTKLM

từ
đó
sẽ tạo ra
sặ
thiếu
phân hóa
trong


chế
xử

giữa hai
nhóm hành
vi này.
Trong
khi đó, tuy
đều

hành
vi
cạnh
tranh biểu hiện
bằng
cách hành
xử
của
doanh
nghiệp
trên
thương
trường,
làm
hại
đến sặ
vận động bình thường

tính lành

mạnh
của
thị
trường,
song
chúng

những
đặc
điểm
khác
biệt
về
bản
chất,
tính
chất,
mức độ
nguy
hại
cho
thị
trường

theo
đó
dẫn
tới
việc
sử

dụng
phương
thức
áp
dụng
pháp
luật

tính cương
quyết
trong việc trừng trị của
pháp
luật
cũng
khác
nhau
đối với
hai
nhóm hành
vi
này.
Nếu
quan
niệm
theo
quan
niệm
hai
thì chỉ
đề

cập
đến các
hành
vi
"không
trung
thặc
trong
hoạt
động thương
mại

công
nghiệp".
Quan
niệm
ba

phần
hẹp hơn
quan
niệm
thứ
nhất,
nhưng
rộng
hơn
quan
niêm
thứ

hai,
theo
đó
hành
vi
CTKLM
bao
gồm
bất
kỳ
hành
vi
nào
''trái
với
chuẩn
mặc
thông thường
về
đạo đức
kinh
doanh"

điều
này
sẽ bao
gồm
cả hành
vi
"không

trung thặc"
và cả
những
hành
vi coi

"trung thặc"
nhưng trái
với
chuẩn
mặc
thông thường
về đạo
đức
kinh
doanh.
Với cách định
nghĩa
theo
cách
thứ
ba này
thì hành
vi
CTKLM
không
bị

hẹp
trong việc

cấm
đoán các hành
vi
CTKLM
chỉ trong
lĩnh
vặc sở hữu
công
nghiệp

còn
sang
cả các
lĩnh
vặc
khác.
10
ỉ. 1.3.
Các
hành
vi
CTKLM
Hiện nay, nội
dung của
pháp
luật
chống
CTKLM,
nếu xét về phương
diện

lập
pháp,
được
giải
quyết
không
thống nhất

các
quốc
gia

thừa
nhận
chế định pháp
luật
này.
Tuy
nhiên
khi
xem
xét về
nội
đung của pháp
luật
chống
CTKLM,
thông
thường


những
nhóm hành
vi
bị
pháp
luật
"can
thiệp"
như
sau:
1.1.3.1.
Những hành
vi
xâm
hại
lợi
ích
của
đối thủ
cạnh
tranh.
Trong
số những
hành
vi

mục
đích
cạnh
tranh

mà xâm
hại
đến
lợi
ích
của
các
đối
thủ
cạnh
tranh
bao
gồm
các nhóm hành
vi
sau:
- Ngăn
cản:
Ngăn cản các
đối thủ
khác
trong
quá trình
tham
gia
cạnh
tranh

loại
hành

vi
CTKLM
tương
đối
điựn
hình.
Tuy
nhiên,
đự
phân
biệt
với
hành
vi
ngăn cản
trong
pháp
luật
về
chống
độc
quyền
mà ở
đó,
ngăn
cản
được
áp
dụng
đối với

các đôi
thủ
tiềm
năng
(những doanh
nghiệp
đang tìm cách
gia
nhập
thị
trường),
phải thấy rằng,
các
doanh
nghiệp
bị
ngăn cản
ở đây

những
thành viên
hiện
hành.
Việc
ngăn
càn
các
đối thủ
cạnh
tranh

được
thự hiện
chủ yếu
thông qua
thủ
thuật
bán phá giá.
Pháp
luật
chống
CTKLM về
chống
bán phá giá
chủ yếu thông qua
việc
quy
định
cấm
bán hàng
dưới
giá
vốn
trong
điều
kiện
bình
thường.
Nhu
vậy,
trên

thực
tế
pháp
luật
cũng
cho phép
các
doanh
nghiệp
bán
hàng
dưới
giá
vốn
trong
một số
trường
hợp không bình thường như: hàng
hóa có
nguy
cơ hư
hỏng nhanh
do
điều
kiện
ngoại
cảnh bất
thường;
bán
hàng dọn kho

do
thay
đổi

cấu sản
xuất,
kinh
doanh;
hàng hóa
thuộc
tài sản
phá
sản
Tính không lành
mạnh
của
hành
vi
này
thự hiện
chủ yếu
dưới hai
dạng:
Thứ
nhất,
giảm giá, khuyến
mại
man
trá được
tiến

hành bàng
việc
thông
báo
hạ
giá trên

sở giá cũ
phi thực
tế,
hay
khuyến
mại
theo
kiựu
thực
tế,
hay
khuyến
mại theo
kiựu
thực tế
không có
giải
thưởng
(quảng
cáo
gây
nhầm
lẫn),

Thứ
hai,
giảm
giá
khuyến
mại quá
mức
bình
thường,
tạo
cho các
đối thủ
cạnh
tranh
những
khó khăn
trong việc
bán hàng.
Bên
cạnh những dạng
biựu hiện
chủ yếu trên đây,
thuộc
các
nhóm hành
vi
ngăn
cản
đối thủ
còn bao

gồm
cả
những
hành
vi
tẩy
chay,
thâu
tóm
khách hàng của
đối
thủ đều
được pháp
luật
chống
CTKLM
Điều chỉnh.
li
-
Dèm pha

bôi
nhọ
đối thủ:
Việc
đưa
tin
thất
thiệt
về

người
khác
là điều
không
thể
loại
bỏ
trong
cuộc sống.
Đe
chống
lại
cách
xử
sự
này,
pháp
luật
dân
sự
của
mọi
quốc
gia
đều

những
quy
định
nhằm bẫo

vệ
nhân phẩm,
danh
dự và uy
tín của mọi pháp nhân

thể
nhân
(bao
gồm
cẫ các thương
gia).
Bên
cạnh những
quy định
chung
của
Bộ
luật
dân
sự,
thông thường vẫn
có các
quy định riêng
cụ
thể,
dành cho
các
thương
gia với

tính
cách là các
đối thủ
cạnh
tranh trong
thương
trường.
Trên
thực
tế,
các
doanh
nghiệp
thường
sử
dụng
rất
nhiều thủ
thuật
tinh
vi

không lành
mạnh
làm
tổn hại
đến
lợi
ích
(vật

chất

phi vật chất)
của
các
đối
thủ.
Tại
đây,
pháp
luật
chổng
CTKLM xem
xét
loại
hành
vi
này
trên

sở các
yếu
tố:
- Hành
vi
này
phẫi xuất
phát từ
đối
thủ cạnh

tranh,
vì mục
đích
cạnh
tranh.
Xuất
phát
từ
đối thủ
cạnh
tranh
không
nhất
thiết
phẫi

đối thủ
này
trực
tiếp
hành
động
nói
xấu,
gièm
pha.
- Hành
vi
nói
xấu,

bôi nhọ
phẫi
nhàm
vào
đối thủ
cạnh
tranh trong
cùng
một
thị
trường hàng
hoa,
sẫn phẩm. Được
coi

"nhằm
vào
đối
thủ cạnh
tranh"

thế
bao
gồm
nhiều
đối
tượng
cụ
thế
liên

quan
đến
doanh
nghiệp
như:
chất
lượng
sẫn
phẩm, cách
thức
bán
hàng,
tiềm
lực
kinh
tế -
tài
chính,
lực
lượng
lao
động
hoặc
ban
lãnh đạo
doanh
nghiệp
Khuyến
mại
tạo

cho khách hàng
tâm


thói
quen
lệ thuộc
vào
thương
gia
khuyến
mại.
Họ
bị
chi phối bởi
"tâm

hám
lợi"
nên
ít
có cơ
hội
để
quan
tâm đến
hàng hóa
của
đối thủ
cạnh

tranh
khác.
Kết cục
là, khi
thói
quen
mua
hàng
trở
thành
phẫn
xạ có
điều
kiện,
khách hàng sẽ không
còn
quan
tâm
đến
chất
lượng
của sẫn
phẩm. Tính không lành
mạnh
và sự
nguy hiểm của khuyến
mại


chỗ

đó.
Nhiều
hành
vi
CTKLM ở
các nước
chỉ
bị
xử

theo

chế
bồi
thường dân
sự
thì

Việt
Nam
lại
được bẫo
hộ
kép,
đó
là vừa

thể
áp
dụng


chế
xử lý
hành
chính
lại
vừa

thể
áp
dụng

chế
khởi
kiện
đòi
bồi
thường
dân
sự
tại
các
Tòa án

thẩm quyền
4
.
4
Nguyễn Như Phát, Đưa pháp luật chong cạnh tranh không lành mạnh đi vào cuộc song, Nhà nước và pháp
luật,

số
1/2006,
Tr.32
12
cần
lưu ý
rằng,
xuất
phát
từ
nguyên
tắc
Hiến
định
về
tự
do
ngôn
luận,
phải
phân
biệt
hành
vi
dèm
pha,
bôi
nhọ
với
những

đánh giá
nhận
xét về
sản
xuất,
kinh
doanh
về một
doanh
nghiệp.
Trong
khi
những nhận xét,
đánh
giá đó có
thể

khách
quan
hay chưa khách
quan

trong
những
trường hợp
như
vậy, hiện
tượng
sẽ
nằm chính nơi biên

giới
với
"đưa
tin
thất
thiệt".
-
Bội
tín:
Trong
môi
trường
cốnh
tranh
mọi
doanh
nghiệp
đều có
những
bí mật
kinh
doanh
cùa
mình.
Đây
cũng là
một
trong
những
công

cụ,
phương
tiện
bảo vệ
lợi
ích

đảm
bảo thành
đốt
của
doanh
nghiệp.
Nhưng, vì
mục
tiêu
cốnh
tranh,
đây
cũng
luôn là
đối
tượng

các
đối thủ
cốnh
tranh
luôn "tò mò"


muốn
chiếm
đoốt.
Do

một bộ
phận
thuộc
lợi
ích hợp pháp
của
từng
doanh
nghiệp
nên chúng có nhu cầu
được
pháp
luật
bảo
vệ.
Theo
pháp
luật
của
nhiều
quốc
gia
những
hành
vi

này
không
những là
hành
vi
CTKLM mà
còn
bị
coi

một
trong
những
tội
phốm
kinh tế.
-
Bóc
lột:
Khái
niệm
này
không được
hiểu
như
khái
niệm
bóc
lột
trong kinh tế

chính
trị
học
hay
triết
học.
Dưới
góc độ
cốnh
tranh,
bóc
lột
được
hiểu
là sự
hưởng
dụng
trái
phép hay lốm
dụng những
thành quả
lao
động của
một
doanh
nghiệp
này
đối với
doanh
nghiệp

khác.
Biểu
hiện
của
những
hành
vi
này

việc
sản
xuất

cho
lưu
hành hàng
hóa,
sản phẩm
mà các dữ
kiện

thông số
về
chúng không
trung
thực.
Biểu
hiện
của
những

hành
vi
này

việc
đưa
thông
báo man
trá về
nguồn
gốc của
hàng
hóa,
bất
chước,
nhái
lối
các
sản
phẩm hàng hóa đã được bảo
hộ.
1.1.3.2.
Những hành
vi
xâm
hối
lợi
ích
của
khách hàng.

Thị
trường được
coi
là nơi
gặp gỡ
của
người
bán và
người
mua,
mà ở
đó, ai
cũng
muốn
thu
về cho mình
những
mối
lợi
cao
nhất.

vậy, trong
mối
quan
hệ
với
khách
hàng,
kẻ bán

hàng
cũng

thể

những
hành
vi
CTKLM mà
pháp
luật
cần
can
thiệp.
Cũng
như
những
hành
vi
xâm
hối
lợi
ích
của
các
đối thủ cốnh
tranh,
nhóm hành
vi
xâm

hối
lợi
ích
của khách hàng hay
người
tiêu dùng
cũng
khá đa
dống,
bao
gồm:
13
- Can
thiệp
vào
quyền
tự
do
quyết định
của
khách
hàng:
Trong
cơ chế
thị
trường,
tự
do
kinh
doanh ắt

sẽ kéo
theo
tự
do định
đoạt
của
khách hàng.
Trong
số
nhữnh
hành
vi
nhằm tác động vào sự tự do định
đoạt
cùa
khách hàng trước
hết phải
kể đến hành
vi
lừa dối
nhằm
thu
hút khách
hàng,
làm cho
khách hàng không hoàn toàn
tự chủ
khi quyết
định
tham

gia
quan
hệ mua
bán.
Bên
cạnh
đó là các hành
vi
lừa dối
thông qua
quảng cáo,
dồn khách hàng vào thê bí mà
không có cách nào khác

phải
tiếp
nhợn quan
hệ mua
bán,
các hành
vi
quảng
cáo
quấy
rầy
khách hàng,
-
Khuyến mại
Khuyến
mại được

coi
là những
biện
pháp nhằm
thực hiện
những dịch
vụ phụ,
không mất
tiền,
trên cơ sở có
việc
mua bán
những sản
phẩm,
dịch
vụ
chính.
Để xác
định
một
hiện
tượng
khuyến
mại,
cần
xem xét
những
dấu
hiệu
sau

đây:
• Sản phẩm chính và
sản
phẩm phụ
phải
có một
quan
hệ
nội
tại
(thí
dụ,
mua
một
xe máy có
thể
được
tặng
thêm một đôi mũ bảo
hiểm:
quan
hệ xe máy
và mũ bảo
hiểm);
• Sản phẩm phụ có
thể (chứ
không
nhất
thiết)
bị

lệ
thuộc
vào
sản
phẩm chính
(mũ
bảo
hiểm
chỉ
có giá
trị
sử
dụng
khi
có xe
máy);

Việc
cung
cấp sản phẩm hay
dịch
vụ phụ
phải
vì mục đích bán được sản
phẩm chính;
• Sản phẩm chính và
phụ, phải
biệt
lợp với
nhau,

có giá
trị
kinh
tế
riêng
biệt;

Việc
cung cấp sản
phẩm hay
dịch
vụ phụ

không mất
tiền.
- Quảng cáo
sai
lệch
Quảng cáo

hành
vi
không
thể
thiếu
của mọi
doanh
nghiệp khi
tham
gia

vào
cạnh
tranh.
Mục đích của
quảng
cáo là để
giới thiệu,
khuyếch
trương về hàng hoa,
dịch
vụ của mình và

thế
nó được
coi

quyền
hợp pháp của
doanh
nghiệp
-
một
nội
dung
của
tự
do
kinh
doanh. Với
bản

chất
là một quá trình thông
tin
có ý
nghĩa
lớn
trong
định
hướng
hành
vi
mua sắm và sử
dụng dịch
vụ của khách hàng,
quảng
cáo là phương pháp
quan
trọng
giúp
doanh
nghiệp
cạnh
tranh,
giành
thị
phần
cho
mình trên
thị
trường hàng

hoa,
dịch
vụ.
Nhằm
đạt
được mục tiêu này ở mức độ
tối
ưu, doanh
nghiệp
dễ có
thể thực hiện
quảng
cáo không
trung
thực
tâng bốc giá
trị

14
chất
lượng
thật
của
hàng
hóa, sản
phẩm.
Đó
là những
phương
thức

như
khẳng
định
"ưu
thế"
của mình
bằng
việc
so sánh
với
hàng
hoa,
dịch
vụ
của thương nhân khác
(quãng cáo so
sánh);
sử
dụng sản
phẩm
quảng
cáo
hoặc những
thông
tin

thừ
gây
nhầm
lẫn lừa doi

khách hàng đừ lôi kéo khách hàng
(quảng
cáo không
trung thực);
quảng
cáo hàng
hóa
của mình trên

sở lạm
dụng
uy
tín của
một
sản phẩm khác
cùng
loại
(quảng
cáo dựa
dẫm).
Những
hoạt
động
quảng
cáo như
thế
đều được
thực
hiện
với

mục
đích
CTKLM.
1.2.

hình
pháp
luật
về
chống CTKLM.
Chúng
ta

thừ thấy rằng,
quá trình
tiếp
nhận
khái
niệm
CTKLM ở
các
quốc
gia
trong
những điều
kiện,
hoàn
cảnh
không
giống

nhau
đã làm
cho pháp
luật
về
chống
CTKLM

mục
tiêu,
lợi
ích
cần
bảo
vệ,
hình
thức

cấu

vị
tri
của
chúng
trong
hệ
thống
pháp
luật
của

mỗi
quốc
gia

rất
khác
nhau.
Do
vậy,
các nhóm
quốc
gia
khác
nhau
sẽ
sử
dụng
các kỹ
thuật
lập
pháp khác
nhau
đừ xây
dựng

hình
pháp
luật
về
CTKLM

cho phù
họp.
Qua
khảo
sát pháp
luật
CTKLM
của các
quốc
gia
trên
thế
giới,
đã
cho
thấy
một số

hình chính như
sau:
1.2. ỉ.

hình
xây dụng đạo
luật
về chổng CTKLM
Mô hình này được
thiết
kế trên cơ
sở

tổng
hợp các quy đinh về
chống
CTKLM
trong
một đạo
luật
mà mục
tiêu của

là bào vệ
người
tiêu dùng
cũng
như
những
chủ thừ
tham
gia
cạnh
tranh
trước các hành
vi
CTKLM. Ví dụ
Luật
về
thị
trường
của
Thụy Điừn


của
Đan
Mạch,
Luật
về hành
vi trong
cạnh
tranh

thông
tin
đối
với
người
tiêu dùng
của
Bỉ; Luật
về
chống
CTKLM
cùa
CHLB
Đức;
Áo

Hy
Lạp.
về
phương

diện
phạm
vi
áp
dụng,
thì một số các quy định của các đạo
luật
này đã
hướng
đến
điều chỉnh quan
hệ
giữa
chù
thừ
tham
gia
cạnh
tranh

người
tiêu dùng;
hoặc
là về
thực
tiễn
kinh
doanh
giữa
các thương

nhân.
Ở đây các đạo
luật
này đã
chiếm
một
vai
trò
trung
tâm
trong việc
bảo vệ cả
hai
nhóm
đối
tượng
và cố nhiên
từ
những điều
kiện
mang
tính
truyền
thống
chúng

thừ
được định
hướng
theo

một
hoặc
nhiều
mục
tiêu
khác.
Từ
phương
diện
bảo vệ
người
tiêu dùng, chúng được
bổ
sung
và hoàn
thiện
thông qua các quy định
của
pháp
luật
về hợp
đồng,
pháp
luật
về
bồi
thường
thiệt
hại
ngoài hợp đồng

cũng
như các quy định đặc
biệt
về bảo vệ
người
tiêu dùng.
15
Xét trên phương
diện kinh
tế thể
hiện
các đạo
luật
kể
trên
đều
dựa trên
một
điều
khoản
tổng
quát
(general
clause)
và mục
tiêu của

là nhằm bảo vệ cả
người
tiêu dùng


chủ
thể
tham
gia
cạnh
tranh.
Điều
khoản
tổng
quát
này
cần
tất
cả
các
hành
vi
chống
lại
cạnh
tranh
lành
mạnh
(tuy
nhiên
có một
ngoại lệ
được
tìm

thấy
trong
Luật
về hành
vi
cạnh
tranh

thông
tin
do
người
tiêu dùng của
Bứ,
trong
đó

hai
điều
khoản
tổng
quát tương
tự nhau,
một
điều
khoản
nhàm
mục
đích bảo
vệ

lợi
ích
của
người
tiêu dùng

điều
khoản
kia
nhàm bảo vệ
lợi
ích của
chủ
thể
tham
gia
cạnh
tranh).
Điều
khoản
tổng
quát
trong
đạo
luật
này
được
bổ
sung
thông

qua
các quy định đặc
biệt
(hoặc
là được
chứa
đựng
trong
bản thân
đạo
luật
đó
hoặc

trong
đạo
luật
đặc
biệt).
Các
quy định

liên
quan
đến nhóm hành
vi
CTKLM (ví
dụ
như
hành

vi
quảng
cáo gây
nhầm
lẫn)

các hình
thức
tiêu
thụ
đặc
biệt
(ví
dụ
như bán hàng
tại
nhà)
Trong
sự so sánh
với
nhóm các nước
theo

hình
này
thì sự
khởi
đầu
trong
các quy định

của
Luật
chống
CTKLM
của
Phần
Lan có sự khác
biệt
nhất
định,
theo
đó Phàn Lan

hai
đạo
luật
để
điều
chứnh
hành
vi
CTKLM:
một đạo
luật
để bảo
vệ
người
tiêu dùng
(Luật
Bảo vệ

người
tiêu dùng)
và một
đạo
luật
nhằm bảo
vệ các
thương nhân trước các hành
vi
CTKLM
(Luật
về CTKLM).
Cả
hai
đạo
luật
này đều

điều
khoản
tổng
quát
cấm
các hành
vi
CTKLM và
cả
hai
đều
chứ

ra rằng
chúng
được
bổ
sung
thông qua các quy định pháp
luật
điều
tiết
ngành
-
các quy định
Hên
quan
đến
đối thủ
cạnh
tranh
và phương
thức
tiêu
thụ
của
các
sản
phẩm đặc thù.
1.2.2.

hình
sử dụng quy

định trong
Bộ
luật
Dân sự
Một
sự
khỏi
đầu thành công
theo
hướng
khác
đã
được tìm
thấy
tại
Italia
và Hà
Lan.

các
quốc
gia
này,
các quy định

bản về
CTKLM đã
được
chứa
đựng

trong
các công
trình
pháp
điển
hóa
của
Luật tư:
Bộ
Luật
Dân Sự
của
Italia
{Codice Civile)

Hà Lan
(Burgerlịịk ỈVetboek).
Theo
đó, Codice
Civile
đã
chứa
đựng
một
điều
khoản
tổng
quát
thiết
lập nghĩa

vụ
cạnh
tranh
lành
mạnh
(Điều
2598).
Ở Hà
Lan,
các nguyên
tắc

bản của cạnh
tranh
lành
mạnh
được đinh
hướng
từ
các nguyên
tấc
cơ bản của chế định
bồi
thường
thiệt
hại
ngoài
họp
đồng
(Điều

6:162
Burgerlijk
Wetboek).
16
Pháp
luật
về CTKLM
của Pháp
cũng

thể
được
so
sánh

đây,
vì các quy
định
quan
trọng
của chế
định
bồi
thường
thiệt
hai
ngoài
hợp
đồng
đã

đóng một
vai
trò
quan
trọng trong
lĩnh
vực pháp
luật
về
CTKLM. Từ các
quy định của chế định
bồi
thường
thiệt
hại
ngoài hợp đồng
trong
Bộ
Luật
Dân Sự
Pháp,
Tòa án
của Pháp
đã phát
triển
trong
án
lệ
một nguyên
tắc

chung
về
CTKLM
(concurrence déloyale),
một
nguyên
tắc
có ý
nghĩa
bào vệ
trực
tiếp
các chủ
thể
tham
gia
cạnh
tranh.
Người
tiêu dùng là
người
được
hường
lợi
gián
tiếp
từ
án
lệ
này. Cột

trụ
thứ
hai
trong
hệ
thảng
pháp
luật
Pháp

Bộ
luật
về tiêu dùng
chứa
đựng một hệ
thảng
các quy định
nhàm duy
trì
sự công
bằng,
minh bạch
với
mục
tiêu
bảo vệ
người
tiêu dùng.
1.2.3.


hình
không
có các
quy
định
đặc
biệt
về
Cạnh
tranh
Điển
hình
trong việc
sử
dụng

hình
áp
dụng
án
lệ
cho các hành
vi
CTKLM

hệ
thảng
pháp
luật
của

Ailen

Vương
quảc
Anh.
Hệ
thảng
pháp
luật
của
hai
nước
này
đã phát
triển
theo
một phương
thức
riêng
biệt

không
thể
so sánh được
trên
cả
hai
phương
diện:
hành

vi
thị
trường và
cạnh
tranh
lành
mạnh.
Trong
lĩnh
vực
pháp
luật
này,
một
khuôn khổ pháp
luật

Ailen
cũng
như ờ
Vương
quảc
Anh -
khuôn khổ pháp
luật
hình thành
từ
án
lệ
phù

hợp
với
truyền
thảng
Common Law -
được
bổ
sung
thông qua hệ
thảng
các quy đinh pháp
luật
thành
văn.
Trong
phạm
vi
nguồn của
Common Law
đã
cung cấp
không
chỉ
các quy
tắc
của
pháp
luật
hợp đồng
mà còn cả các quy

tắc
của
pháp
luật
về
bồi
thường
thiệt
hại
ngoài hợp đồng các
lĩnh
vực
pháp
luật

liên
quan
đến
cạnh
tranh.
Ở đây
dường
như
không
thể
hình thành
một
quy định
mang
tính

tổng
quát về
cạnh
tranh
lành
mạnh
thậm
chí

một nguyên
tắc
chung ngay
cả
trong
các quy định về
điều
tiết
ngành
kinh tế.
Tại
Mỹ,
với
truyền
thảng
common
law,
không có văn bản pháp
luật
riêng
Điều

chinh
hành
vi
CTKLM mà
chúng
nằm
rải
rác

các
Án
lệ

một sả đạo
luật
khác
nhất
là các
luật
trong
lĩnh
vực
SHTT. CTKLM
(Unfair competition),
theo
pháp
luật
nước
này,
không

phải
là "một hành
vi
gây
thiệt
hại
ngoài
hợp
đồng
cụ
thể"
mà là
"nhóm hành
vi
gây
thiệt
hại
ngoài họp
đồng"
nhằm bảo vệ các
lợi
ích thương
mại.
• t
17
Ị ») ;
1.3. Vị
trí
của
pháp

luật
về
chống CTKLM
trong
hệ
thống
pháp
luật kỉnh
tế
Khung
pháp
luật
kinh tế
là khái
niệm
rộng
gồm
tổng
thể
các yếu
tố thể hiện
cấu
trúc pháp
luật
điều
chỉnh
các
quan
hệ xã
hội trong

lĩnh
vực
kinh tế
của một
quốc
gia.
Theo
nghĩa
hẹp, với
những
yếu tố
cấu trúc bên
trong,
khung
pháp
luật
kinh tế
bao
gồm các quy phạm, các
chế
định pháp
luật,
các ngành
luật
trực
tiếp
điều
chỉnh
các
quan

hệ
kinh tế
phát
sinh trong đẫi
sống
kinh tế

hội.
Để
điều
chỉnh
các
quan
hệ này,
Nhà nước
phải
ban hành một hệ
thống
pháp
luật
bao gồm các văn bản pháp
luật
khác
nhau.
Ở nước
ta,
các văn bản pháp
luật
này
tạo

thành một
lĩnh
vực pháp
luật

vẫn
được
gọi là
pháp
luật
kinh
tế.
Nếu xét về
chức
năng
thì
hệ
thống
này có
thể
gồm ba bộ
phận
hợp thành, đó
là:
Pháp
luật
đầu vào (pháp
luật
gia
nhập

thị
trưẫng);
pháp
luật
điều
chinh
các
quan
hệ
thị
trưẫng và pháp
luật
đầu
ra
(pháp
luật
thoát
khỏi thị
trưẫng).
Trong
đó,
pháp
luật
cạnh
tranh
thuộc
nhóm pháp
luật
điều
chỉnh

quan
hệ
thị
trưẫng.
Cạnh
tranh
vừa là quy
luật
vừa là môi trưẫng vận động
của
nền
kinh tế thị
trưẫng.
Hoạt
động
cạnh
tranh
xuất
hiện trong
mọi
lĩnh
vực của
nền kinh tế
và bản thân các
quan
hệ
kinh tế trong
nền
kinh tế thị
trưẫng đều

chứa
đựng
trong

những
yếu
tố
cạnh
tranh.
Pháp
luật
với
chức
năng
điều
chỉnh
các
quan
hệ xã
hội

nhiệm
vụ định hướng và đưa các
quan
hệ này
theo
một
trật
tự
nhất

định phù hợp
với
ý chí và định hướng
của
Nhà
nước.
Bởi vậy,
để đảm bảo các
quan
hệ
kinh tế
vận hành có
hiệu quả,
theo
định hướng đã
định;
đòi
hỏi
pháp
luật
cạnh
tranh
phải
đáp ứng các
điều
kiện
như: đinh
ra
khuôn khổ cho quá trình
cạnh

tranh,
bảo đảm môi trưẫng
cạnh
tranh
lành
mạnh;
chống
lại

hiệu
quả các hành
vi
CTKLM,
mọi xu hướng dẫn
tới
HCCT,
triệt
tiêu
cạnh
tranh.
5
Với
những
mục đích đó, pháp
luật
về
cạnh
tranh

thể

can
thiệp
và định
hướng
vào hầu
hết
các nhóm
quan
hệ
kinh tế
do pháp
luật
kinh tế
điều
chỉnh.
Và nó
phải
được hình thành trên cơ sở đồng bộ
với
các nguyên
tắc
định
khung
pháp
luật
khác
nhu: tự
do
cạnh
tranh; tự

do
khế ước; tự
do hình thành giá
cả;
bảo đảm sự bình
đẳng
trước pháp
luật
của các chủ
thể kinh
doanh
trong
điều
kiện
nền
kinh tế thị
5
Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soái độc quyền và chống CTKLM ờ Việt Nam, Nhà xuất bàn Chinh trị
Quốc
gia,

nội,
2004,
Tr.45
18
trường
cùng các
chuẩn
mực
về đạo đức

kinh
doanh,
truyền
thống,
tập
quán thương
mại
lành
mạnh
được xã
hội
và pháp
luật
thừa
nhận.
Cũng chính
những
điều
đó sẽ là
nguy
cơ làm
giảm
tính
hiệu
quả
của thị
trường,
tạo

hội

cho các hành
vi
CTKLM
phát
triển.
Do
không có sự
điều
tiết
của
pháp
luật
cạnh
tranh, thị
trường
sẽ bị
"thả nỗi",
cùng
với
sự
cấm
đoán

quáng sẽ
tạo ra
sự hỗn
độn,
nghèo nàn
của
thị

trường pháp
luật
kinh tế
chuyên ngành
phải

sự
hỗ
trợ
đắc
lực
của các quy định
mang
tính nguyên
tắc

định
hướng
của pháp
luật
cạnh
tranh
nói
chung
và pháp
luật
chống
CTKLM
nói
riêng.


ngược
lại
với
những
quy phạm chủ yếu là
mang
tính
cấm
đoán,
mang
tính định
hình,
thiếu
tính
định
lượng
của
các quy phạm pháp
luật
cạnh
tranh,
thì
để có
thể
áp
dụng
được
trong
thực

tiễn
cẩn

vai
trò
rất
quan
trọng
của các đạo
luật
chuyên ngành

liên
quan
trong việc
nhận dạng
hành
vi
chủ
thể
thuộc
về các
lĩnh
vực chuyên ngành khác
nhau.
1.4.
Mồi
quan hệ
giữa
pháp

luật
về
chống CTKLM
với
luật
chuyên ngành

thể thấy
rằng,
xuất
phát
từ
tính cụ
thể
hơn
của
luật
chuyên ngành so
với
luật
chung

trên
thế
giới
đã hình thành nguyên
tắc

bản
trong việc

áp
dụng
luật
chung

luật
chuyên ngành
(Lex
Generalis

Lex
Specialis)

khi

xung
đột
giữa
chúng
với
nhau
thì
có ưu
tiên
áp
dụng
luật
chuyên ngành.
Việc
đề

ra
nguyên
tắc
này

để
đảm
bảo tính
hiệu
quả
của
việc
điều
chỉnh
pháp
luật
đối với
các
quan
hệ

hội

chi

luật
chuyên ngành mới

thể
quy định được một cách

chi
tiết
đầy
đủ
các vấn
đề
đặc thù phát
sinh trong
thực
tiễn.
Phần
trình
bày
dưới
đây
sẽ
đề
cập tới
mối
quan
hệ
giữa
pháp
luật
chống
CTKLM
với
các bộ
phận
pháp

luật
chuyên ngành như: pháp
luật
chống
hạn chế
cạnh
tranh
-
HCCT,
pháp
luật
bảo
vệ
người
tiêu
dùng,
pháp
luật
bảo hộ sở hữu
trí tuệ.
1.4.1.
Trong quan
hệ
với
pháp
luật
chống HCCT
Xét về
lịch
sử hình thành cùa

hai
bộ
phận
hợp thành
của
pháp
luật
cạnh
tranh,
thì pháp
luật
về
chống
CTKLM
ra đời
sớm hơn
pháp
luật
về
kiểm
soát độc
quyền
(hay
còn
gọi

pháp
luật
về hạn
chế cạnh

tranh).
Pháp
luật
về
CTKLM sơ
khởi
chỉ
nhằm bảo vệ cá nhân các chủ
thể
cạnh
tranh
còn pháp
luật
về
chống
HCCT
có mục
tiêu duy
trì
sự
cạnh
tranh
hoàn
hảo.
Theo
quan
niệm
hiện nay,
Pháp
luật

về
CTKLM
19

×