Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM GIÁO dục TIỂU học tạo hứng thú cho học sinh ở tiết dạy thứ 5 ở mỗi buổi học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.32 KB, 18 trang )

TRƯỜNG…
KHOA …


TIỂU LUẬN
TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH Ở TIẾT DẠY THỨ
5 Ở MỖI BUỔI HỌC

Họ tên học viên:…………………….
Lớp:…………….,

- 2022


MỤC LỤC
Trang
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
2.
Mục đích nghiên cứu
3.
Nhiệm vụ nghiên cứu
4.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5.
Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1.
Cơ sở lý luận


1
1
2
3
3
3

2.
Cơ sở thực tiễn
3.
Các biện pháp nghiên cứu
III.
KẾT QUẢ VÀ ỨNG DỤNG
1.
Kết quả
2.
Ứng dụng
KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
IV.
1.
Kết luận
2.
Bài học kinh nghiệm
TÀI LIỆU THAM KHẢO

6
7
14
14
14

14
14
15
16

4


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mọi hoạt động của con người đều có sự thơi thúc, định hướng từ bên
trong con người hướng vào đối tượng nào đó, nhằm đạt tới cái gì, sự thơi thúc
định hướng từ bên trong của con người xuất phát từ nguồn gốc nội tại chính là
các nhu cầu. Ph.Ăng ghen đã viết: “Người ta quen giải thích các hành động của
mình bằng sự suy nghĩ của mình trong khi đáng lẽ phải giải thích nó bằng các
nhu cầu của mình (dĩ nhiên các nhu cầu này đều được phản ánh vào trong đầu
óc, đều được ý thức)” [1, tr.619].
Bác Hồ đã từng nói: ”Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm
trồng người” [3, tr.318] câu nói ấy khẳng định vai trị, trách nhiệm đối với người
làm cơng tác giáo dục đó là chăm lo cho sự nghiệp “trồng người”, trong đó vai
trị của người làm cơng tác trực tiếp giảng dạy nói chung, vai trị của một giáo
viên làm cơng tác chủ nhiệm nói riêng rất quan trọng trong việc giáo dục và hình
thành nhân cách cũng như cung cấp kiến thức cho học sinh. Một việc làm nghe
qua thì có vẻ đơn giản nhưng đi vào thực tế thì khơng hề dễ chút nào. Nếu giáo
viên khơng tâm huyết với nghề, khơng có tinh thần trách nhiệm cao thì khó mà
hồn thành nhiệm vụ. Chất lượng học tập của học sinh, nhân cách, đạo đức, lối
sống… của học sinh rồi sẽ ra sao. Đặc biệt là học sinh cấp tiểu học là lứa tuổi
đang bước vào giai đoạn đầu của tuổi dậy thì, ngồi những thay đổi về thể chất,
các em cũng thay đổi về tâm lý, tình cảm. Để nâng cao chất lượng giáo dục thì
tát yêu phải nâng cao chất lượng trong từng giờ học của học sinh, không chỉ đầu

buổi học mà cả trong các tiết cuối buổi.
Như chúng ta đã biết, mục tiêu giáo dục phổ thông đặt ra là: Giúp học
sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ
bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động sáng tạo, hình thành nhân
cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao
động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [2, tr.4]. Chương trình giáo dục
phổ thơng tổng thể 2018 cũng đã nêu: Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
1


động, sáng tạo của học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi dưỡng cho học
sinh phương pháp tự học, khả năng tương tác, rèn kĩ năng vận dụng kiến thức
vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách
nhiệm học tập cho học sinh.
Để đạt được mực tiêu trên thì vấn đề tạo hứng thú cho học sinh, đặc biệt
là vào cuối buổi học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thực tiễn chỉ ra, khi bước
vào lớp - tiết 5 của mỗi buổi học - chúng ta thường thấy những gương mặt bơ
phờ, mệt mỏi hay một khơng khí ngồi chờ tiếng chuông reng tan trường. Vậy,
làm thế nào để lôi cuốn học sinh tích cực tham gia vào bài học, làm thế nào để
tạo được một tiết dạy - học thật sinh động, thoải mái hay làm thế nào để xua tan
những nét mệt mỏi trên gương mặt các em… được đặt ra. Sau đây là một vài
kinh nghiệm mà tôi muốn được chia sẻ cùng đồng nghiệp và nhờ đó sẽ giúp tơi
có cơ hội hồn thiện, nâng cao nghiệp vụ giảng dạy của mình thơng qua những ý
kiến phản hồi từ chính đồng nghiệp. Chính vì vậy tơi đã mạnh dạn đưa ra sáng
kiến: ”Tạo hứng thú cho học sinh ở tiết dạy thứ 5 ở mỗi buổi học”.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua đề tài này, tơi muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy
học cho học sinh cấp tiểu học, để các em hứng thú đến trường, đồng thời tìm ra
phương pháp giúp giáo viên dạy học sinh vào cuối buổi học đạt hiệu quả cao

hơn. Làm cho hoạt động dạy - học đạt kết quả tốt, giúp học sinh Tiểu học khơi
nguồn cảm xúc, trí tuệ, khơng những giúp các em tiếp thu kiến thức bài học một
cách dễ dàng mà còn giúp các em củng cố và khắc sâu các kiến thức. Khi đã lĩnh
hội đựợc các em mới hứng thú đến trường.
Đối tượng giảng dạy của chúng ta chính là học sinh tiểu học. Đây là lứa
tuổi học sinh chuyển tiếp từ giai đoạn vui chơi sang giai đoạn học tập, khả năng
tiếp thu của các em rất tốt, khả năng lĩnh hội tri thức ngày càng bộc lộ và phát
triển rõ rệt. Đặc biệt là hứng thú nhận thức, hứng thủ tìm hiểu thế giới xung
quanh, các em thể hiện tính tò mò, ham hiểu biết. Tuy nhiên sự phát triển hứng
thú học tập của học sinh phụ thuộc trực tiếp vào việc tổ chức dạy học của giáo
viên, nhất là trong giai đoạn cuối buổi học.
2


3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về tạo hứng thú cho học sinh ở tiết dạy thứ
5 ở mỗi buổi học.
- Chỉ ra thực trạng hứng thú học sinh ở tiết dạy thứ 5 ở mỗi buổi học.
- Đề xuất một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh ở tiết dạy thứ 5 ở
mỗi buổi học.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Hứng thú cho học sinh ở tiết dạy thứ 5 ở mỗi buổi học.
Phạm vi nghiên cứu: Học sinh tiểu học.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện có kết quả cao đề tài này tác giả đã sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu sau:
Bước đầu nghiên cứu đề tài tôi chọn phương pháp đọc sách, nghiên cứu
tài liệu, phương pháp trên kết hợp với kiến thức và hiểu biết của mình đã hỗ trợ
tơi có được một số kiến thức nhất định nghiên cứu ra sáng kiến này.
Tiếp theo, để nắm được đối tượng nghiên cứu và đạt được kết quả tôi

chọn phương pháp nghiên cứu thực tế, để tơi có thể giúp mình học hỏi, trao đổi
những kinh nghiệm đồng nghiệp, quan sát trực tiếp lớp học, nắm được căn bản
tâm lý của các em học sinh ở các tiết cuối buổi học.
Để có kết quả khảo nghiệm tôi chọn phương pháp hỏi - đáp bước đầu tơi
đã phần nào hiểu sản phẩm và có những số liệu nhất định.
Cuối cùng, khi có số liệu tôi chọn phương pháp so sánh và tổng hợp với
phương pháp này tơi có thể so sánh, đối chiếu, tổng hợp sản phẩm khi chưa áp
dụng và sau khi đã áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

3


II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, giáo dục tiểu học được coi là nền tảng.
Các em là những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển bền vững
của giáo dục Tiểu học. Đặc biệt, ở lứa tuổi này, các em hiếu động, thích khám
phá kiến thức mới nhưng cũng rất dễ bị phân tán, chóng chán nếu các em không
hứng thú với việc học.
Hứng thú học tập được coi là một trong những yếu tố quan trọng nhất thôi
thúc học sinh chủ động lĩnh hội tri thức một cách nhanh hơn và sâu sắc hơn.
Hứng thú học tập có vai trị to lớn trong việc nâng cao chất lượng học tập cho
học sinh và sự phát triển nhân cách cho các em.
Hứng thú là một thuộc tính tâm lí - nhân cách của con người. Hứng thú có
vai trò rất quan trọng trong học tập và làm việc, khơng có việc gì người ta khơng
làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M.Gorki từng nói: “Thiên tài nảy nở từ
tình u đối với cơng việc” [4, tr.89]. Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính
tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy
mạch nguồn của sự sáng tạo.Trong khi đó, việc khảo sát thực tế dạy học ở tiểu
học bằng nhiều con đường (lấy phiếu hỏi từ các cấp quản lí giáo dục, từ các giáo

viên, các bậc phụ huynh và học sinh, quan sát và làm các đo nghiệm khách quan
trên học sinh) đã cho thấy nhiều học sinh tiểu học khơng có hứng thú trong học
tập. Điều này vừa được xem như là một biểu hiện vừa được xem như một
nguyên nhân cơ bản của việc suy giảm chất lượng dạy học ở tiểu học.
Những biện pháp tạo hứng thú trong bài viết này xuất phát từ 3 luận điểm
cơ bản: Một là: Hiệu quả thực sự của việc dạy học là học sinh biết tự học; tự
hoàn thiện kiến thức và tự rèn luyện kỹ năng. Hai là: Nhiệm vụ khó khăn và
quan trọng nhất của giáo viên là làm sao cho học sinh thích học. Ba là: Dạy học
ở tiểu học phải làm cho học sinh cảm thấy biết thêm kiến thức của mỗi bài học ở
mỗi mơn học là có thêm những điều bổ ích, lý thú từ một góc nhìn cuộc sống.
Với ba luận điểm này, chúng tôi quan niệm rằng thực chất của việc dạy
học là truyền cảm hứng và đánh thức khả năng tự học của người học. Còn nếu
4


quan niệm người dạy truyền thụ, người học tiếp nhận thì người dạy dù có hứng
thú và nỗ lực đến mấy mà chưa truyền được cảm hứng cho học sinh, chưa làm
cho người học thấy cái hay, cái thú vị, giá trị chân thực mà tri thức đem lại thì
giờ dạy vẫn khơng có hiệu quả. Người học chỉ tự giác, tích cực học tập khi họ
thấy hứng thú. Hứng thú khơng có tính tự thân, khơng phải là thiên bẩm. Hứng
thú không tự nhiên nảy sinh và khi đã nảy sinh nếu khơng duy trì, ni dưỡng
cũng có thể bị mất đi. Hứng thú được hình thành, duy trì và phát triển nhờ mơi
trường giáo dục với vai trị dẫn dắt, hướng dẫn, tổ chức của giáo viên. Giáo viên
là người có vai trị quyết định trong việc phát hiện, hình thành, bồi dưỡng hứng
thú học tập cho học sinh.
Quá trình dạy học gồm 5 thành tố cơ bản: Mục đích dạy học, nội dung
dạy học, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, phương tiện và thiết bị dạy
học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Với các thành tố đó, có nhiều nhóm biện
pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh và chúng thuộc những bình diện khác
nhau của q trình dạy học. Có biện pháp tác động vào việc trình bày mục tiêu

bài học, có biện pháp tác động vào nội dung dạy học, có biện pháp tác động vào
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, có biện pháp tác động vào phương
tiện, thiết bị dạy học, có biện pháp tác động vào kiểm tra đánh giá (bao gồm cả
nhận xét), tác động vào quan hệ tương tác thân thiện giữa thầy - trị, trị - trị...
Trước thời đại cơng nghiệp hố - hiện đại hoá của đất nước, Đảng ta xác
định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, trẻ em là tương lai của đất nước
đang cần được chăm sóc, ni dưỡng ngay từ thời thơ ấu. Điều đó thể hiện tầm
quan trọng của việc đào tạo thế hệ trẻ đối với đất nước. Vì ”Muốn xây dựng đất
nước, trước hết phải phát triển giáo dục. Muốn trị nước phải trọng dụng người
tài”. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Do đó, trong những năm
qua cải cách, đổi mới và đầu tư cho giáo dục liên tục được chú ý đến. Điều đó
đặt ra cho q trình giáo dục nói chung và q trình dạy học nói riêng khơng
ngừng phát triển để đáp ứng nhu cầu của thời đại. Làm được điều đó địi hỏi
phải đổi mới tư duy, đổi mới quản lý giáo dục, trong đó nhiệm vụ đặt ra cho
từng mơn học và trách nhiệm của của giáo viên hết sức cần thiết. Chương trình
5


tiểu học là chương trình dạy học tương đối khó đối với học sinh, ngồi việc ơn
tập hệ thống lượng kiến thức ở các lớp dưới cịn có các kiến thức kĩ năng mới,
khó và dễ nhầm lẫn. Đặc biệt là lớp cuối cấp học, học sinh không những phải
tiếp thu, lĩnh hội được các kiến thức ấy mà còn là hành trang chuẩn bị cho các
em tiếp tục học trung học cơ sở. Nhưng để trẻ tiếp nhận có kết quả tốt thì chúng
ta khơng thể chỉ dạy học và nhồi nhét các kiến thức ấy mà chúng ta làm sao vừa
khắc sâu kiến thức vừa tạo cho tiết học nhẹ nhàng, trẻ có niềm vui, sự hứng thú
trong học tập cho các em. Mà đã vui trong học tập tất yếu học sinh sẽ hứng thú
đến trường. Vì vậy, trước đó, các nhà tâm lí học đã nói rằng: Hứng thú có một
vai trị quan trọng trong q trình hoạt động của con người. Đó là động cơ thúc
đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động ấy. Một khi đã có hứng thú dù
phải khó khăn con người cũng vẫn cảm thấy thoải mái và đạt được hiệu quả cao.

Ở Tiểu học, trong hoạt động học tập muốn đạt được kết quả cao thì các em cần
có hứng thú. Học sinh muốn đạt được điều ấy cần có sự u thích đến trường để
thu thập, lĩnh hội những thông tin, nhận được những tri thức, đạt được kết quả
cao cho bản thân mình.
2. Cơ sở thực tiễn
- Thuận lợi
Trường Tiểu học luôn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp uỷ, các
ban ngành và sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nên nhà trường được xây dựng
khang trang, cơ sở vật chất tương đối đầy đủ.
Bên cạnh đó Ban giám hiệu nhà trường nhiệt tình, quan tâm đến việc học
của các em.
Đa số cha mẹ học sinh đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của
giáo dục, đặc biệt là giáo dục ở bậc Tiểu học - bậc học nền tảng cho q trình
học của con em mình. Họ đã có ý thức tự giác, thái độ tích cực trong việc giáo
dục con em mình và kết hợp với nhà trường để giáo dục học sinh.
- Khó khăn
Học sinh nhà trường có chất lượng khơng đồng đều, nhiều em có hồn cảnh
khó khăn. Bên cạnh đó, phụ huynh đa số làm nơng nghiệp, kinh tế còn nghèo nàn
6


và phần đông chưa thực sự quan tâm đến con cái, do nhận thức chưa đầy đủ về
công tác giáo dục nên nhiều bậc phụ huynh chủ yếu phó thác cho nhà trường.
Đối với học sinh bậc Tiểu học, các kiến thức hiện nay không phải là đơn
giản, dễ dàng tiếp thu, lĩnh hội nên một số em thấy “học khó”. Vì vậy việc học
tập của trẻ chưa đạt kết quả cao.
Nhiều giáo viên chưa đầu tư sâu, giúp học sinh u thích các mơn học,
hứng thú đến lớp mà chủ yếu truyền tải nội dung, kiến thức cho các em.
Một số gia đình chưa quản lí tốt việc con em học hành ở nhà và thiếu sự
phối hợp với giáo viên chủ nhiệm.

Một số gia đình quan tâm đến việc học tập của con em nhưng họ là người
không được đào tạo nghề dạy học, khơng có phương pháp và kĩ năng phù hợp
trong việc giáo dục các em.
3. Các biện pháp nghiên cứu
Khơng có một phương pháp nào là tối ưu. Bên cạnh những phương pháp
dạy học hiện đại: thảo luận, động não, đóng vai... Người thầy cần phát huy
những phương pháp dạy học truyền thống: quan sát, hỏi đáp, thực hành, thí
nghiệm, thuyết minh... Tuy nhiên, quan điểm đề ra biện pháp là phải lấy học
sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực của học sinh. Đa dạng hóa các hình
thức tổ chức học tập như: cá nhân, tổ (nhóm), lớp. Tùy theo từng mục tiêu cần
đạt được mà giáo viên lựa chọn, phối hợp một cách hợp lý các hình thức học tập.
Để tạo hứng thú cho học sinh ở tiết dạy thứ 5 ở mỗi buổi học cần làm tốt một số
biện pháp sau:
Một là, tạo hứng thú học tập bằng cách làm cho học sinh nhận thức được
mục tiêu, lợi ích của bài học.
Hứng thú là một thuộc tính tâm lí mang tính đặc thù cá nhân. Hứng thú có
tính lựa chọn. Đối tượng của hứng thú chỉ là những cái cần thiết, có giá trị, có
sức hấp dẫn với cá nhân. Vậy vấn đề gì thu hút sự quan tâm, chú ý tìm hiểu của
các em? Trả lời được câu hỏi này nghĩa là người giáo viên đã sống cùng với đời
sống tinh thần của các em, biến đổi những nhiệm vụ học tập khô khan phù hợp
7


với những mong muốn, nhu cầu, sở thích, nguyện vọng (tất nhiên là phải tích
cực, chính đáng) của học sinh.
Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho học sinh ý thức
được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập. Mục tiêu này có thể được trình
bày một cách tường minh ngay trong tài liệu học tập hoặc có thể trình bày thơng
qua các tình huống dạy học cụ thể. Ngay từ những ngày đầu học sinh đến
trường, chúng ta cần làm cho các em nhận thức về lợi ích của việc học một cách

tích cực và thiết thực.
Với mỗi bài học cụ thể, giáo viên cần giúp cho học sinh nhận ra tính lợi
ích của một nội dung nào đó. Chẳng hạn, sự cần thiết của dấu phẩy sẽ được làm
rõ khi chỉ ra sự khác nhau về nghĩa của hai câu: Đêm hôm, qua cầu gãy và Đêm
hôm qua, cầu gãy. Tính lợi ích của một nội dung dạy học cũng được thể hiện rõ
khi chúng ta đặt ra sự đối lập giữa “có nó” và “khơng có nó”, ví dụ: Điều gì sẽ
xảy ra khi chúng ta khơng có chữ viết? Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta khơng
có những từ đồng nghĩa, khơng có câu ghép?...
Hai là, tạo hứng thú học tập cho học sinh bằng cách làm việc nhóm.
Tăng cường tổ chức cho học sinh làm việc nhóm (nhóm 2,3,4...) để học
sinh có cơ hội trao đổi bàn bạc. Tuy nhiên, không phải lúc nào học tập nhóm
cũng là tốt. Chúng ta chỉ nên cho học sinh làm việc nhóm khi câu hỏi đặt ra khá
rộng, khó, cần sự góp ý của nhiều người thì làm việc nhóm mới thật cần thiết và
đạt hiệu quả.
Học theo nhóm là hình thức học tập có sự hợp tác của nhiều thành viên
trong lớp nhằm giải quyết những nhiệm vụ học tập chung. Được tổ chức một
cách khoa học, học theo nhóm sẽ phát huy tính tích cực, sáng tạo, năng lực, sở
trường, tinh thần và kĩ năng hợp tác của mỗi thành viên trong nhóm. Trong giờ
học Tiếng Việt, biện pháp này đã tạo nên một môi trường giao tiếp tự nhiên,
thuận lợi, đó là hoạt động giao tiếp nhằm trao đổi, chia sẻ kiến thức, kinh
nghiệm của những người bạn.
Tạo hoạt động nhóm là một cách hay giúp giáo viên thu hút được bài
giảng hiệu quả. Đúng như thế đôi khi vừa học vừa thư giản sẽ là cách hay giúp
cho học sinh tiếp thu bài khá là nhanh.
8


Học sinh tiểu học vẫn đang ở độ tuổi chơi nên thầy cơ khơng nên chỉ có
dạy và dạy suốt cả một tiết học mà hãy cho bé thư giãn đầu óc. Đơi khi hoạt
động nhóm khơng phải là chơi mà bạn vẫn cho trẻ học nhưng bằng cách phân

chia nhóm cho các bé thảo luận. Việc tạo nhóm sẽ giúp học sinh tự suy nghĩ, bên
cạnh đó cịn gắn kết các em lại với nhau thành một tập thể đoàn kết.
Đặc biệt là cuối buổi học, các em vẫn chưa ý thức nhiều về việc học,
nhiều em vẫn thích chơi hơn thích học. Một số em vẫn tranh nói chuyện riêng,
làm việc riêng, rủ rê các bạn khác cùng nói chuyện do đó nhóm trưởng phải ln
để các bạn trong tình trạng đang bận “làm việc”. Giáo viên chủ nhiệm ln tạo
cho các em tính tự giác cao, đặc biệt tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong
cơng việc địi hỏi rất lớn. Bởi nhiệm vụ của nhóm có hồn thành hay khơng và
hồn thành ở mức nào phụ thuộc rất lớn vào sự tự giác hoạt động của các thành
viên trong nhóm.
Trong q trình các nhóm làm việc giáo viên đến các nhóm nhắc nhở,
chia sẻ động viên kịp thời đối với các nhóm. Khi có giáo viên đến từng nhóm thì
các em thấy hứng thú, tự tin hơn trong học tập để rồi các em không ngại chia sẽ
những khó khăn vướng mắc với giáo viên. Giáo viên có thể gợi ý những vướng
mắc mà các em cần được tháo gỡ, giáo viên không nên đưa trực tiếp kết quả mà
cần đặt những câu hỏi gợi ý có vấn đề để các em tháo gỡ những vướng mắc đó.
Một điều quan trọng là giáo viên ln bám sát các nhóm, gần gũi, chia sẻ, hỗ
trợ, nhắc nhở, động viên kịp thời đối với các nhóm. Các em khơng thể nào gây
rối, mất trật tự khi có cơ giáo luôn bám sát nhắc nhở thường xuyên.
Là giáo viên đương nhiên sẽ nắm rất rõ những học sinh “đặc biệt”. Với
mỗi học sinh “đặc biệt”, giáo viên phải có cách thức phù hợp để các em không
bị cô lập với nhóm, các em càng phải được giáo viên, nhóm trưởng và các bạn
trong nhóm “quan tâm” nhiều hơn. Ngồi ra, giáo viên tạo cơ hội cho các nhóm
trưởng cùng chia sẻ kinh nghiệm điều hành nhóm,…Để mỗi nhóm, mỗi thành
viên của nhóm phát huy tốt vai trị, trách nhiệm của mình.
9


Ba là, tạo hứng thú học tập bằng cách tổ chức các trò chơi nhỏ trong lớp.
Trước hết, khi giáo viên vào lớp, nên dành khoảng 2 hoặc 3 phút để trò

chuyện, trao đổi về các vấn đề mà các em quan tâm; hoặc gọi một em đứng lên
hát một bài để tạo khơng khí thoải mái, hứng thú cho học sinh.
Bên cạnh đó, khơng nên kiểm tra bài cũ theo cách truyền thống để tránh
tạo khơng khí nặng nề, căng thẳng. Giáo viên nên đưa ra những câu hỏi kiểm tra
bài cũ dưới dạng đố vui có thưởng (cộng điểm); điều này tạo động lực cho học
sinh chủ động, tích cực trong việc tư duy, suy nghĩ để tìm ra câu trả lời. Qua đó,
giáo viên vẫn có thể kiểm tra được mức độ nhớ và hiểu bài của học sinh.
Ngồi ra, trong q trình dạy, giáo viên vẫn có thể lồng ghép những trị
chơi, những cuộc thi giữa các nhóm để xua tan mệt mỏi, tạo tiếng cười, đó cũng
chính là giúp các em tích cực, chủ động tiếp thu bài mới.
Ví dụ: Giáo viên chia học sinh thành 6 nhóm. Các em sẽ hỏi - đáp để loại
trực tiếp đối phương. Câu hỏi do tự các em nghĩ ra nhưng phải liên quan tới nội
dung bài đọc. Mỗi câu hỏi, các em có một phút họp nhóm trước khi đưa ra đáp
án. Nhóm nào khơng thể trả lời hoặc trả lời sai sẽ bị loại. Đội còn lại cuối cùng
sẽ là đội thắng cuộc.
Ví dụ về trị chơi: Quản trị quy định một nhóm đóng giả gà con. Nhóm
khác đóng giả gà mái, nhóm khác nữa đóng giả gà trống. Khi được đọc đến tên
mình cùng động tác chỉ huy tay của quản trị, lập tức nhóm phải phát ra tiếng
kêu của gà. Ví dụ: Gà con kêu chíp chíp…Gà mái kêu cục ..tác…Gà trống kêu
ị…ó…o… Quản trị chỉ tay vào nhóm nào mà nhóm đó khơng đọc được hoặc
đọc chậm, đọc sai quy định thì phạm luật. Để xem nhóm nào phản xạ tốt nhất,
quản trị vừa làm động tác chỉ vào nhóm đó nhưng lại gọi trên nhóm khác, các
em sẽ dễ bị nhầm. Ai làm sai sẽ bị phạt.
Trong thực tế dạy học, giờ học nào tổ chức trị chơi cũng đều gây được
khơng khí học tập hào hứng, thoải mái, vui nhộn. Nghiên cứu cho thấy, trị chơi
học tập có khả năng kích thích hứng thú và trí tưởng tượng của trẻ em, kích
thích sự phát triển trí tuệ của các em.
10



Trò chơi học tập nhất thiết phải là một bộ phận của nội dung bài học, phải
là một phần cấu tạo nên bài học. Trong trò chơi, khi mọi thứ đều thật, chẳng hạn
trong môn Tiếng Việt, từ vẫn là từ, câu vẫn là câu, trò vẫn là trò, thầy vẫn là
thầy... trò chơi sẽ bớt phần thú vị. Trò chơi cuốn hút trẻ em hơn nếu có được sự
giả định từ tên gọi, từ người tham gia, từ tình huống đến kết quả chơi. Ví dụ
nhóm trị chơi: Trong vườn cổ tích đã khai thác tính giả định của trị chơi từ
nguồn văn bản truyện cổ. Khi đó, trị chơi vừa minh họa sinh động kiến thức, kỹ
năng tiếng Việt, vừa tạo ra được một khơng khí cổ tích huyền diệu, gợi lại nội
dung các văn bản truyện cổ mà học sinh đã học ở phân môn Tập đọc hay Kể
chuyện. Ví dụ, từ truyện Tấm Cám, xây dựng trị chơi Chim sẻ giúp cơ
Tấm dành cho các bài tập nhận diện, phân loại... Từ truyện Sơn Tinh Thủy Tinh,
có thể xây dựng trị chơi Dâng núi chống lụt cho những bài tập chính tả, làm
giàu vốn từ...
Có thể kể vào trò chơi học tập hoạt động sắm vai. Đây là một trị chơi có
rất nhiều lợi thế để dạy học Tiếng Việt. Sắm vai trong dạy học là nhận một vai
giao tiếp nào đó nhằm thể hiện sinh động nội dung học tập. Hình thức học tập
sắm vai nhiều khi rất vui nhờ những chi tiết hài hước, ngộ nghĩnh do những diễn
viên bất đắc dĩ tạo nên. Hình thức sắm vai đặc biệt phát huy tác dụng trong các
giờ tập làm văn rèn kĩ năng nói, nó giúp học sinh được thực hành giao tiếp, được
quan sát trực tiếp hoạt động nói với sự kết hợp sinh động của phương tiện âm
thanh và các yếu tố phi ngôn ngữ.
Bốn là, tạo hứng thú học tập bằng việc xây dựng mơi trường thân thiện
giữa thầy và trị, trị và trò.
Để học sinh “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” người giáo viên là
người có vai trị quan trọng nhất. Bên cạnh việc tác động vào nội dung và
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, việc thiết lập được mối quan hệ hợp
tác tích cực tốt đẹp giữa thầy và trò, giữa các trò cũng sẽ tạo hứng thú cho học
sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu khơng khí thân ái
hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cho cả thầy và trị. Bởi vì, học là
hạnh phúc khơng chỉ vì những lợi ích mà nó mang lại, mà hạnh phúc còn nằm

11


ngay trong chính sự học. Thử nghĩ nếu các em đến trường ln trong tâm trí nỗi
sợ hãi với thầy cơ, sợ bị la mắng…chắc chắn sẽ khơng cịn tâm trí để hứng thú
học hành, sẽ khơng muốn đến trường. Người giáo viên vừa là người giúp các em
lĩnh hội kiến thức, còn là người truyền lửa, truyền đam mê học hành cho các em.
Chính vì thế người giáo viên còn là người cha, người mẹ, người bạn của các em
ở trên lớp, biết chia sẻ, thấu hiểu các em có như vậy các em mới tự tin, hứng thú
trong học tập, nhất là trong những tiết cuối buổi học.
Đôi khi thu hút bài giảng bằng cách rất nhỏ đó chính là sự tương tác giữa
học sinh và giáo viên. Trong mỗi giờ học giáo viên có thể giao lưu với học sinh
bằng nhiều cách khác nhau. Có thể giáo viên hỏi học sinh trả lời hoặc giúp các
em thư giản bằng việc nói chuyện cùng các em về vấn đề cuộc sống đôi khi liên
quan đến bài học nhất là các mơn tự nhiên liên quan đến đời sống.
Nói đến đây thì cũng khơng thể khơng nhắc đến thực trạng lười giơ tay
phát biểu của đại bộ phận học sinh hiện nay. Ngun nhân thì có rất nhiều chẳng
hạn như các kiến thức đó học sinh đã biết rồi, một số em học sinh trầm tính, ít
giao tiếp nên ngại phát biểu, một số em khác thì ngại giáo viên, sợ phát biểu sai
nên không dám đưa ra ý kiến của mình… vì thế, phần lớn giờ học của học sinh
hiện nay vẫn chỉ là giáo viên giảng học sinh nghe và chép, độ tương tác hầu như
khơng có và cũng chính vì khơng có sự tương tác thế nên tiết học trầm xuống,
không thu hút và chuyện học sinh làm việc riêng trong giờ học cũng nhiều hơn.
Và để giải quyết thực trang này, giáo viên phải là người khơi gợi vấn đề:
Để giúp các em tự tin đưa ra ý kiến của mình thì trước hết người giáo viên
phải cho phép học sinh của mình được tự do phát biểu ý kiến.
Giáo viên nên tạo ra không khí trong lớp học thoải mái, gần gũi để các em
có thể cởi mở, nói ra những ý kiến của riêng mình.
Việc động viên các em mạnh dạn phát biểu ý kiến cũng sẽ giúp các em có
động lực hơn để đóng góp những ý kiến của mình cho bài học.

Đặt học sinh là trung tâm trong giờ học. Mọi hoạt động diễn ra trong giờ
học đều phải xoay quanh học sinh, lấy học sinh làm trung tâm còn giáo viên chỉ
là người hướng dẫn, hỗ trợ các em đạt được mục tiêu của bài học. Thấy được vị
12


trí quan trọng của mình trong buổi học thì chắc chắn mỗi học sinh sẽ phải tự
mình cố gắng để đạt kết quả cao hơn.
Năm là, giảng bài theo cách hài hước.
Khiếu hài hước chính là “phương tiện” giúp giáo viên hoà đồng, gần gũi
với học sinh hơn, vừa giúp cho giờ dạy bớt căng thẳng, tạo được khơng khí lớp
học thoải mái hơn. Những giáo viên có khiếu hài hước bao giờ cũng tạo được
thiện cảm và để lại ấn tượng đối với học sinh, được học sinh yêu mến.
Bạn biết đấy, đôi khi quá nghiêm túc khi giảng bài cũng chưa hẳn mang lại
hiệu quả. Và một thực tế đã cho thấy rằng, những buổi học thú vị khơng nhàm
chán có thể khắc phục được bằng những sự hài hước thú vị đến từ giáo viên. Việc
này giúp những bài giảng hiệu quả và thu hút được sự chú ý từ học sinh.
Để giảng bài có tính hài hước, giáo viên cần soạn kỹ bài giảng. Bài soạn
hay chất lượng ảnh hưởng lớn đến thành công cho buổi học hơm đó. Đúng thế,
những bài giảng tóm gọn được những kiến thức chung nhất, gồm những ý chính
sẽ giúp trẻ nắm bắt nhanh hơn là những bài giảng dài, khơng có trọng tâm.
Sáu là, trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Với học sinh, không một tấm gương nào tốt hơn là giáo viên - người trực
tiếp giảng dạy, chăm sóc, giáo dục, theo sát q trình học tập cũng như rèn luyện
của các em trong suốt một năm học. Bao giờ cũng thế, người thầy tốt sẽ sản sinh
ra những học trò tốt. Giáo viên hãy là tấm gương trong mọi lĩnh vực: học tập
(không thể dạy các em chăm học trong khi cơ thì khơng chăm chỉ nghiên cứu,
tìm tịi), sinh hoạt (giao tiếp, ăn mặc lịch sự, biết giữ vệ sinh môi trường,…), đạo
đức (có lịng nhân ái mà trước hết là đối với học sinh lớp mình, trung thực trong
dạy học, trong cuộc sống,…).

Lớp học thân thiện chỉ có được khi giáo viên có tấm lịng nhân hậu, bao
dung, hết lịng vì học sinh thân u của mình. Có một giáo viên chủ nhiệm như
vậy thì chắc chắn học sinh sẽ chăm ngoan, tích cực, ham học, thích đi học và
đương nhiên tình trạng nói chuyện riêng hay mất trật tự trong lớp cũng được
giảm thiểu phần nào.
13


III. KẾT QUẢ VÀ ỨNG DỤNG
1. Kết quả
Trong năm học, bản thân đã áp dụng những biện pháp trên vào việc giảng
dạy ở tiết thứ 5 buổi học và đạt được kết quả với học sinh:
- Hứng thú hơn trong học tập.
- Làm việc theo nhóm có hiệu quả hơn.
- Có tiến bộ học tốt, ngày càng mạnh đạn phát biểu và tự tin hơn.
Qua một thời gian áp dụng các biện pháp nêu trên, tôi nhận thấy kết quả
đạt được thật sự khả quan. Các em tỏ ra gần gũi, sẵn sàng nêu lên những thắc
mắc, những suy nghĩ riêng tư của mình. Quan hệ của tập thể học sinh trong lớp
đoàn kết, thân thiện, sẵn sàng giúp đỡ nhau. Tất cả đều tiến bộ, lễ phép, tham gia
tốt mọi phong trào chung, tự giác học tập và hầu như khơng cịn có những hiện
tượng tiêu cực như những ngày đầu của năm học. Khơng có học sinh bị trách
phạt trước tồn trường, học sinh đến trường ln đảm bảo an tồn cả trong giờ
học lẫn giờ chơi, khơng có học sinh gây gổ đánh nhau trong và ngồi nhà
trường. Đồ dùng dạy học và bàn ghế của lớp ln được bảo quản tốt, khơng có
tình trạng hư hao, mất mát.
Học sinh biết tự điều chỉnh mình cũng như nhắc nhở nhau để giữ nền nếp
lớp. Hàng tuần lớp được tuyên dương và nhận cờ thi đua hạng Nhất ở các tiết
sinh hoạt dưới cờ. Các hoạt động học tập, sinh hoạt của lớp đã nhịp nhàng; trật
tự, thể hiện tốt ở các giờ tự học.
2. Ứng dụng

Sáng kiến khi được triển khai có thể ứng dụng vào các lớp học trong tồn
trường. Bởi vì các giải pháp đưa ra mang tính định hướng chung cho tất cả các
lớp học sinh, ở các môn học khác nhau nhằm tạo hứng thú cho học sinh ở tiết
dạy thứ 5 mỗi buổi học.
IV. KẾT LUẬN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1. Kết luận
Xã hội có phồn vinh, đất nước có giàu mạnh trước hết cần những nhân tài,
là mầm ươm tương lai của đất nước. Nhân tài không tự nhiên mà tồn tại và phát
14


triển một cách hồn thiện mà khơng qua trường lớp. Chính vì lẽ đó, đào tạo trẻ
có kiến thức vững chắc, lâu dài thì cấp một chính là nền móng để ni dưỡng và
phát triển nhân cách, tri thức, hồn thiện cho một tương lai tươi sáng phía trước.
Nhưng để các em cảm nhận thật trọn vẹn, đầy hứng thú, niềm vui mỗi khi bước
chân vào trường học, lớp học khơng phải là điều đơn giản, mà đó là cả một nghệ
thuật của người giáo viên.
Khi trẻ đã hứng thú học ở tiết dạy thứ 5 ở mỗi buổi học thì đây chính là cơ
hội cho các em lĩnh hội kiến thức, nuôi dưỡng, phát triển cảm xúc thẩm mỹ và
phát huy trí tưởng tượng. “Học tập sẽ hiệu quả hơn khi nó thực sự vui thích” [4,
tr.90]. Hứng thú học ở tiết dạy thứ 5 ở mỗi buổi học các em sẽ khơng cịn thấy
“sợ học”, khơng cịn thấy mệt mỏi khi các em hứng khởi tiếp nhận các kiến
thức mà trước đây cho là khó, là “khơ khan”, căng thẳng, nhàm chán. Hứng thú
học ở tiết dạy thứ 5 ở mỗi buổi học là miếng đất màu mỡ để trên đó tư duy hình
tượng, tư duy logic học sinh nảy nở, phát triển. Trẻ sẽ tăng dần tính trách nhiệm
với bản thân, với người khác. Để đạt được hiệu quả cao trong học tập trước hết
cần rèn và truyền cho các em sự hứng thú.
2. Bài học kinh nghiệm
- Khảo sát chất lượng đầu năm học để đánh giá và phân loại học sinh và

phân loại những học sinh khơng có hứng thú học ở tiết dạy thứ 5 ở mỗi buổi học.
- Tìm hiểu về nguyên nhân những học sinh khơng có hứng thú học ở tiết
dạy thứ 5 ở mỗi buổi học để để ra giải pháp một cách phù hợp trong việc vận
dụng sáng kiến kinh nghiệm.
- Phải xây dựng một lớp học “Thân thiện, học sinh tích cực”.
- Tìm hiểu đặc điểm tâm - sinh lý học sinh.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội, 1976.
2. Luật Giáo dục, 2019.
3. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
4. Nguyễn Thị hải Yến, Tạo hứng thú cho học sinh - Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Tạp chí Giáo dục và xã hội, số 172/2019.

16



×