Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.08 KB, 22 trang )

1) Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã
hội:
1.1) Giành độc lập dân tộc và tiến lên Chủ nghĩa Xã hội:
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất
nước, cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại
cần lao, thốt khỏi mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và
hạnh phúc. Cũng chính vì vậy mà vần đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân
tộc trong cách mạng Việt Nam đã được Người quan tâm, nung nấu suốt cả
đời.
Thứ nhất, giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam - một nước thuộc địa
nửa phong kiến, trước hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc,
đánh đuổi quân xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, giành độc lập cho dân tộc, tự
do cho nhân dân, hồ bình và thống nhất đất nước.
Độc lập, tự do, hồ bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy
bỏng của người dân mất nước. Bởi, mất nước là mất tất cả. Sống trong cảnh
nước mất, nhà tan, mọi quyền lực nằm trong tay quân xâm lược và bọn tay
sai thì quyền sống của con người cũng bị đe doạ chứ nói gì đến quyền bình
đẳng, tự do, dân chủ của mọi người. Nếu có, đó chỉ là thứ tự do cướp bóc,
bắt bớ, giết hại và tù đày của quân xâm lược và bọn tay sai. Chính vì vậy mà
“Khơng có gì q hơn độc lập tự do”, một trong những tư tưởng lớn của Hồ
Chí Minh trong cách mạng Việt Nam đã trở thành chân lý của dân tộc Việt
Nam và của cả nhân loại có lương tri.
Độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân – tư tưởng đó của Hồ Chí
Minh đã trở thành mục tiêu hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó
được qn triệt trong tồn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam và nó được thể
hiện nổi bật trong các thời điểm có tính bước ngoặt lịch sử.
Khi trả lời câu hỏi của nữ đồng chí Rơdơ, thư ký Đại hội lần thứ 18
của Đảng Xã hội Pháp, họp ngày 29 tháng 12 năm 1920: Tại sao đồng chí lại
bỏ phiếu cho Quốc tế III? Hồ Chí Minh trả lời: “Rất giản đơn. Tơi khơng
hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác.
Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề thuộc địa… Tự


do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi
muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.”

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Cũng ngay tại nước Pháp, giữa năm 1922, sau khi làm việc với Bộ
trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Anbe Xarô, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với ơng ta
mong muốn của mình và của nhân dân Việt Nam rằng: “Cái mà tôi cần nhất
trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…”
Năm 1945, đứng trước thời cơ mới của cách mạng nước ta, khi nói
chuyện với đồng chí Võ Ngun Giáp, Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này
thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải
cương quyết giành cho được độc lập.”
Năm 1966, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc
bằng không quân và hải quân, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Chiến tranh có thể
kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và
một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam
quyết khơng sợ! Khơng có gì q hơn độc lập tự do.”
Hồ Chí Minh coi mục tiêu đấu tranh vì độc lập của Tổ quốc, tự do của
đồng bào là lẽ sống của mình. Quyền độc lập dân tộc không tách rời quyền
con người và độc lập là điều kiện tiên quyết để mang lại hạnh phúc cho mọi
người dân của đất nước mình. Đồng thời, độc lập dân tộc còn là điều kiện để
dân tộc Việt Nam được quyền sống bình đẳng với các dân tộc khác trên thế
giới và các dân tộc trong nước ta được chung sống bên nhau một cách bình
đẳng, hồ thuận và cùng nhau đi tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Thứ hai, sau khi giành được độc lập dân tộc phải đưa đất nước tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm giải phóng con người, giải phóng xã hội,
xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc
cho mọi người, mọi dân tộc.

Giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam nếu chỉ dừng lại
ở cuộc đấu tranh để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân thì sự
nghiệp cách mạng đó mới chỉ đi được một chặng đường ngắn mà thơi. Bởi
có độc lập, có tự do mà nhân dân vẫn đói khổ, thì nền độc lập tự do ấy cũng
chẳng có ý nghĩa gì.
Hồ Chí Minh đã thấu hiểu cảnh sống nơ lệ, lầm than, đói rét và tủi
nhục của nhân dân các dân tộc Việt Nam trong thời thực dân, phong kiến.
Bởi vậy, một trong những nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định của sự
nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con người, theo tư tưởng Hồ Chí Minh

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


là phải xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, vươn tới xây dựng cuộc sống ấm no, tự
do và hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Đó là ước nguyện, là ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh và là ước
nguyện mong mỏi bao đời nay của nhân dân các dân tộc Việt Nam. Người
nói: “Tơi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước
ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hồn tồn tự do, đồng bào ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.”
Thực hiện được ước nguyện đó, theo Hồ Chí Minh chính là nhằm giải
quyết một cách triệt để và thiết thực vấn đề dân tộc ở một nước thuộc địa
nửa phong kiến.
Thế nhưng đi về đâu và xây dựng một xã hội như thế nào để thực hiện
được ước nguyện đó nhân dân các dân tộc Việt Nam cũng như cho cả nhân
loại bị áp bức, bóc lột? Đó là điều trăn trở, ưu tư khơng chỉ ở Hồ Chí Minh
mà ở tất cả những người có lương tri, trọng đạo lý, trọng nghĩa tình khác. Sự
bắt gặp và điểm tương đồng trong tư duy giữa Hồ Chí Minh với những
người sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của thời đại cũng chính
là ở chỗ đó.

Chứng kiến cảnh sống lầm than, khổ cực, bị bóc lột tới thậm tệ của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở thuộc địa và chính quốc, chứng
kiến cảnh sống trái ngang của bọn tư sản, thực dân giàu có và gian ác, nên
con đường giải phóng xã hội, giải phóng con người mà cả Hồ Chí Minh và
C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin đều khẳng định là phải tiến lên chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản, chứ không phải là đi theo con đường tư bản
chủ nghĩa, càng không phải là quay trở lại chế độ phong kiến.
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định trước sau như một, là chỉ
có chủ nghĩa xã hội mới có đủ cơ sở và điều kiện để thực hiện cơng cuộc
giải phóng con người một cách triệt để và thiết thực. Tức là thực hiện được
đầy đủ các quyền của con người, trong đó có quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc của tất cả mọi người.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập
phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Xuất phát từ hoàn cảnh của Việt Nam, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước nông nghiệp nghèo nàn, hậu quả của bọn thực dân, phong kiến để lại
rất nặng nề nên Hồ Chí Minh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho
nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được học hành, ốm
đau có thuốc, già khơng lao động thì được nghỉ, những phong tục tập qn
khơng tốt dần dần được xố bỏ… tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội.”
1.2) Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội:
1.2.1) Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ
nghĩa xã hội:

Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai
đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai giai đoạn ấy không có bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt chẽ với
nhau.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược:
chống thực dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và
dân chủ quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt
lên trên hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng bước và phải
phục tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng trên đây được Hồ Chí
Minh thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và
Người nhấn mạnh tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám
(khóa I) 5-1941.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung
dân tộc dân chủ. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền đề
để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho việc
tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải được
thực hiện một cách triệt để, "đến nơi". Đó là một nền độc lập thực sự, độc lập
hồn tồn khơng lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả về đối nội, lẫn đối ngoại.
Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán sự lệ thuộc về mọi mặt của những chính
quyền do thực dân cũ và mới lập nên ở Việt Nam. Người gọi đó là độc lập giả
hiệu, độc lập kiểu Mỹ.
Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt
Nam, một địi hỏi có ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với
thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một, Bắc - Trung - Nam là một khối thống nhất
không thể phân chia, đồng bào Kinh, Mường, Thái, Êdê, Bana… đều là con
dân nước Việt, là con Rồng cháu Tiên. Đó là quan điểm nhất quán, mang tính

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



ngun tắc của Hồ Chí Minh. Khơng duy trì và phát triển được khối thống nhất
đó thì khơng thể có độc lập dân tộc, càng khơng thể nói đến việc tạo cơ sở tiền
đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự
do hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh "nếu nước được độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa
gì".
1.2.2) Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả của
độc lập dân tộc:
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa
mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo lơgíc của sự phát triển, hai mục
tiêu ấy quan hệ chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu
không thực hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối
cùng mới bảo vệ và phát triển được những thành quả của mục tiêu trước
mắt. Vì vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội
là con đường tốt nhất để giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới - thành
quả của độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh,
ai cũng có cơng ăn, việc làm, được ăn no, mặc ấm, được học hành, các dân
tộc trong nước bình đẳng đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt phân phối sản
phẩm lao động thì chủ nghĩa xã hội là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít
hưởng ít, ai có sức lao động mà khơng làm thì khơng hưởng, những người già,
đau yếu, tàn tật và trẻ em thì xã hội và cộng đồng có trách nhiệm chăm sóc ni
dưỡng. Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị và kinh tế,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được quan tâm và ngày một nâng
cao. Về mặt đối ngoại, chủ nghĩa xã hội là hịa bình, hữu nghị, làm bạn với tất
cả các nước. Chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đó khơng chỉ bảo vệ những
thành quả của độc lập dân tộc mà cơ bản tạo nên sự phát triển mới vế chất. Hồ
Chí Minh khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới bảo

đảm cho một nền độc lập dân tộc chân chính, mới giải phóng các dân tộc
một cách thực sự, hồn tồn.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc
và cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt,
lâu dài. Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội cịn khó
khăn hơn. Hồ Chí Minh so sánh: thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ,
thắng bần cùng lạc hậu khó khăn hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đánh đổ
giai cấp địch đã khó, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội cịn gian khổ, khó

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


khăn hơn nhiều". Từ những khó khăn gian khổ ấy, Hồ Chí Minh ln địi hỏi
Đảng, Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
1.3) Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội xuất hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó
được thể hiện rõ nét từ năm 1930. Sự thể hiện tư tưởng của Người về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời kỳ chủ yếu.
+ Thời kỳ 1930 – 1945:
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí
Minh thời kỳ này thể hiện rõ trong những Văn kiện do Hồ Chí Minh soạn
thảo được Hội nghị hợp nhất thông qua. Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ
rõ Đảng chủ trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội xã hội cộng sản". Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải
phóng dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con đường cách mạng vơ
sản: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác
con đường cách mạng vơ sản". Theo tư tưởng Hồ Chí Minh điều đó có ý

nghĩa là:
Đối tượng của cuộc đấu tranh là thực dân đế quốc và bọn tay sai
chống lại độc lập dân tộc.
Ở trong nước lực lượng cách mạng bao gồm cơng nơng là gốc và tất
cả những ai có lịng u nước, thương nịi.
Về lực lượng cách mạng ngồi nước trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh sự ủng hộ của Quốc tế Cộng sản, Liên bang cộng hịa xã hội chủ
nghĩa xơ viết, giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động chính quốc, các dân
tộc thuộc địa và phụ thuộc.
Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
là sự lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
+ Thời kỳ 1945 – 1954:
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này được thể
hiện ở những chủ trương, đường lối chiến lược do Hồ Chí Minh khởi xướng
"vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "kháng chiến đi đơi với kiến quốc",
"kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến".

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Kháng chiến tức là bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống sự xâm lược lần thứ
hai của thực dân Pháp theo phương châm trường kỳ kháng chiến nhất định thắng
lợi.
Kiến quốc theo Hồ Chí Minh là xây dựng, củng cố Nhà nước dân chủ
nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, xây dựng đời sống mới, xây dựng những
cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội.
+ Thời kỳ 1954 – 1969:
Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư
tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa

xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến
tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một
sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh.
Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân
dân ta đã đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử
mang tên Hồ Chí Minh, mục tiêu của thời kỳ này được hoàn thành vào ngày
30-4-1975.
1.4) Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội của cách mạng Việt Nam:
Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải
được giữ vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng
chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong
kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội
Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết.
Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh cơng - nơng trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí
Minh ln địi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách
nhiệm trong việc làm cho "rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc
rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp tồn dân, và nó có một cái tương lai 'trường
xuân bất lão'".
Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hịa bình,
dân chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được
việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn với
tất cả mọi nước dân chủ và khơng gây thù ốn với một ai".

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại, liên
quan chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục tiêu độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

1.5) Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội trong thời kỳ
đổi mới:
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết thực hiện CNXH và CNXH là
cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc. Khơng giành được độc lập
dân tộc thì khơng có điều kiện để xây dựng CNXH. Độc lập dân tộc thật sự
địi hỏi xóa bỏ áp bức, nơ dịch của dân tộc này với dân tộc khác, gắn liền
độc lập dân tộc với tự do, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân, do đó chỉ có
thể gắn liền với sự phát triển xã hội XHCN. Chính nhờ sự kiên định nội
dung tư tưởng đó mà Đảng ta đã lãnh đạo dân tộc đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác, viết nên một lịch sử Việt Nam anh hùng với những mốc son
chói lọi: Cách mạng Tháng 8 năm 1945, chiến thắng Điện Biên Phủ năm
1954, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và đi lên xây dựng CNXH.
Tư tưởng đúng đắn, hợp quy luật, hợp lòng dân đó đã được Đảng quán triệt
xuyên suốt trong cả tiến trình cách mạng, đặc biệt là trong quá trình đổi mới.
Đại hội lần thứ VI (12-1986) của Đảng mở đầu thời kỳ đổi mới đất
nước đã khẳng định: "Toàn Đảng, tồn qn, tồn dân ta đồn kết một lịng,
quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện 2 nhiệm vụ
chiến lược, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VII tiếp tục nhấn mạnh:
"Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Đó là bài học xuyên suốt
q trình cách mạng nước ta".
Tiếp tục dịng chảy xun suốt và thống nhất đó, Báo cáo chính trị
được thơng qua tại Đại hội Đảng lần thứ VIII xác định bài học quan trọng
đầu tiên đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: "Giữ vững mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin
và Tư tưởng Hồ Chí Minh".
Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IX (4-2001) - Đại hội đầu tiên của thế
kỷ XXI, đại hội của dân chủ, trí tuệ, đồn kết và đổi mới đã tiếp tục khẳng

định: "Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


CNXH trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh". Như vậy, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trên thực tế
đã trở thành dòng chủ lưu, là tư tưởng xuyên suốt, được quán triệt và đề cao
trong sự nghiệp đổi mới mà tồn dân ta đang tiến hành.
Chính nhờ sự kiên định đầy quyết tâm đó cùng với sự lãnh đạo tài tình
của Đảng mà nhân dân ta đã đứng vững và tiếp tục kiên trì mục tiêu CNXH
trong khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã lâm vào thoái trào, tan
rã; tạo cơ sở khẳng định vị thế và sức mạnh của cách mạng Việt Nam trên
trường quốc tế. Niềm tin đối với Đảng trong lòng nhân dân ngày càng được
củng cố, tăng cường, tạo đà cho sự phát triển mạnh hơn, cao hơn, triệt để
hơn của thời kỳ CNH-HĐH.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trước tình trạng nhiều vấn đề xã
hội bức xúc và gay gắt chưa được giải quyết tốt như nạn thiếu việc làm, sự
phát triển của tệ nạn xã hội, sự khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân
dân, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã cảnh báo là nguy cơ chệch hướng XHCN,
tụt hậu xa hơn về kinh tế, "diễn biến hịa bình" và tệ quan liêu tham nhũng
của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức vẫn tồn tại và diễn biến phức
tạp thì việc giữ vững định hướng, mục tiêu XHCN càng trở nên quan trọng
hơn bao giờ hết.
Suốt 80 năm chiến đấu và trưởng thành, Đảng ta đã hoàn thành được
một phần sứ mệnh lịch sử: đất nước độc lập, thống nhất, đi lên CNXH. Song
con đường phía trước khơng hồn tồn bằng phẳng, trơn tru. Sự đan xen sâu
sắc giữa những thời cơ và thách thức mà thời đại đặt ra, buộc dân tộc ta,
Đảng ta và bản thân mỗi người dân Việt Nam chúng ta phải "lớn" hơn ngày
hôm qua. Trên bệ phóng của những thành cơng rực rỡ mà cha ơng đã xây

dựng, thế hệ trẻ Việt Nam khát khao được là người kế nghiệp xứng đáng. Để
khát khao ấy được thắp sáng, điểm xuất phát trước hết phải là sự trung thành
đối với Tổ quốc, với lý tưởng của Đảng và của nhân dân, kiên định lập
trường cách mạng, thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh trong điều kiện mới, đặc biệt là nhất quyết thực hiện sứ mệnh: bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, xây dựng thành cơng CNXH.
2) Tư tưởng Hồ Chí Minh về tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường:
Lời kêu gọi trong dịp 1000 ngày kháng chiến 10/6/1948, Hồ Chủ tịch
căn dặn “Mỗi một người dân phải hiểu, có tự lập mới độc lập, có tự cường
mới tự do”. Như vậy muốn độc lập tự do phải tự lực tự cường. Tư tưởng tự

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


lực tự cường đã được thể hiện trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của
Người. Từ việc ra đi tìm đường cứu nước, đến việc chọn con đường giải
phóng dân tộc, từ trong kháng chiến cũng như trong xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Thật vậy, trước tình cảnh đất nước bị ngoại xâm dày xéo, nhiều phong
trào yêu nước xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Phong trào Cần
Vương do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động, và sau đó là cuộc khởi
nghĩa Ba Đình của Phan Bành và Đinh Công Tráng; Bãi Sậy của Nguyễn
Thiện Thuật; Hương Khê của Phan Đình Phùng; cuộc khởi nghĩa nơng dân
n Thế do Hồng Hoa Thám lãnh đạo… Tất cả đều bị thất bại, chứng tỏ sự
bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc
lập dân tộc do lịch sử đặt ra. Đến Phan Bội Châu chủ trương dựa vào sự giúp
đỡ bên ngoài để đánh Pháp giành độc lập dân tộc, thiết lập một nhà nước
theo mơ hình qn chủ lập hiến của Nhật. Với Hội Duy Tân, phong trào
Đông Du Phan Bội Châu chủ trương dựa vào Nhật để chống thực dân Pháp.
Phan Chu Trinh chủ trương dùng những cải cách văn hóa, mở mang dân trí,

phát triển kinh tế theo hướng tư bản chủ nghĩa trong khuôn khổ luật pháp,
làm cho dân giàu, nước mạnh từ đó buộc thực dân Pháp trao trả độc lập…
Do những hạn chế về lịch sử, về giai cấp nên các ông cũng như các sĩ phu
cấp tiến khác khơng thể tìm được phương hướng phù hợp để giải quyết
nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, nên sau một thời kỳ phát triển đã bị
kẻ thù dập tắt.
Hồ Chí Minh khơng đi theo con đường mòn của các bậc tiền bối.
Người đã chọn con đường sang các nước phương Tây, nơi có khoa học – kỹ
thuật phát triển và những tư tưởng dân chủ tự do, xem họ làm như thế nào để
trở về nước giúp đồng bào giài phóng dân tộc.
Từ thực tiễn gầm 10 năm bơn ba vạn dặm tìm đường cứu nước, Hồ
Chủ tịch đã tìm thấy trong Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lênin (7/1920) lời giải đáp đầy thuyết phục cho những câu hỏi của
mình, đó là giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vơ sản, gắn việc
giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vơ sản. Như vậy, Hồ Chủ tịch đã
tìm được con đường giải phóng dân tộc và phong trào yêu nước theo khuynh
hướng vô sản. Người nói “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có
con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”.
Theo Lênin, cần phải có sự kết hợp cách mạng vơ sản ở chính quốc
với phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Tuy nhiên, Lênin cũng như
những người lãnh đạo Quốc tế Cộng sản lúc đó cho rằng cách mạng thuộc

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc, là “hậu bị quân” của cách mạng
chính quốc và cách mạng thuộc địa chỉ có thể nổ ra và thắng lợi khi cách
mạng vơ sản chính quốc thành cơng. Là người cộng sản hoạt động tích cực
trong phong trào giải phóng dân tộc thế giới, Hồ Chí Minh sáng tạo ra luận
điểm khả năng cách mạng thuộc địa nổ ra và thắng lợi trước cách mạng

chính quốc. Theo Hồ Chí Minh, cách mạng thuộc địa và cách mạng chính
quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau trong đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc, nhưng trong đấu tranh đó, nhân dân các dân tộc thuộc địa có thể tự
đứng lên giải phóng. Các dân tộc thuộc địa không nên trông chờ, ỷ lại vào
cách mạng chính quốc mà phải chủ động đứng lên tự giải phóng khỏi ách
thống trị của chủ nghĩa đế quốc, qua đó góp phần tích cực vào cách mạng
thế giới nói chung, cách mạng chính quốc nói riêng.
Trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa, Người viết “Hỡi anh
em ở các thuộc địa!...Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận
dụng cơng thức của Cac Mac, chúng tơi xin nói với anh em rằng, cơng cuộc
giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng cách nỗ lực của bản thân
anh em”. Vào những năm 1920, Hồ Chí Minh đã dự đốn cách mạng thuộc
địa có thể thành cơng trước cách mạng chính quốc, cách mạng Việt Nam có
thể thành cơng trước cách mạng Pháp. Nghĩa là Hổ Chủ tịch thấy rõ được
tính chủ động lịch sử của các dân tộc thuộc địa trong việc lật đổ chủ nghĩa
thực dân để tự giải phóng, không nhất thiết phải chờ đến khi giai cấp công
nhân chính quốc giành chính quyền. Hồ Chủ tịch đã vạch ra con đường giải
phóng dân tộc trước hết bằng sự nổ lực và sức mạnh của chính mình, tranh
thủ thời cơ và sự giúp đỡ quốc tế, cả dân tộc vùng lên tự giải phóng cho
mình chứ khơng phải là làm cách mạng thế giới rồi nhờ sự giúp đỡ của thế
giới để giải phóng Việt Nam.
Khi phân tích tình hình trong nước, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam
là nước thuộc địa, nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với
chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân
với giai cấp địa chủ phong kiến, giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản.
Vì thế, khơng phải chỉ giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề
dân tộc, mà chỉ có thể giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, vì
giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo tiền đề
để giải phóng giai cấp. Quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp là thống nhất,
quyền lợi dân tộc khơng cịn thì quyền lợi của mỗi giai cấp, mỗi bộ phận

trong dân tộc cũng không thực hiện được. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã
khẳng định những luận điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đúng đắn.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Hồ Chí Minh địi hỏi phải
có tinh thần tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính, tự giải phóng cho
ta. Chỉ có chúng ta mới giải quyết được số phận của chúng ta. Trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đòi hỏi “Trước đây, nhân dân ta đã nêu
cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến,thì ngày nay chúng ta
cần phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà” .
Đường lối độc lập tự chủ, tự lực tự cường đã giúp Hồ Chủ tịch lái con
thuyền Việt Nam đi giữa hai ngọn sóng Xơ – Trung trong thập kỷ 60, thời
kỳ mà giữa hai nước Liên Xơ, Trung Quốc có những bất đồng lớn. Thắng lợi
của cách mạng Việt Nam luôn cần đến sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế,
nhưng Người chỉ rõ sự nghiệp cách mạng Việt Nam phải do nhân dân Việt
Nam quyết định. Vì chúng ta có thế, có lực thì bên ngồi mới ủng hộ, giúp
đỡ và sự ủng hộ giúp đỡ đó mới mang lại hiệu quả. Người cho rằng muốn
người ta giúp cho thì trước hết phải tự cứu mình đã; chúng ta lo tìm bạn bè
nhưng trước hết phải tổ chức lực lượng của chính mình.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập khơng có nghĩa là biệt lập đứng riêng một
mình mà để có thể hợp tác bình đẳng với tất cả các nước thì cần phải độc lập
tự chủ. Vì vậy, độc lập tự chủ, tự lực tự cường là biểu hiện của tinh thần u
nước chân chính, gắn bó mật thiết với tinh thần quốc tế trong sáng. Những
người có tư tưởng dân tộc hẹp hịi và ỷ lại, khơng tự lực tự cường đều bị Hồ
Chí Minh phê phán.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập tự chủ, tự lực tự cường có mối
quan hệ chặt chẽ với mở rộng hợp tác quốc tế. Người đã từng nói “Nhờ Liên
Xơ thắng lợi mà những nước thuộc địa như Trung Quốc và những nước

thuộc địa như Triểu Tiên, Việt Nam đã đánh được hoặc đang đánh đuổi bọn
đế quốc xâm lăng trả lại tự do, độc lập”. Trên báo L’Humanité ngày
2/8/1919, Người viết “xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc
phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế
được mở rộng và tăng cường”.
Khi được Standley Harrison, phóng viên báo Telepress, vào tháng
3/1949 hỏi: khi ngoại thương Việt Nam đã khơi phục thì Việt Nam sẽ giao
dịch với những nước dân chủ nhân dân những gì? Người trả lời “Việt Nam
sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt
Nam một cách thật thà”.
Hồ Chí Minh cho rằng thắng lợi của cách mạng Việt Nam cần đến sự
ủng hộ, giúp đỡ quốc tế, nhưng không được trông chờ ỷ lại, mà phải tự lực

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


cách sinh dựa vào sức mình là chính phải trơng ở thực lực. Thực lực mạnh,
ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng.
Chiêng có to thì tiếng mới lớn”, “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ
ngồi chờ dân tộc khác đến giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập. Sự
giúp đỡ của bạn bè là quý báu, chúng ta phải biết ơn sự giúp đở đó, nhưng
chớ vì bạn giúp ta nhiều mà trông chờ ỷ lại, mà phải đem sức ta mà giải
phóng cho ta.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh về mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế
khơng chỉ nhằm mục đích nhận được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, mà
thông qua sự giúp đỡ đó có điều kiện phát huy những tiềm năng của Việt
Nam. Muốn vậy phải sử dụng có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài để phát
triển kinh tế xã hội. Người nhắc nhở, các nước bạn giúp ta cũng như thêm
vốn cho ta. Ta phải khéo dùng các vốn ấy để bồi bổ lực lượng, phát triển khả
năng của ta, tức là có thêm điều kiện để tự lực cánh sinh. Bởi vậy, chính phủ

phải có kế hoạch để sự dụng hợp lý sự giúp đỡ ấy. Cán bộ ta phải ra sức
công tác, phải làm việc tốt với các chuyên gia bạn, học tập kinh nghiệm tiên
tiến của các nước bạn, phải bảo quản và sử dụng tốt những máy móc và vật
liệu các nước bạn đã giúp ta, phải nghiêm khắc chống bệnh quan liêu, lãng
phí, tham ơ.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập tự chủ, tự lực tự cường,
Đại hội X đã xác định: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh”, “phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ tối
đa ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều
kiện mới”, “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hịa
bình, hợp tác và phát triển… Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc
tế và khu vực”.
Trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần quán triệt
tư tưởng độc lập tự chủ, tự lực tự cường của Hồ Chủ tịch. Chúng ta phải chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đi đôi
với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ
hợp tác quốc tế bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.
3) Tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới sáng tạo:

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Nhìn vào q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ thấy
rất rõ đó là một quá trình đổi mới sáng tạo liên tục trong nhận thức tư tưởng,
cũng như trong hoạt động thực tiễn của Người. Có thể nói, Hồ Chí Minh là
con người đổi mới, là một người đổi mới bẩm sinh, một thiên tài đổi mới.
Ngay từ năm 1927, trong Đường cách mệnh, Người đã viết: "Cách mệnh là
phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tất". Danh từ "đổi mới" là

danh từ của Hồ Chí Minh, là danh từ mà Người đã nêu ra từ năm 1949 trong
bài Dân vận bất hủ: "Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân".
Bốn năm sau, trong bài nói chuyện trong buổi khai mạc lớp chỉnh huấn cán
bộ Đảng, dân, chính ở cơ quan trung ương, ngày 6/2/1953, Người đã đưa ra
luận điểm bất diệt:
“Xã hội bây giờ ngày mót phát triển. Tư tưởng hành động cũng phát
triển. Nên cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả”.
Và, nhiệm vụ đổi mới căn bản và tồn diện, "chống lại những gì cũ
kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi" là nhiệm vụ mà Hồ Chí
Minh đã xác định trong Di chúc của Người. Có thể nói, đổi mới chính là linh
hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết luận này được rút ra từ những sự kiện
lịch sử.
Ngay từ lúc mới 13 tuổi, khi lần đầu được tiếp xúc với những từ Tự do
- Bình đẳng - Bác ái trong tiếng Pháp, Người nảy ra ý nghĩ mới lạ, ý nghĩ mà
lịch sử về sau đã chứng minh tính chất phi thường của nó - "muốn làm quen
với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ
ấy". Ý nghĩ này thể hiện tính ham hiểu biết, muốn tìm hiểu sự vật đến nơi
đến chốn của Hồ Chí Minh. Đến khi 15 tuổi, Người đã ni chí đánh đuổi
thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Người tham gia cơng tác bí mật, làm
liên lạc. Người khâm phục những nhà yêu nước tiền bối Phan Đình Phùng,
Hồng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng thấy rằng phải
có cách làm khác với cách làm của các cụ. Trong khi các trí thức và thanh
niên có tinh thần yêu nước đua nhau theo phái Đơng du sang Nhật thì Người
lại chọn con đường sang nước Pháp và các nước khác để xem họ làm như
thế nào rồi trở về giúp đồng bào.
Trước khi đi theo Quốc tế cộng sản, Người chưa biết chiến lược, sách
lược là gì, khơng rõ CHXH và chủ nghĩa cộng sản khác nhau thế nào, cũng
chưa đọc một tác phẩm nào của Lênin, vậy mà khi cần phải có quyết định
trong việc lựa chọn giữa Quốc tế II và Quốc tế III, Người đã nhạy bén chỉ


LUAN VAN CHAT LUONG download : add


dựa vào một tiêu chí duy nhất là Quốc tế nào ủng hộ các dân tộc thuộc địa,
để đưa ra quyết định đúng đắn.
Trong khi chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế cộng sản đặc biệt nhấn
mạnh đấu tranh giai cấp chống địa chủ, tư bản và coi việc chống chủ nghĩa
xét lại, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, trong
khi Quốc tế cộng sản có quan điểm cho rằng cơng cuộc giải phóng thuộc địa
chỉ có thể thực hiện sau khi giai cấp vơ sản ở chính quốc giành thắng lợi
trong cách mạng vơ sản, thì Người đã khơng như thường lệ, chỉ giản đơn
phụ họa và chứng minh cho những quan điểm đó, mà đã khảng khái và dũng
cảm nêu lên những quan điểm mới, khác hẳn.
Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Người đã đưa ra
chủ trương tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở các nước Đơng Dương. Ở đây,
một là, Hồ Chí Minh đã xác định rõ con đường đấu tranh vũ trang mang tính
quần chúng để giải phóng dân tộc, chứ khơng chờ đến sau khi "giai cấp vô
sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến" như Tuyên ngôn thành
lập của Quốc tế cộng sản năm 1919 và Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của
Quốc tế cộng sản về sau (1928) đã xác định. Hai là, cuộc khởi nghĩa vũ trang
có thể nổ ra trùng hợp với cuộc cách mạng vô sản Pháp, chứ không phải đợi
sau khi cuộc cách mạng vô sản Pháp thắng lợi rồi mới tiến hành. Đây là tư
duy đổi mới bước đầu của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.
Và, như chúng ta đều biết, về sau, khi đã cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng mọi
mặt, Hồ Chí Minh đã đạt đến sự thăng hoa trong tư tưởng: cách mạng giải
phóng dân tộc có thể thành cơng trước cách mạng vơ sản ở các nước tư bản
chính quốc và giúp cho phong trào cơng nhân ở các nước chính quốc.
Những quan điểm đổi mới táo bạo và to lớn được viết trong Báo cáo
trên thể hiện tinh thần đổi mới, tầm cao trí tuệ và khí phách anh hùng cách
mạng của Hồ Chí Minh. Nó chỉ có thể là sản phẩm phi thường của một trí

tuệ phi thường, một tư duy đổi mới phi thường. ở đây, xin phép được lưu ý
ràng, Hồ Chí Minh đã viết báo cáo đó trong lần đầu tiên đến Mátxcơva vào
năm 1924. Lúc đó, Người mới theo Lênin và Quốc tế cộng sản được 4 năm
trời, và nhiều lắm cũng chỉ mới qua một lớp học ngắn ngày và có lẽ là ngẫu
nhiên tại Trường Đại học phương Đông. Vậy mà, Người đã dũng cảm và
trung thực, bất chấp mọi sự nguy hiểm về mặt chính trị có thể xảy ra đối với
bản thân, viết ra những cảm nhận và suy nghĩ độc đáo hết sức khác thường
của mình, xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn và lợi ích của đất nước làm
thước đo chân lý duy nhất. Điều đáng lưu ý nữa là, văn phong của bản báo
cáo là văn phong biện luận. Sau khi nêu lên những sự thật về tình trạng giai

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


cấp ở Việt Nam, Người đã viết: "Điều đó, khơng thể chối cãi được". (Sau
này, trong Tuyên ngôn độc lập, nghĩa là 31 năm sau, Người lại dùng câu:
"Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được" sau khi nêu lên những quyền
con người được ghi trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, để
đi đến tuyên bố về quyền dân tộc chính đáng không thể phủ nhận của nhân
dân Việt Nam).
Và, chúng ta không lấy làm lạ, từ những nhận thức phi thường ban
đầu đó, về sau Hồ Chí Minh đã đi đến những quan điểm đổi mới sáng tạo hết
sức phi thường, những kết luận hết sức phi thường trong việc đổi mới chiến
lược, sách lược cách mạng phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam là
một nước thuộc địa nửa phong kiến. Có thể thấy, trong điều kiện giai cấp và
quan hệ giai cấp như ở Việt Nam khi đó, trong điều kiện "cơng nhân có thể
là 2% trong dân số, không được học hành" (theo báo cáo của Nguyễn Ái
Quốc gửi Quốc tế cộng sản ngày 21/9/1923), có nghĩa là trong điều kiện giai
cấp công nhân công xưởng mới ở thời kỳ manh nha hình thành và với thực

trạng giai cấp và quan hệ giai cấp đó thì liệu có thể áp dụng học thuyết đấu
tranh giai cấp, cách mạng vơ sản và chun chính vơ sản q độ trực tiếp lên
CHXH của chủ nghĩa Mác - Lênin được không, Nguyễn Ái Quốc đã dũng
cảm nêu lên những nhận xét và quan điểm: "Cuộc đấu tranh giai cấp không
diễn ra giống như ở phương Tây", "chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất
nước", "xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó" và "chúng ta
phải coi chừng”! Các dân tộc Viễn Đông có trải qua hai giai đoạn đầu (chế
độ nơ lệ, chế độ nơng nơ - N.H) khơng?". Có thể nói, những nhận thức nêu
lên trong bản báo cáo trên chính là ngọn nguồn tư tưởng của đường lối
giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ ngay từ đầu và sự đổi mới chiến lược,
sách lược bước đầu được xác định ở Hội nghị Trung ương VIII (khoá I), để
rồi sau đó, được hồn chỉnh ở Đại hội II của Đảng. Và, 29 năm sau, trong
Thường thức chính trị, Hồ Chí Minh đã trực tiếp trả lời cho những vấn đề
nêu trên với những nội dung hoàn toàn mới mẻ như sau: "Thời đại của
chúng ta là thời đại mới, thời đại cách mạng thắng lợi...". "Thời đại mới
khiến cách mạng Việt Nam phải là cách mạng dân chủ mới". Và, "tuỳ theo
hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau để đi đến
CHXH.
Đối với Việt Nam là một nước đi lên CHXH từ xã hội phong kiến
thuộc địa thì phải "kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên CHXH". Đồng
thời, Hồ Chí Minh đã nêu lên những đặc điểm về chính trị và kinh tế của chế
độ dân chủ mới: sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện "nhân dân dân chủ chuyên

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


chính", phát triển nền kinh tế 5 thành phần (quốc doanh, hợp tác xã, cá thể,
tư bản tư nhân, tư bản Nhà nước, trong đó, kinh tế quốc doanh giữ vai trị
lãnh đạo).
Nhìn vào những quan điểm mới mang tính hệ thống trong tư tưởng Hồ

Chí Minh, chúng ta thấy, chúng xứng đáng được mệnh đanh là một học
thuyết mới - học thuyết Hồ Chí Minh. Trong một bài viết về tư tưởng Hồ
Chí Minh, nhà cách mạng lão thành, Giáo sư sử học Trần Văn Giàu đã có lý
khi đề cập đến phương pháp luận, phương pháp tư duy Hồ Chí Minh. Đây
chính là cơ sở dẫn đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Ơng viết: "Suốt
đời mình, Cụ Hồ có tính quen là quan sát thực tế... Sát thực tế là tính Cụ
Hồ", "óc phân tích tổng hợp của Cụ Hồ rất sắc sảo". Và, "Cụ Hồ là người
Việt Nam đầu tiên đề cao tầm quan trọng của lý luận. Theo Cụ Hồ, lý luận
đối với một chính đảng quan trọng như linh hồn đối với con người. Song
người ta thấy Cụ Hồ sau khi đã vạch ra tổng lộ tuyên thì chú trọng đặc biệt
đến thực tiễn. Thực tiễn có thể chứng minh hoặc bác bỏ, hoặc địi sửa đổi
chủ trương mang tính lý luận. Thấy sai trái hay thiếu sót thì can đảm sửa, bổ
sung, hay bỏ đi, đến đây thì thực tiễn là ưu tiên. Cụ Hồ là người dám nhìn
thẳng vào sự thật. Cụ xem thực tiễn là trọng yếu số một. Cụ khơng thích lý
luận tư biện cũng như khơng thích thực tiễn mù quáng".
Trong thư từ biệt gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp trước khi rời
Paris năm 1923, Người viết: “Chúng ta phải làm gì? Chúng ta khơng thể đặt
vấn đề ấy một cách máy móc. Điều đó tuỳ hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng
ta. Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức
tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc
lập". 30 năm sau, Người viết rất rõ trong Thường thức chính trị: "Tất cả
những người lao động trên thế giới đều có một mục đích chung là thốt khỏi
áp bức bóc lột, được sống sung sướng tự do, tức là thực hiện chế độ cộng
sản. Nhưng để đi đến mục đích ấy, mỗi nước phải tuỳ theo điều kiện của
mình mà tiến dần"...
"Tính chất thuộc địa và phong kiến của xã lội cũ Việt Nam khiến cách
mạng Việt Nam phải chia làm hai bước. Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc,
đánh đổ củ phong kiến, thực hiện "người cày có ruộng", xây dựng chính trị
và kinh tế dân chủ mới. Trong giai đoạn này, phải bảo vệ tư sản dân tộc, vì
họ cũng chống đế quốc, chống phong kiến và họ là một lực lượng để phát

triển công nghệ, nông nghiệp và thương nghiệp. Bước thứ hai là tiến lên
CHXH, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản".

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Thật rõ ràng, không thể đặt vấn đề một cách máy móc, giáo điều, Việt
Nam nhất định sẽ đi đến CHXH nhưng từ điểm xuất phát là xã hội thuộc của
và phong kiến, nên phải theo một con đường riêng thích hợp, mọi chủ
trương chính sách đều phải xuất phát từ hoàn cảnh thực tế, cụ thể của đất
nước và mỗi khi tình hình biến đối, có điều kiện mới nảy sinh thì phải kịp
thời có sự thay đổi trong nhận thức tư tưởng và trong hành động, kể cả trong
chiến lược, sách lược cách mạng, vận dụng linh hoạt phép biện chứng duy
vật, lấy lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân làm thước đo chân lý duy nhất,
coi lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân trên hết. Đó là những cơ sở khiến cho
Hồ Chí Minh, với trí tuệ phi thường của mình, sáng tạo nên một hệ thống
những quan điểm mới về chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp với điều
kiện thực tế của Việt Nam và tính chất của thời đại mới, đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Xét đến cùng, theo học thuyết Hồ Chí Minh, lợi ích của tổ quốc, của
nhân dân mới là “cái bất biến”, tất cả mọi cái khác, kể cả những quan điểm,
tư tưởng, nếu muốn duy trì địa vị là chân lý hoặc trở thành chân lý mới, đều
phải phù hợp với "cái bất biến" đó. Những gì trái với nó đều không phải là
chân lý, càng không phải là chân lý mới. Người nói: “Chân lý là cái gì có lợi
cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân
tức khơng phải chân lý".
4) Đẩy mạnh công cuộc đổi mới sáng tạo vì độc lập dân tộc và CNXH:
Sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo đã và đang đem lại những thắng lợi to lớn. Thực tế đã minh chứng:
Đảng Cộng sản Việt Nam chính là người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi

của cách mạng Việt Nam. Đây cũng là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục tự đổi mới, hoàn thiện, nâng cao năng lực lãnh đạo cách mạng, tiếp
tục huy động trí tuệ và sức mạnh của tồn dân, phấn đấu vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
_ Đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam:
Bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở Việt Nam là những chủ
trương và giải pháp do Hội nghị Trung ương 6 khóa IV Đảng Cộng sản Việt
Nam (8-1979) đề ra nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế
và cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho sản xuất bung ra. Tiếp đó, Đảng và
Chính phủ đề ra nhiều chính sách cụ thể: Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (13-11981) về khốn sản phẩm trong hợp tác xã nông nghiệp; Quyết định 25 CP

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


và 26 CP (21-1-1981) về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị
quyết Trung ương 8 khóa V (6-1985) xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan
liêu, hành chính, bao cấp để chuyển sang hạch tốn kinh doanh; Kết luận của
Bộ Chính trị (8-1986) về đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý và cơ cấu
sản xuất. Đó là q trình đổi mới từng bước và cũng từng bước hình thành
đường lối đổi mới toàn diện tại Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12-1986).
_ Đổi mới nhận thức thực tiễn và tư duy lý luận:
Đường lối đổi mới của Đại hội VI trước hết là đổi mới nhận thức thực
tiễn và tư duy lý luận. Đổi mới nhận thức thực tiễn là thái độ của Đảng trong
đánh giá tình hình với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật, thấy rõ những thành tích nhưng cũng chú trọng kiểm
điểm những mặt yếu kém, phân tích những sai lầm, khuyết điểm, tìm ra
nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục. Đổi mới tư duy lý luận hướng
vào nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội với những quy luật khách quan và đặc trưng cơ bản. Từ thực tiễn lãnh

đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đó, Đại hội VI đã nêu lên những bài
học quan trọng, trong đó có bài học: Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực
tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Khắc phục bệnh chủ
quan duy ý chí, nóng vội, làm trái quy luật, nhất là quy luật về sự phù hợp
giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ sự đổi mới trong tư duy lý luận, Đại hội VI quyết định đổi mới
chính sách kinh tế, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần (kinh tế xã
hội chủ nghĩa, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản
nhà nước và kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp); đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ
cơ chế tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp, kết hợp kế hoạch với thị
trường, nhận thức đúng vai trò của kinh tế hàng hóa, cơ chế thị trường; thực
hiện những chương trình kinh tế lớn để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của
sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân. Đại hội VI nhấn mạnh đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước, khắc phục bệnh quan
liêu, chú trọng lấy dân làm gốc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng
cao trình độ lý luận, trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, xã hội bằng pháp luật. Đại hội VI
chú trọng đổi mới chính sách đối ngoại, mở rộng quan hệ hợp tác với các
nước, coi trọng thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add


Với đường lối đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, Đại hội VI của Đảng là bước
ngoặt có ý nghĩa lịch sử của quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ
nghĩa, xây dựng và phát triển đất nước.
Hơn 20 năm đổi mới là thời gian quá ngắn so với lịch sử dân tộc và
chỉ chiếm 1/4 thời gian tồn tại và phát triển của Đảng, nhưng lại gặt hái được
nhiều giá trị lớn. Đảng ta có bước trưởng thành, vượt lên chính mình. Lần
đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, trên diễn đàn đại hội, mở đầu Báo cáo chính

trị, thay mặt tồn Đảng, Tổng Bí thư Trường Chinh đã nói rõ quan điểm và
thái độ của Đảng trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Tinh thần này đánh dấu sự đột phá
trong đổi mới tư duy của Đảng. Nhìn thẳng vào sự thật là cùng với đánh giá
đúng những thành tích đã đạt được, phải chú trọng kiểm điểm những mặt
yếu kém, phân tích sâu sắc những sai lầm và khuyết điểm, vạch rõ nguyên
nhân, nêu ra biện pháp khắc phục. Điều này chỉ có được với một Đảng chân
chính, thật sự Cách mạng.
Trong sự nghiệp cách mạng, một điểm mấu chốt là tạo lòng tin của
nhân dân đối với Đảng - những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo
của Đảng - như Bác Hồ viết. Lòng tin này xuất phát từ tư cách của Đảng
chân chính cách mạng. Qua hơn 20 năm đổi mới, trừ một bộ phận nhỏ cán
bộ, đảng viên thối hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối
sống; mắc tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân, Đảng ta vẫn
xứng đáng là “đạo đức, là văn minh”, tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương
tâm của dân tộc. Bởi vì thành quả và giá trị lớn nhất qua 20 năm đổi mới là
dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội,
có sự thay đổi cơ bản và toàn diện.
Bảo đảm được tốc độ tăng trưởng kinh tế, ngay cả khi kinh tế thế giới
suy thoái và khủng khoảng, chúng ta vẫn đạt tăng trưởng trên 5% và là một
trong số ít các nước tăng trưởng dương; sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy
mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối
đại đồn kết dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị-xã hội ổn định.
Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế
được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra
thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



Lời mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của cách
mạng Việt Nam, anh hùng giải phịng dân tộc, danh nhân văn hố thế giới;
Suốt cả cuộc đời, Người hy sinh cho sự nghiệp cách mạng, cho dân tộc độc
lập, cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân và cho toàn nhân loại.
Người dành tất cả tình thương yêu cho đồng bào, đồng chí, con cháu, già,
trẻ, gái, trai, miền xi, miền ngược, Bắc cũng như Nam. Mỗi một bài nói,
bài viết, một lời căn dặn, một buổi gặp gỡ, công tác của Người đều chứa
đựng ý nghĩa tư tưởng, hành vi và quan hệ đạo đức cách mạng sáng ngời.
Con người, cuộc sống và sự nghiệp cách mạng của Người đều là tấm gương
đạo đức cho toàn Đảng, toàn dân ta học tập suốt đời. Tuy Người đã đi xa,
nhưng để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô cùng to lớn, những tư
tưởng vô giá, những giá trị nhân văn cao cả, trong đó đặc biệt là tư tưởng
đạo đức cách mạng.
Trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 105 năm ngày sinh chủ tịch HCM có
viết: “Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi
mới và sáng tạo.”
Những tư tưởng vĩ đại vô giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần phải có
nhiều cơng trình khoa học tầm cỡ quốc gia nghiên cứu, cần nhiều thời gian
để tìm tịi đúc kết. Do vậy, ở đây em khơng tham vọng trình bày được tồn
bộ tư tưởng của Người, mà chỉ là 1 góc cạnh dựa trên cơ sở học tập, sưu tập
tài liệu, thêm một chút nghiềm ngẫm. Từ đó xin được góp phần làm hiểu rõ
3 vấn đề cơ bản trong hệ tư tưởng của Người:
_ Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
_ Tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường.
_ Tư tưởng đổi mới và sáng tạo.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



Lời kết
Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến
động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của
cộng đồng quốc tế. Dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt
với xu thế tồn cầu hóa, với tất cả mặt tích cực và tiêu cực, bất trắc; dù cho
ai đó bị lóa mắt bởi những bộ áo cánh sặc sỡ của chủ nghĩa tư bản thì hệ tư
tưởng giá trị : Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tự chủ tự lực tự cường,
đổi mới sáng tạo, trong ý thức và trong hành động vẫn là mục tiêu, tư tưởng,
là quốc bảo phù hợp xu thế thời đại. Mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bước vào thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong
sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các
nước trong khu vực và trên thế giới.

LUAN VAN CHAT LUONG download : add



×