Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Thực trạng phát triển thị trường tiền tệ của việt nam 5 năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.44 KB, 22 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thị trường tiền tệ Việt Nam đã được hình thành và từng bước hồn thiện gắn
liền với tiến trình đổi mới và phát triển nền kinh tế đất nước. Cho đến nay, mặc
dù thị trường tiền tệ Việt Nam chưa thực sự phát triển, nhưng nó đã đóng vai trị
quan trọng trong việc điều tiết cung cầu về nguồn vốn ngắn hạn nhằm hỗ trợ cho
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống của các chủ thể trong nền
kinh tế. Đặc biệt, thị trường đã thực hiện chức năng cân đối, điều hòa nguồn vốn
giữa các ngân hàng, góp phần hỗ trợ cho các ngân hàng đảm bảo khả năng thanh
toán, hoạt động an tồn và hiệu quả. Thơng qua các hoạt động trên thị trường
tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện điều tiết tiền tệ
nhằm thực thi chính sách tiền tệ quốc gia.
Có thể khẳng định rằng, thị trường tiền tệ Việt Nam đã góp phần nhất định
trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, nhất là quá trình chuyển đổi sang
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và từng bước hội nhập kinh
tế quốc tế. Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển thị trường tiền tệ các nước trên
thế giới, thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn còn non trẻ và nhiều bất cập, cần đẩy
nhanh hoàn thiện để phát triển. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa X xác định phát triển thị trường tài chính có vai trị quan
trọng trong việc phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường. Do đó việc đánh giá
đúng thực trạng các kết quả đạt được, các hạn chế của thị trường tiền tệ Việt
Nam trong thời gian qua và đề ra mục tiêu, định hướng, giải pháp phát triển thị
trường trong những năm tới có ý nghĩa rất lớn để tiếp tục hoàn thiện thị trường
tiền tệ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Phần 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN


1.

Định nghĩa thị trƣờng tiền tệ:
+ Điều 9 khoản 2 Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định: “ Thị
trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán các giấy tờ có giá
ngắn hạn, bao gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền
gửi và các giấy tờ có giá (GTCG) ngắn hạn khác.
+ Từ năm 2004, NHNN cho phép sử dụng cả GTCG dài hạn trong giao
dịch nghiệp vụ thị trường mở.

2.

Chức năng của thị trƣờng tiền tệ:
+ Là “kênh” để ngân hàng nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách tiền
tệ quốc gia.
+ Chuyển vốn tạm thời nhàn rỗi đến nơi thiếu vốn, có suất sinh lợi cao…

3.

Các cơng cụ giao dịch trên thị trƣờng:
 Tín phiếu kho bạc
 Giấy chứng nhận tiền gửi (CD) của ngân hàng
 Thương phiếu


4.

Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận

Thành viên tham gia thị trƣờng tiền tệ Việt Nam

+ Ngân hàng Nhà nước
+ Tổ chức tín dụng (ngân hàng thương mại, cơng ty tài chính, cơng ty
cho thuê tài chính,..)
+ Doanh nghiệp
+ Chính phủ, chính quyền địa phương
+ Cá nhân

5.

Phƣơng thức hoạt động
+ Giao dịch trực tiếp hoặc gián tiếp

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


+ Phương tiện giao dịch: điện thoại, fax, hệ thống giao dịch điện
tử,…
6.

Các bộ phận cấu thành thị trƣờng tiền tệ
+ Thị trường tiền tệ liên ngân hàng
+ Thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc
+ Thị trường mở

Phần 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TIỀN TỆ VIỆT
NAM 5 NĂM GẦN ĐÂY (2007 – 2011)
I. Các chủ thể tham gia:
Cho đến nay lượng thành viên tham gia các nghiệp vụ thị trường tiền
tệ vẫn còn hạn hẹp. Mới chỉ có 5 Ngân hàng thương mại Nhà nước
(NHTMNN), Ngân hàng chính sách xã hội, 37 Ngân hàng thương mại

cổ phần, 4 Ngân hàng liên doanh, 27 chi nhánh Ngân hàng nước ngồi,
Quỹ tín dụng TW, 900 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số công ty bảo
hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu tư… Tuy nhiên tham gia là thành viên
của thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu tín phiếu Kho bạc Nhà
nước, thị trường mở,…thì khơng phải là các tổ chức trên, hầu như chỉ có
các NHTMNN, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh
Ngân hàng nước ngồi, một số cơng ty bảo hiểm,…
Đặc biệt, trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng đã hình thành nhóm
các ngân hàng thường cung ứng nguồn tiền VND chủ yếu là các NHTM
Nhà nước và ngược lại nhóm các NHTM cổ phần và chi nhánh ngân
hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh là các ngân hàng thường có nhu
cầu vay tiền VND. Việc điều chuyển vốn thường chỉ diễn ra một chiều
giữa các ngân hàng thường cho vay và nhóm ngân hàng thường đi vay.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Trên thực tế thị trường hầu như chưa hình thành các thành viên có
tính chun nghiệp như các nhà mơi giới, các nhà tạo lập thị trường, các
công ty đánh giá xếp loại… Điều này làm hạn chế hạn chế sự phát triển
của thị trường tiền tệ.
II. Các bộ phận cấu thành thị trƣờng tiền tệ:
1. Thị trƣờng liên ngân hàng
1.1 Tình hình:
 Năm 2007:
Một số ngân hàng quy mơ nhỏ, hoặc mới chuyển đổi mơ hình, do sai lầm từ
định hướng kinh doanh nên quá tập trung vào cho vay với mong muốn tạo ra sự
đột biến trong tăng trưởng quy mô, hoặc tài trợ cho những lĩnh vực đầu tư mạo
hiểm.
Sự việc thái quá đến mức lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có thời điểm vọt

tới hàng chục phần trăm/năm. Gặp lúc thanh khoản bất ổn, khá nhiều ngân hàng
lâm vào khó khăn và nguy cơ mất ổn định cả hệ thống trở thành hiện thực…
 Năm 2010:
Có những ngân hàng thương mại do huy động vốn trên thị trường 1 bị hạn
chế đã sử dụng nguồn vốn huy động trên thị trường 2 cho vay thị trường 1,
tạo ra những rủi ro tiềm ẩn cho cả hệ thống. Đáng chê trách hơn, có những
“ơng chủ” cùng một lúc nắm mấy ngân hàng đã tiến hành giao dịch “đan
chéo” lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng, gây nên tình trạng lộn xộn.
 Năm 2011:
- Vay mƣợn trên liên ngân hàng căng thẳng
Việc vay mượn trên thị trường này, từ đầu năm nay đã không dễ dàng gì, lại
càng khó khăn từ hơn một tháng trở lại đây. Một số ngân hàng quốc doanh,
trong đó có Vietcombank, trong thời gian qua đã đòi hỏi ngân hàng nhỏ phải có

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


tài sản thế chấp cho các khoản vay mượn. Điều này đã khiến các ngân hàng vốn
đang thiếu thanh khoản, lại càng thêm khốn đốn. Không muốn phải thế chấp tài
sản, một số ngân hàng phải chạy đi tìm vay ở ngân hàng khác. Đó là lý do lãi
suất liên ngân hàng đã từng tăng lên đến 40%/năm kỳ hạn một tháng trong thời
điểm tuần cuối tháng 10 vừa qua.
Việc tăng cường đòi hỏi điều kiện đi kèm theo việc cho vay vốn không chỉ đẩy
lãi suất liên ngân hàng lên cao, mà cịn khiến các ngân hàng co mình lại, giảm
cho vay trên thị trường này, hoặc cho vay và đòi hỏi lãi suất cao ngất. Theo tổng
giám đốc một ngân hàng TMCP hàng đầu, nếu đã trong hệ thống ngân hàng mà
không tin nhau, đối xử với ngân hàng đi vay như quan hệ tín dụng với một
doanh nghiệp, thì những ngân hàng khác càng thủ thế lo cho phận mình, chợ liên
ngân hàng càng vắng vẻ. Khơng những vậy, vay mượn ngoại tệ trên thị trường
này gần như đóng cửa từ giữa tuần trước, nhất là từ sau nghị định 95 ban hành

ngày 20.10, về chỉnh sửa và bổ sung các xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Giám đốc phụ trách khối ngoại hối của một
ngân hàng lớn cho biết, hầu hết các ngân hàng rút về tự lo cho nhu cầu USD cho
doanh nghiệp ở ngân hàng mình. "Một ngân hàng muốn vay mượn USD, ngày
trước "la" lên giữa chợ liên ngân hàng là có đáp ứng. Còn nay, họ phải đi lòng
vòng từng ngân hàng để hỏi mượn. Tỷ giá liên ngân hàng gần như không tồn tại
nữa, vì khơng đúng với thực trạng tồn hệ thống", ông cho hay.
- Thiếu thanh khoản kéo dài
Ngân hàng lớn như BIDV, VietinBank và Agribank đã trở lại tăng cường hỗ
trợ vốn trên liên ngân hàng, cởi bỏ cơ chế thế chấp, thị trường liên ngân hàng
dần ổn định trở lại.
Song ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) vẫn duy trì cơ chế cho
vay phải thế chấp. Trên tờ VnEconomy ngày 3.11, đại diện Vietcombank cho
rằng, thông lệ thị trường đồng thời cũng như thực tế giao dịch tại Vietcombank,
nghiệp vụ này được tiến hành theo hai hình thức, là cho vay theo hạn mức tín

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


chấp và cho vay có tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, theo giới tài chính và các
chun gia, thơng lệ quốc tế và lâu nay tại Việt Nam khơng có quy định địi hỏi
có thế chấp trên liên ngân hàng.
Lý do xuất hiện đòi hỏi này, là trước đây thị trường liên ngân hàng chỉ là nơi
giải quyết những thanh khoản ngắn hạn như qua đêm, 1 tuần, nửa tháng, tối đa
là 1 - 2 tháng. Nhưng một vài năm gần đây đã biến tướng, có những khoản vay
cả năm trời. Điều này khơng những cho thấy có thiếu hụt thanh khoản kéo dài
trong hệ thống, mà còn khiến tiền nằm trong hệ thống ngân hàng mà không đi ra
nền kinh tế phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh.
Tổng giám đốc một ngân hàng cho hay, từ lâu trên thị trường liên ngân hàng
khơng cịn quan hệ vay mượn, mà là gởi tiền qua liên ngân hàng. Theo đó,

những khoản tiền hàng ngàn tỉ đồng được ngân hàng lớn gởi lấy lãi suất cao ở
ngân hàng nhỏ.
1.2 Đánh giá:
Những tháng đầu năm 2008, trên thị trường tiền tệ các ngân hàng đua nhau
tăng lãi suất huy động vốn, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng trong thời gian
này có thời điểm lên đến 35-40%/năm, nếu tình trạng này cứ tiếp tục kéo dài khả
năng đổ vỡ hệ thống ngân hàng có thể xảy ra. Nhờ các biện pháp chính sách tiền
tệ, đầu năm 2009 lãi suất huy động đã bắt đầu giảm xuống ở mức khá ổn định
đến tận quý III/2010, sau đó lãi suất huy động lại tăng cao trở lại, phần lớn các
NHTM tăng lãi suất huy động lên mức 12%/năm. Tuy nhiên, một số ngân hàng
khát vốn nhiều tháng đã âm thầm tăng lãi suất huy động với khá nhiều hình
thức. Ngày 14/12/2010, Hiệp hội ngân hàng tiếp tục đưa ra một lãi suất đồng
thuận, theo đó biên độ lãi suất huy động được nâng lên là 14% kể cả các hình
thức khuyến mãi.
Nguyên nhân là do (i) lạm phát gia tăng cùng với chính sách tiền tệ thắt chặt và
nhu cầu tăng trưởng tín dụng lớn đẩy mặt bằng lãi suất lên cao; (ii) gia tăng mực
độ giành giật thị phần của các TCTD bằng hình thức cạnh tranh lãi suất làm méo

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


mó giá cả của tiền tệ, lãi suất kỳ hạn ngắn cao hơn lãi suất kỳ hạn dài trong bối
cảnh áp lực lạm phát cao.
Đồ thị:Diễn biến lãi suất huy động và cho vay bằng VND từ năm 2007-3/2011

Nguồn: Tổng hợp và tính tốn của Viện Chiến lược ngân hàng
2. Thị trƣờng đấu thầu tín phiếu Kho bạc
Theo thơng tư 19/2004/TT-BTC ngày 18/03/2004 của Bộ Tài chính, hiện
nay có hai loại trái phiếu đang được đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước là: Tín
phiếu Kho bạc Nhà nước và Trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ (trái phiếu

ngoại tệ).
Thành viên thị trường: Trước đây, số đơn vị được NHNN công nhận
thành viên thị trường đấu thầu Trái phiếu kho bạc là 47 thành viên. Tuy nhiên
trong quá trình tham gia, có một số thành viên đã khơng tham dự một phiếu thầu
nào. Sau khi áp dụng Quy chế đấu thầu Trái phiếu chính phủ (TPCP) theo Quyết
định 935/2004/QĐ-NHNN ngày 23/07/2004 và triển khai chưong trình đấu thầu
TPCP qua mạng, NHNN xem xét và công nhận tổng số thành viên thị trường
đấu thầu TPCP đến nay là 20 thành viên.
Kỳ hạn tín phiếu Kho bạc đến nay đã đa dạng hơn trước, gồm 364 ngày,
273 ngày và 182 ngày. Bên cạnh các NHTM nhà nước, các NHTM cổ phần,
ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nướcngoài cũng đã từng bước
trở thành thành viên tham gia thị trường.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


2.1 Tình hình:
Tính chung từ năm 2000 đến nay, với vai trị là đại lý phát hành trái phiếu
Chính phủ (TPCP), NHNN đã huy động được 146.342 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ
36%/tổng khối lượng phát hành TPCP nói chung. Đây là một tỷ lệ khá cao so
với các loại TPCP có kỳ hạn khác. Chẳng hạn như TPCP loại kỳ hạn 2 năm có
tỷ lệ là 15,2%, TPCP kỳ hạn 5 năm là 28%... Tuy nhiên, thời gian qua, nhất là
thời điểm từ năm 2010 trở lại đây, khối lượng trúng thầu tín
phiếu giảm dần, thậm chí, có phiên khơng có thành viên nào tham gia. Mặc dù,
Kho bạc Nhà nước và NHNN đã có nhiều cố gắng, lãi suất chào ở mức cao
nhưng dường như thị trường vẫn quá "yên ắng", lượng tiền thu về qua kênh này
vẫn quá khiêm tốn so với lượng tiền thu được từ các kênh huy động vốn
khác.
Nếu chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 2011, Sở Giao dịch NHNN phối hợp
với Kho bạc Nhà nước (KBNN) đã tổ chức được 21 phiên, kỳ hạn phát hành là

364 ngày nhưng số tiền huy động chỉ là 2.150 tỷ đồng. Đây là một kết quả rất
thấp với các năm trước đây. Cụ thể, năm 2010 huy động được 8.350 tỷ đồng,
năm 2009 là 10.714 tỷ đồng và năm 2008 là 20.730 tỷ đồng.
Trong tổng số hơn hai chục phiên đấu thầu vừa qua thì có đến 16/21
phiên khơng có khối lượng trúng thầu. Điều đáng nói nữa là, ngồi việc khối
lượng trúng thầu khá khiêm tốn thì số lượng thành viên tham gia cũng rất ít,
trung bình chỉ có từ 1 đến 2 thành viên tham gia/phiên và thường tập trung vào
một vài thành viên. Cá biệt, có những phiên khơng có thành viên tham gia dự
thầu.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Nguyên nhân ảnh hƣởng tới kết quả các phiên đấu thầu giai đoạn này là do
tình hình kinh tế trong nước và kinh tế trên thế giới có chiều hướng không thuận lợi
cùng với cơ cấu danh mục đầu tư chưa huận lợi để nhà đầu tư tham gia đối với loại
cơng cụ Nợ ngắn hạn của Chính phủ. Nhưng nguyên nhân chính mà nhà đầu tư chưa
"mặn mà" với tín phiếu lại nằm ở chính nội tại của cơ chế tổ chức phát hành và "sân
chơi" thứ cấp của loại giấy tờ có giá này. Theo đánh giá của Bộ Tài chính, cơng tác phát
hành tín phiếu qua NHNN thời gian qua phát sinh một số bất cập, đó là:
- Thành viên đấu thầu tín phiếu chỉ bao gồm các tổ chức tín dụng
(TCTD) có tài khoản tiền gửi thanh toán tại NHNN (Sở Giao dịch). Hiện nay,
rong tổng số 57 thành viên đấu thầu tín phiếu thì có tới 40 thành viên là các TCTD, có
14 thành viên là chi nhánh ngân hàng nước ngồi và có 3 thành viên là các cơng
ty tài chính. Sở dĩ thành viên của nghiệp vụ này chủ yếu là các TCTD, vì tín phiếu phát
hành dưới hình thức ghi sổ, người mua phải mở tài khoản chứng khoán và tài khoản tiền
gửi tại NHNN để thực hiện các giao dịch thanh tốn tiền và tín phiếu theo kết quả trúng
thầu. Mọi khoản lãi, gốc được thanh toán trực tiếp vào tài khoản tiền chỉ định của
người mua. Trong khi đó, việc mở tài khoản thanh toán tại NHNN mới chỉ áp dụng
cho các TCTD là thành viên của hệ thống thanh tốn, chưa áp dụng cho các đối tượng là

cơng ty chứng khoán, các quỹ đầu tư. Do vậy, phần nào đã hạn chế sự tham gia
của các thành viên đấu thầu có nhu cầu khơng phải là các TCTD. Đặc biệt, việc các
công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm chưa tham gia đấu thầu tín phiếu cũng tạo nên tình
trạng lãng phí vốn hay quan hệ tiền gửi khơng kỳ hạn trực tiếp với các TCTD như hiện
nay.
- Hiện nay, chưa có một danh sách thành viên thống nhất đối với thị trường TPCP
nói chung (bao gồm cả TPCP, TPCP bảo lãnh, tín phiếu) nên khi muốn tham gia đấu
thầu loại trái phiếu nào thì nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục gia nhập thành viên tại đơn
vị tổ chức đầu thầu như tại Sở Giao dịch chứng khốn Hà Nội có một danh sách
thành viên riêng, Sở Giao dịch NHNN có một danh sách thành viên riêng... Do đó,
nhiều khi phát sinh tình trạng một nhà đầu tư có tư cách thành viên ở hai nơi hoặc có
thể là thành viên ở danh sách này nhưng lại không là thành viên ở danh sách kia, cho
dù cung đầu tư một loại giấy tờ có giá là TPCP.
- Số lượng nhà đầu tư đã được công nhận là thành viên tham gia đấu thầu tín

LUAN VAN
CHAT
: add

phiếu đơng
nhưngLUONG
trên thực tế,download
số thành viên tham
gia mỗi
phiên là rất ít, đặc biệt là


- Việc đầu tư vào tín phiếu của các thành viên chủ yếu nhằm mục đích dự
phịng an tồn về khả năng thanh toán vào giai đoạn nhạy cảm (Tết
dương lịch và tết âm lịch) qua giao dịch nghiệp vụ thị trường mở với NHNN

(OMO). Việc giao dịch mua/bán các loại giấy tờ có giá giữa các TCTD trên thị
trường liên ngân hàng với nhau chưa được thực hiện; phần vì do cơ sở hạ tầng
(cơng nghệ, pháp lý) của thị trường thứ cấp chưa phát triển, phần vì do chưa có
hướng dẫn chi tiết.
- Quy trình phát hành tín phiếu thời gian qua cũng bộc lộ bất cập,
chưa khoa học và thiếu lịch biểu cụ thể để nhà đầu tư biết và có kế hoạch chủ
động tham gia khi có nhu cầu. Mặt khác, thời gian qua, chưa tổ chức hình
thức đấu thầu kết hợp cả cạnh tranh và không canh tranh lãi suất trong một
phiên đấu thầu mặc d

đã có quy định về vấn đề này (Quy chế số

935/2004/QĐ-NHNN ngày 23/7/2004 của NHNN về đấu thầu tín phiếu kho bạc,
trái phiếu ngoại tệ qua NHNN).
- Công tác lưu ký và chuyển nhượng tín phiếu cũng là một vấn đề cần
phải tháo gỡ. Hiện nay, tín phiếu phát hành qua NHNN chỉ thực hiện lưu ký tại
Sở Giao dịch NHNN mà chưa được lưu ký và chuyển nhượng nên trái chủ chỉ
có thể tham gia các giao dịch thị trường tiền tệ với NHNN (OMO, tái cấp vốn,
thấu chi và cho vay qua đêm...). Nói cách khác, do hạn chế trong việc lưu ký nên
việc chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư tín phiếu tại Việt Nam vẫn chưa thể
thực hiện được như thông lệ tại các nước trên thế giới.
Điều này đã dẫn tới tình trạng thị trường thứ cấp tín phiếu chưa phát triển, tính
thanh khoản bị hạn chế. Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng
rất lớn tới sự phát triển của thị trường thứ cấp tín phiếu.
3. Thị trƣờng mở:
+ Về thành viên:
Từ 2007 - 2011, tổng số lượt thành viên tham gia các phiên nghiệp vụ TTM
đạt 16.924 lượt và số thành viên tham gia tăng mạnh qua từng năm (năm 2008 là
3.208; năm 2009 là 3.121; năm 2010 là 6.106; 9 tháng đầu năm 2011 là 3.906).


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Trong các phiên giao dịch, bên cạnh các thành viên là NHTM Nhà nước thì số
thành viên là các NHTM cổ phần và ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước
ngoài tăng mạnh. Từ năm 2010 đến nay cịn có sự tham gia của các thành viên
thuộc khối ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài. Khối lượng GTCG của
các thành viên trong mỗi phiên giao dịch ngày càng đa dạng.
+ Về khối luợng giao dịch: Đây là thời kì nền kinh tế trong nước chịu nhiều
tác động tiêu cực bởi sự bất ổn tài chính của các nước trên thế giới và vấn đề nợ
công của khu vực Châu Âu. Đặc biệt là thời điểm những tháng cuối năm 2008
đầu năm 2009, các ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản, khi đó, NHNN kịp
thời can thiệp thơng qua ngjiệp vụ TTM bằng việc tăng lượng cung tiền và áp
dụng phương pháp đấu thầu khối lượng, dường như ngay lập tức thì, lãi suất liên
ngân hàng giảm quanh mức 20%/năm.
Năm 2008, NVTTM đảo chiều so với năm 2007 với tổng số phiên giaodịch
là 402 phiên, tăng 47 phiên so với năm 2007; doanh số giao dịch đạt1.036.066 tỷ
đồng, tăng 148% so với năm 2007, trong đó doanh số muachiếm 91,42% và gấp
15 lần so với năm 2007, doanh số bán giảm 4,6%. Đặc biệt, mức lãi suất đặt
thầu trong một số phiên mua kỳ hạn trong quý I/2008 ở mức rất cao, có lúc lên
tới 40%/năm vì vậy NHNNVN đã áp dụng phươngthức đấu thầu khối lượng, lãi
suất thống nhất cho tất cả các kỳ hạn giao dịch(từ 9-15%/năm) để ổn định lãi
suất thị trường. Diễn biến này phản ánh những biến động bất thường của thị
trường tiền tệ năm 2008 và khó khăn về thanh khoản của các TCTD.
Năm 2011 Ngày 4/5 ngân hàng Nhà nước đã nâng lãi thị trường mở lên
14%/năm, từ mức 13%/năm trước đó. Đây là lần thứ 7 ngân hàng Nhà nước điều
chỉnh lãi suất trên thị trường mở (OMO) kể từ tháng 1/2010. Lần tăng lãi suất thị
trường mở gần đây nhất là vào 1/4, từ 12% lên 13%, cùng với quyết định tăng
lãi suất tái cấp vốn.Ngày 4/5, trong hai phiên buổi sáng và buổi chiều, NHNN đã
bơm ra lần lượt 38.000 tỷ đồng và 7.077 tỷ đồng trên OMO và hút về 33.019 tỷ

đồng. Như vậy, NHNN đã bơm ròng 12.058 tỷ đồng trên OMO trong ngày 4/5.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


III. HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA THỊ TRƢỜNG TIỀN TỆ Ở
VIỆT NAM (2007 -2011)
+ 5 ngân hàng thương mại Nhà nước là những ngân hàng lớn nhất, chiếm tới
trên 70% thị trường tín dụng của Việt Nam với hệ thống chi nhánh hoạt động
trên toàn bộ phạm vi lãnh thổ, nhưng lại hạch toán phụ thuộc với nhau nên việc
mua bán vốn dù có diễn ra cũng khơng có ý nghĩa. Trái lại, khối các ngân hàng
thương mại cổ phần và các ngân hàng liên doanh, chi nhánh các ngân hàng
nước ngồi lại chỉ có quy mơ và thị phần rất nhỏ (trên dưới 25%). Tính chất
“địa hạt” được thể hiện rất rõ rệt, hoạt động mua bán vốn mới chỉ thực hiện
giữa các tổ chức tín dụng trong nước, (trừ trường hợp một vài ngân hàng như
Standard Chater Bank và Citybank có một vài món cho vay thơng qua ngân
hàng Việt Nam trong thời gian gần đây), đặc biệt là chưa có sự mua bán vốn
với các tổ chức tín dụng của các nước khác trong khu vực và quốc tế. Do vậy,
hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng khơng thể tránh khỏi tính chất
“chợ phiên” và “buồn tẻ”.
+ Công cụ hoạt động trên thị trường liên ngân hàng còn nghèo nàn cả về
chủng loại và thời hạn, mới chỉ giải quyết được phần nào yêu cầu về khả năng
thanh toán nhanh mà chưa đáp ứng được nhu cầu về nguồn và sử dụng vốn nói
chung của các tổ chức tín dụng. Các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng
vẫn phổ biến dưới hình thức tín chấp hoặc bằng tiền gửi đối ứng tại ngân hàng
cho vay. Vì vậy, mà phạm vi hoạt động của thị trường liên ngân hàng chủ yếu
tập trung giữa những ngân hàng thương mại có uy tín và quan hệ thường xuyên
với nhau trong các nhóm liên minh.
+ Cho đến nay, vẫn chưa có một cơ quan chức năng nào của Nhà nước hay
Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm là người tổ chức, vận hành và quản lý

thị trường liên ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước chưa phát huy được vai trò là
người tổ chức, điều hành hoạt động thị trường liên ngân hàng, chưa kiểm soát
được các giao dịch và can thiệp kịp thời trong mọi tình huống, do vậy, sự phát
triển của thị trường hoàn toàn mang tính tự phát mà chưa có một định hướng

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


chiến lược cơ bản. Hệ thống thông tin chưa được hồn thiện, thiếu thơng tin và
thơng tin khơng chính xác là một trong những cản trở khả năng điều tiết thị
trường của Ngân hàng Nhà nước.
+ Hệ thống thanh toán trong nội bộ từng ngân hàng và hệ thống thanh toán
liên ngân hàng dù đang được hiện đại hoá, song vẫn trong tình trạng manh mún
phân tán riêng rẽ trong mỗi ngân hàng hoặc từng nhóm nhỏ mà vẫn chưa “hồ
mạng” thống nhất, thậm chí chưa liên kết thống nhất giữa các trung tâm trong
nước. Điều này cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng phân
đoạn thị trường và khả năng điều chuyển vốn giữa các tổ chức tín dụng kém
hiệu quả
+ Số thành viên tham gia vào thị trường mở tuy có xu hướngtăng qua các
năm nhưng vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các Ngân hàng thương mại trên
thị trường tài chính và chủ yếu là các Ngân hàng thương mại có quy mơ nhỏ đa
số vẫncịn đứng ngồi cuộc đã hạn chế hiệu quả điều tiết thị trường của nghiệp
vụ này.
+ Hàng hóa tham gia thị trường mở cịn nghèo nàn về chủng loại,các cơng
cụ tài chính chủ yếu giao dịch trên thị trường mở bao gồm các loạigiấy tờ có giá
phát hành bằng đồng Việt Nam như: tín phiếu Ngân hàng nhà nước, trái phiếu
Chính phủ (trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc, trái phiếu cơng trình trung
ương, trái phiếu đầu tư do Quỹ hỗ trợ phát hành công trái) và trái phiếu chính
quyền địa phương do UBND thành phố HCM và UBND thành phố Hà Nội phát
hành. Trong khi đó, Ngân hàng nhà nước các nước trên thế giới sử dụng

nhiềuloại giấy tờ có giá khác nhau để giao dịch trên thị trường mở như: trái
phiếu,tín phiếu kho bạc, tín phiếu của Ngân hàng nhà nước, chứng chỉ tiền gửi,
thương phiếu, hối phiếu của các ngân hàng, hợp đồng mua lại (Repo) – các loại
giấy tờ này có tính thanh khoản cao và dễ trao đổi trên thị trường nên dễ được
các bên chấp nhận trong giao dịch.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


+ Phương thức giao dịch còn đơn điệu. Chỉ áp dụng mua bán hẳn với Tín
phiếu NHTW, mua bán kì hạn với tín phiếu Kho bạc NN.
+ Việc điều tiết lượng tiền trên thị trường mở còn thực hiện một chiều, chủ
yếu là dùng là kênh bơm tiền đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn khảdụng của các
Ngân hàng thương mại mà chưa thực hiện tốt chức năng của nghiệp vụ này là sử
dụng như một kênh thu hút tiền nhà rỗi của các Ngân hàng thương mại nhằm
trung hoà nguồn vốn được bơm quá nhiều qua kênh khác. Hơn nữa, hình thức
đấu thầu khối lượng cũng khiến cho các ngân hàng nhỏ, nắm giữ ít giấy tờ có
giákhơng cạnh tranh được về khối lượng đặt thầu với các ngân hàng lớn nên chỉ
trúng thầu với khối lượng ít và phải vay lại của các ngân hàng lớn với lãi suất
cao hơn.
+ Việc dự đốn chính xác sự biến động hàng ngày của cung- cầu vốn khả
dụng còn gặp những khó khăn nhất định, ảnh hưởng đến mức độchính xác
của dự báo,đặc biệt là chế độ thông tin phục vụ cho cơng tác dự đốn, từ đó
đã hạn chế đến chất lượng của việc dự đoán vốn khả dụng.
+ Số lượng thành viên tham gia trên thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc
vẫn cịn hạn hẹp, thành viên chủ yếu vẫn là các NHTM.
+ Lãi suất trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc vẫn cịn nhiều bất cập.
Hiện nay, lãi suất áp dụng lãi suất chỉ đạo trong đấu thầu tín phiếu Kho bạc
nên lãi suất trúng thầu chưa hình thành theo các nguyên tắc thị trường.
+ Hệ thống cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế nhất định.


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Phần 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TIỀN TỆ VIỆT NAM
(2007 – 2011)
1. Định hƣớng phát triển thị trƣờng tiền tệ Việt Nam
+ Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho sự phát triển của thị trường tiền
tệ.
+ Thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao vai trò điều tiết, hướng dẫn thị
trường của NHNN
+ Tăng cường năng lực quản lý và sử dụng vốn, năng lực kinh doanh của
các tổ chức tín dụng – các thành viên chủ yếu của thị trường.
2. Giải pháp phát triển các bộ phận cấu thành thị trƣờng tiền tệ Việt
Nam
2.1 Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trƣờng tiền tệ liên ngân
hàng:
+ Tổ chức lại các ngân hàng thương mại Nhà nước. Trước hết, thay đổi cơ
chế tài chính trong các ngân hàng này theo hướng hạch toán độc lập giữa các chi
nhánh với nhau và với Hội sở chính. Tiếp theo đó, tiến hành cổ phần hố các
ngân hàng thương mại Nhà nước. Với giải pháp này thì số lượng các chủ thể
tham gia trên thị trường sẽ không chỉ tăng lên về mặt số lượng mà còn khẳng
định ý nghĩa thực sự của các giao dịch. Sau khi các chi nhánh của các ngân hàng
thương mại được hạch toán kinh doanh độc lập, sẽ khơng cịn trơng chờ vào
nguồn vốn điều chuyển từ Hội sở chính mà sẽ mua bán với bất cứ chủ thể nào có
lợi nhất. Như vậy, mỗi địa phương (tỉnh hoặc thành phố) sẽ trở thành những
trung tâm mua bán vốn của những chi nhánh của các ngân hàng thương mại Nhà
nước khác nhau với nhau.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



+ Đa dạng và chuẩn hố các cơng cụ trên thị trường. Bên cạnh những
cơng cụ sẵn có, cần được chuẩn hố theo những khn khổ pháp lý thống nhất,
cần sớm đưa vào thị trường các công cụ giao dịch khác như các cơng cụ chứng
khốn phái sinh, các loại thương phiếu, các bảo lãnh của ngân hàng (bank
acceptances), kỳ phiếu ngân hàng, v.v… Những công cụ này không chỉ góp
phần đa dạng hố dịch vụ ngân hàng - tài chính mà cịn tạo điều kiện cho các
chủ thể tham gia có cơ hội lựa chọn nhằm đáp ứng cao nhất nhu cầu về nguồn và
sử dụng nguồn khi tham gia thị trường.
+ Khuyến khích các tổ chức tín dụng Việt Nam tham gia vào hoạt động
thị trường tiền tệ trong khu vực và trên thế giới, trước hết là thị trường
Hongkong và Singapore. Hiện nay, mới chỉ có Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam thực hiện được hoạt động này và đạt được một thành cơng góp phần sử
dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả, nhất là nguồn tiết kiệm ngoại tệ huy
động từ trong nước. Để thúc đẩy các tổ chức tín dụng tham gia hoạt động thị
trường tiền tệ quốc tế, Ngân nhà Nhà nước cũng cần thay đổi một số những quy
định pháp lý về quản lý ngoại hối và sự di chuyển của những luồng vốn. Song,
quan trọng hơn, các tổ chức tín dụng vẫn phải tích cực và chủ động trong việc
vươn ra thị trường nước ngoài, tranh thủ sự cộng tác với các ngân hàng có uy tín
của nước ngồi thơng qua những quan hệ như là quan hệ ngân hàng đại lý, uỷ
thác, trung gian giải ngân.
+ Nâng cao trình độ cơng nghệ của ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng trong nước. Chất lượng hoạt động của các ngân hàng thương mại
là điều kiện nhằm đem lại sự ổn định cho thị trường. Các ngân hàng cần có hệ
thống thông tin với khả năng thu thập và xử lý và cung cấp thông tin hiệu quả
cho hoạt động quản lý nguồn vốn, chất lượng sử dụng vốn và dự báo chính xác
diễn biến của thị trường. Trên thực tế, để thực hiện được các nghiệp vụ phái sinh
nhằm hạn chế rủi ro và lợi ích của ngân hàng cũng như tham gia các hoạt động
khác của thị trường tiền tệ là rất phức tạp, đòi hỏi các ngân hàng phải không


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


ngừng đổi mới cơng nghệ, hiện đại hố hệ thống thanh tốn mà cịn phải đào tạo
đội ngũ nhân lực và học tập những bài học kinh nghiệm của các ngân hàng hiện
đại trên thế giới.
+ Nâng cao năng lực tổ chức, điều hành thị trường liên ngân hàng của
Ngân hàng Nhà nước. Cần sớm thành lập Vụ Thị trường Tiền tệ trực tiếp thực
hiện tổ chức, quản lý, điều hành thị trường liên ngân hàng. Đổi mới cơ chế hoạt
động của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường tiền tệ sao cho Ngân hàng Nhà
nước trở thành là ngân hàng bán buôn lớn nhất trên thị trường tiền tệ.
Ngân hàng Nhà nước cần sớm xây dựng quy chế hoạt động đối với các thành
viên tham gia hoạt động thị trường liên ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế,
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của thị trường. Thiết lập quy chế về
thông tin: cơ quan kiểm duyệt thông tin, đội ngũ cán bộ xử lý, cung cấp thông
tin phù hợp, cơ chế phối hợp thông tin với các cơ quan chức năng, v.v…. nhằm
tránh tình trạng chồng chéo thơng tin, bóp méo thơng tin.
Đầu tư cho các điều kiện về cơ sở vật chất và kỹ thuật đáp ứng yêu cầu
tổng hợp, cập nhật thông tin, dự báo diễn biến thị trường, vốn khả dụng, trình độ
quản trị kinh doanh, rủi ro, khả năng quản lý vốn khả dụng của Ngân hàng Nhà
nước từng bước gắn kết thị trường tiền tệ trong nước với thị trường tài chính
quốc tế. Bên cạnh đó, thường xun bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ về kỹ
thuật xử lý giao dịch phát sinh trên thị trường, các kỹ thuật vận hành hệ thống
thanh toán điện tử liên ngân hàng.
+ Hoàn thiện cơ chế xác định lãi suất của thị trường. Lãi suất – giá
bao giờ cũng là yếu tố quan trọng nhất đối với bất kỳ thị trường nào. Ngân hàng
Nhà nước cần sớm ban hành và tổ chức thực hiện cơ chế xác định giá theo
hướng khớp lệnh hoặc đấu giá, trước hết tại các trung tâm tài chính lớn như Hà
Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh. Lãi suất được xác định ở những trung


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


tâm này sẽ làm cơ sở tham chiếu cho các địa phương còn lại trong cả nước.
Đồng thời, các tổ chức tín dụng sẽ căn cứ vào lãi suất nói trên để xác định lãi
suất của thị trường bán lẻ – huy động hoặc cho vay vốn đối với nền kinh tế. Nói
cách khác, các tổ chức tín dụng có thể chủ động thoả thuận lãi suất với các đối
tượng khách hàng mà khơng phải mị mẫm hay bám dựa vào lãi suất “chỉ đạo”
của Ngân hàng Nhà nước hay lãi suất của thị trường tiền tệ nước ngoài SIBOR
hay LIBOR, v.v… Mặt khác, việc hình thành lãi suất như trên sẽ tạo điều kiện
gắn kết thị trường tiền tệ trong nước với thị trường các nước trong khu vực và
quốc tế, góp phần cho các tổ chức tín dụng chủ động tham gia hoạt động trên thị
trường và với các ngân hàng nước ngoài.
+ Thống nhất thị trường liên ngân hàng. Thị trường liên ngân hàng hiện
nay gồm có thị trường nội tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng. Sự phân tách thị trường đã tạo ra những bất cập trong việc quản lý dòng
vốn. Ngồi ra, trong điều kiện hệ thống thơng tin chưa hồn chỉnh, dẫn đến việc
truyền tải và quản lý thơng tin thiếu chính xác. Điều này gây khó khăn khi thị
trường mở rộng quy mô. Do vậy, cần thống nhất thị trường liên ngân hàng và có
quy chế hoạt động phù hợp.
2.2 Giải pháp hoàn thiện và phát triển thị trƣờng đấu thầu trái phiếu
Kho bạc.
+ Cần có cơ chế để các NHTM cổ phần và Ngân hàng khác có quy mơ
nhỏ hơn có thể trúng thầu tín phiếu trên thị trường này. Đặc biệt là Bộ Tài chính
cần có biện pháp đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu
tín phiếu, khơng nên để tình trạng lãng phí vốn hay quan hệ tiền gửi không kỳ
hạn trực tiếp với các TCTD như hiện nay.
+ Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín
phiếu Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các

phiên đấu thầu từ 1 phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. Linh hoạt hơn nữa lãi

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên thị trường. Thời hạn tín phiếu
cũng có thể đa dạng hơn, như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày... thay cho chỉ có loại
360 ngày như hiện nay
+ Lãi suất tín phiếu Kho bạc cần đựoc tự do, hình thành trên quan hệ
cung-cầu. Xây dựng đường cong lãi suát chuẩn.
+ Hồn thiện khn khổ pháp lý cho hoạt động của thị trường đấu thầu tín
phiếu kho bạc.
+ Nâng cao vai trò của ngân hàng thương mại trên thị trường tiền tệ như
là những người tạo lập thị trường.
+ Hiện đại hố cơng nghệ ngân hàng nhằm phục vụ cho các giao dịch và
thu thập xử lý thông tin của thị trường.
+ Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, đào tạo cán bộ phục vụ cho
hoạt động của thị trường.
+ Xây dựng hệ thống các nhà kinh doanh trái phiếu, tín phiếu kho bạc có
vốn tự có lớn.
+ Phát triển các nhà đầu tư có tổ chức và lơi cuốn các nhà đầu tư nước
ngoài vào kinh doanh trái phiếu.
2.3 Giải pháp phát triển hoạt động thị trƣờng mở.
+ Cần rà soát lại cơ sở pháp lý để điều chỉnh theo hướng thu hút thành
viên.
+ Đa dạng hoá trên thị trường mở.
+ Hoàn thiện các quy định lưu ký giấy tờ có giá tại NHNN và xây dựng
thị trường mở thực sự là một kênh đầu tư hấp dẫn.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



+ Cải tiến, nâng cấp hạ tầng cho thị trường mở.
+ Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến thông tin để thu hút thêm
các tổ chức tín dụng tham gia thị trường mở.
+ Nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành nghiệp vụ thị trường
mở.

III.KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Bước sang năm 2012, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới tiếp tục có
những tác động bất lợi và nền kinh tế thế giới chưa thể nhanh chóng phục
hồi. Diễn biến này sẽ tiếp tục tác động bất lợi đến nền kinh tế trong nước và
hoạt động của thị trường tiền tệ nước ta. Thị trường tiền tệ nước ta từ khi
hình thành cho đến nay cũng trải qua những bước thăng trầm của nó. Sự ổn
định và phát triển của thị trường tiền tệ góp phần vào sự ổn định và phát triển
của nền kinh tế. Xuất phát từ vai trò của thị trường tiền tệ đối với nền kinh tế,
cũng như những tác động của thị trường tiền tệ Việt Nam trong thời gian gần
đây, nhóm nghiên cứu đã tiến hành tìm hiểu hoạt động của thị trường tiền tệ
Việt Nam từ năm 2007 tới năm 2011.
Sau khi tìm hiểu về thị trường tiền tệ Việt Nam, nhóm đã hồn thành xong
đề tài của mình. Trên cơ sở vận dụng lý thuyết đã học, sự hướng dẫn của
Giảng viên và kết hợp với kiến thức thực tế, nhóm đã phản ánh được thực
trạng thị trường tiền tệ Việt Nam trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2011.
Cụ thể: Đề tài đã phân tích thực trạng qua từng năm, cũng như kết quả đạt
được, những hạn chế, nguyên nhân cho vấn đề trên . Trên cơ sở đó nhóm đã
đưa ra một số giải pháp phù hợp với tham vọng góp phần ổn định và phát
triển thị trường tiền tệ Việt Nam.
Mặc dù nhóm có nhiều cố gắng, nhưng do thời gian và kiến thức có hạn
nên nội dung đề tài khơng tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong nhận
được sự góp ý của Giảng viên và các bạn học viên để đề tài được hoàn thiện

hơn.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


22

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



×