Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

Nghiên cứu mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng Tây Nguyên.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.65 KB, 75 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Tên bảng Trang
2.1 Diện tích đất lâm nghiệp vùng
Tây Nguyên
32
2.2 Tốc độ và xu hướng tăng
trưởng GDP vùng Tây Nguyên
36
2.3 Cơ cấu kinh tế 37
2.4 Số xã, phường thuộc diện
nghèo đói và đặc biệt khó khăn
38
2.5 Diện tích rừng được giao tại
các tỉnh Tây Nguyên
57
3.1 Diện tích che phủ rừng của các
tỉnh Tây Nguyên
68
3.2 Diện tích rừng bị chặt phá của
các tỉnh Tây Nguyên
69
1
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Tên hình vẽ trang
2.1 Nguyên tắc quản lý rừng cộng
đồng ở Tây Nguyên
48
2.2 tiến trình triển khai mô hinh
CBFM tại Tây Nguyên
49


3.1 Mô hình phân chia lợi ích kha
thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ tại
thôn Bunor
61
PHẦN MỞ ĐẦU
2
1. Tính cấp thiết của đề tài
Suy thoái rừng đang là một vấn đề bức bách ở Việt Nam, ảnh hưởng đến
hệ sinh thái, đa dạng sinh học và biến đổi môi trường nói chung. Diện tích rừng
bị suy giảm từ 43% xuống còn 28,2% (1943 - 1995). Rừng ngập mặn ven biển
cũng bị suy thoái nghiêm trọng giảm 80% diện tích do bị chuyển đổi thành các
ao - đầm nuôi trồng thuỷ hải sản thiếu quy hoạch. Gần đây, diện tích rừng tuy có
tăng lên 37% (năm 2005), nhưng tỷ lệ rừng nguyên sinh cũng vẫn chỉ ở mức
khoảng 8% so với 50% của các nước trong khu vực. Đây là một thách thức lớn
đối với Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu, trong các hoạt động thực
hiện mục tiêu năm 2010 của Công ước đa dạng sinh học nhằm tăng cường hiệu
quả bảo tồn và dịch vụ của các hệ sinh thái rừng trong giảm thiểu thiên tai, bảo
vệ tài nguyên nước, giảm phát thải CO2. Cùng với đó một vấn đề mà Việt Nam
đặt ra là sinh kế cho người dân tộc thiểu số.
Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa xóa đói
giảm nghèo và bảo tồn rừng, bằng việc đặt kế hoạch sẽ giảm tỉ lệ nghèo của toàn
quốc xuống dưới 40% và phục hồi tỉ lệ che phủ rừng tới 43% vào năm 2010.
Một số tiềm năng được xác định bao gồm: (a) chi trả các dịch vụ môi trường đã
được xem xét ở trong các chính sách. Việc phát triển các cơ chế hỗ trợ người
nghèo thông qua việc đền đáp các dịch vụ môi trường mà họ cung cấp đang diễn
ra; (b) quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM) được khuyến khích phát triển
dựa trên nhận định rằng cộng động chính là chủ thể quản lý đất rừng; (c) hợp tác
công tư theo định hướng thị trường trong việc trồng mới rừng, phòng tránh phá
rừng và suy thoái rừng, tạo thu nhập thay thế đảm bảo an toàn lương thực đang
được các nhà tài trợ và chính phủ khuyến khích và hỗ trợ. Đáng khuyến khích

hơn, các dự án thí điểm ở Đông Nam Á và Việt Nam đã cho thấy các cơ hội và
3
giải pháp đôi bên cùng có lợi trong việc giải quyết các vấn đề nghèo đói và môi
trường, đặc biệt với các trường hợp rất khó giải quyết trong nhiều năm. Ngoài ra,
các đền đáp như một động lực cho việc quản lý môi trường đang ngày càng trở
nên phổ biến dưới sự tác động và hỗ trợ của việc thực hiện các cơ chế thị trường
mới và phức tạp.
Quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần và chuyển hướng
chiến lược lâm nghiệp, từ lâm nghiệp Nhà nước sang lâm nghiệp nhân dân đã
xuất hiện nhiều nhân tố mới, đặc biệt là đa dạng hoá các phương thức quản lý tài
nguyên rừng.
Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là một trong những mô hình quản lý
rừng đang thu hút sự quan tâm ở cấp Trung ương và địa phương. Xét về mặt lịch
sử, ở Việt Nam, rừng cộng đồng đã tồn tại từ lâu đời, gắn liền với sự sinh tồn và
tín ngưỡng của các cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng. Đặc biệt, trong vài
năm gần đây, xuất phát từ yêu cầu quản lý rừng, một số địa phương đã triển khai
giao đất, giao rừng cho cộng đồng (làng bản , nhóm hộ...) quản lý, sử dụng ổn
định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp, theo đó, cộng đồng với tư cách như một
chủ rừng. Ngoài ra, các cộng đồng còn tham gia nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi
tái sinh và trồng mới rừng của các tổ chức Nhà nước. Thực tiễn một số nơi đã chỉ
rõ quản lý rừng dựa vào cộng đồng địa phương sống gần rừng là mô hình quản lý
rừng có tính khả thi về kinh tế - xã hội, phù hợp với tập quán sản xuất truyền
thống của nhiều dân tộc ở Việt Nam.
Tây Nguyên là vùng có diện tích đất và rừng lớn nhất cả nước cùng với đó
là vai trò của rừng và đất rừng đối cộng đồng các đồng bào dân tộc Tây Nguyên
không chỉ đơn thuần là tư liệu sản xuất mà nó còn mang ý nghĩa về văn hóa, tâm
4
linh. Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng nói ở Tây Nguyên người là rừng và rừng
cũng là người. Mặt khác cộng đồng các dân tộc ở nơi đấy có tính cộng đồng rất
cao, sống tập trung và tham gia nhiều sinh hoạt mang tính chất cộng đồng. do

vậy việc chính phủ thực hiện thí điểm mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng
ở Tây Nguyên đã mang lại những kết quả hết sức khả quan.
Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“Nghiên cứu mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng Tây
Nguyên”
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài:
2.1 Mục tiêu:
Qua việc nghiên cứu mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng
Tây Nguyên để từ đó xem xét mô hình có được triển khai hiệu quả hay không,
những khó khăn trong việc áp dụng mô hình này là gì và có thể đưa ra những
giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn đó.
2.2 Nhiệm vụ
- Tổng quan cơ sở lý luận về mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng
(CBFM) và xu thế phát triển của mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở
Việt Nam
- Thực trạng triển khai áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng
tại Tây Nguyên như thế nào và vấp phải những khó khăn gì
- Đánh giá hiệu quả của việc áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng
đồng tại Tây Nguyên. Từ đó đưa ra những khó khăn mà mô mình gặp phải và
những giải pháp, kiến nghị để giải quyết những khó khăn đó.
5
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian lãnh thổ: địa bàn nghiên cứu là vùng Tây Nguyên
- Về giới hạn khoa học: chuyên để chỉ đi sâu vào nghiên cứu mô hình
quản lý rừng dựa vào cộng đồng được thực hiện tại Tây Nguyên chủ yếu dựa
trên chính sách giao đất giao rừng của Nhà nước.
4. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu: tổng hợp từ nguồn tổng cục thống kê
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp về quản lý rừng dựa vào cộng đồng

5. Cấu trúc chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, chuyên đề được
trình bày trong ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý rừng dựa vào cộng đồng và kinh
nghiệm quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng Tây
Nguyên
Chương III: Đánh giá hiệu quả hoạt động của mô hình quản lý rừng dựa
vào cộng đồng
6

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỪNG DỰA VÀO CỘNG
ĐỒNG VÀ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM.
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý rừng dựa vào cộng đồng
1.1.1 Quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM)
PFM: participation forest management là một thuật ngữ chung mô tả cộng
đồng trong quản lý rừng. quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM ) là một dạng
của phương pháp PFM và được áp dụng cho khu đất thuộc quản lý cấp xã, những
khu rừng giao cho tư nhân quản lý hoặc được quản lý bởi Ủy ban nhân dân xã.
- Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là khái niệm để chỉ cộng đồng tham gia
quản lý rừng thuộc nguồn gốc hình thành thứ ba. Rừng trong trường hợp này
cộng đồng là những chủ thể quản lý trực tiếp tham gia và được hưởng lợi.
1.1.2 Nội dung chủ yếu của CBFM
+ Cộng đồng là những chủ thể quản lý rừng: quản lý rừng dựa vào cộng
đồng đưa ra hình thức quản lý rừng ở cấp xã, nơi mà người dân địa phương đóng
vai trò vừa là người quản lý vừa là chủ rừng. Để triển khai mô hình này một cách
tốt nhất thì một cơ quan ở cấp xã là đại diện triển khai mô hình này. Vai trò của
cơ quan này thể hiện ở sự hỗ trợ và giúp đỡ người dân quản lý rừng một cách
hiệu quả và bền vững.

+ Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là một mô hình có thể áp dụng cho tất
cả các loại rừng:
7
CBFM có thể áp dụng cho bất kỳ loại rừng nào – những khu rừng có độ đa
dạng sinh học cao hay thấp, rừng nguyên sinh hay rừng đã bị suy kiệt, những khu
rừng rộng lớn hay nhỏ… điều quan trọng nhất là ta cần hiểu được rằng CBFM
được áp dụng cho những khu rừng và đất rừng thuộc địa bàn xã chứ không áp
dụng mô hình này cho những khu bảo tồn của địa phương hay quốc gia. Mục
tiêu của mô hình CBFM có thể là bảo tồn và phát triển cả rừng phòng hộ và sản
xuất hoặc hỗn hợp cả hai loại rừng này. Trong một vài trường hợp, người dân
mong muốn bảo tồn rừng của họ vì truyền thống hoặc những mục đích thiêng
liêng, trong một vài trường hợp khác nó có thể để bảo vệ một nguồn nước quan
trọng.
+ Người dân là mục tiêu tổng quan nhất của mô hình CBFM: người dân
địa phương hoặc cộng đồng trong trường hợp này là những người sống trong
hoặc sống ngay bên cạnh những khu rừng thuộc địa bàn xã của họ. Mối quan hệ
lâu đời giữa người dân và những khu rừng và sự gần gũi của họ với rừng khiến
họ trở thành những người tốt nhất để quản lý rừng bền vững.
+ Cộng đồng không chỉ là những người bảo vệ mà còn là những người có
quyền ra quyết định: việc quản lý trong mô hình CBFM bao gồm tất cả những
hình thức quản lý rừng, bảo vệ rừng, đánh giá rừng thường kỳ, trồng rừng và
những hoạt động phục hồi và phát triển khả năng sản xuất của rừng. Người dân
không chỉ phải có trách nhiệm quản lý rừng đúng với mục đích mà còn có quyền
đưa ra các quyết định. Điều này đã định hướng cho cách thức hoạt động của mô
hình. CBFM là một chiến lược phân chia quyền lợi. Nó thực thi dựa trên cơ sở
các chính sách của nhà nước trong việc cho phép sự tham gia của người dân địa
phương trong quản lý rừng và thực tế cần đưa ra những biện pháp kiểm soát và
quản lý ở cấp địa phương hợp lý hơn. Nó tập trung vào bảo tồn những khu rừng
8
không chỉ thông qua việc phân chia quyền kiểm soát và quản lý chúng mà còn

phân chia quyền sử dụng hay hưởng lợi từ chúng. Vì vậy mục tiêu của mô hình
này là cộng đồng không chỉ là những người hưởng lợi thụ động mà còn là những
người hưởng tiền hoa lợi mà gắn với đó là trách nhiệm quản lý rừng.
+ Tối ưu hóa cơ cấu tổ chức xã hiện hành: CBFM không tạo ra những tổ
chức, cơ quan mới nhưng nó dựa vào cơ cấu hiện hành để tồn tại. Xã là đơn vị
hành chính thấp nhất, là tập hợp một cộng đồng người được thừa nhận là cùng
chung sống trên một khu vực cụ thể và có quyền bầu ra bầu ra cơ quan hành
chính làm đại diện cho quyền lợi của cộng đồng (ủy ban nhân dân xã) để quản lý
những công việc của xã. Ủy ban nhân dân xã đã đóng vai trò khá tích cực và có
khả năng để vận hành mô hình CBFM tốt. ủy ban nhân dân xã có quyền ban
hành những văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hoạt động của các
thực thế trong phạm vi địa lý của xã đó. ủy ban nhân dân xã cũng là cơ quan có
trách nhiệm pháp lý đối với những người dân, hoạt động vì lợi ích của người
dân. Ranh giới giữa các xã có thể phân chia dựa theo những ranh giới tự nhiên,
hoặc những ranh giới chạy qua các khu rừng.
+ Sử dụng khu đất dự trữ như là nền tảng cơ bản CBFM được dựa trên
khu đất dự trữ đó để xây dựng một vùng phát triển rừng ( phòng hộ hoặc/và sản
xuất). hai quá trình phân chia đất dự trữ quan trọng diễn ra trong CBFM:
• Người dân được giúp đỡ về kỹ thuật để xác định đặc tính của đất và phân
loại quỹ đất dự trữ ra khỏi những khu đất khác thuộc địa bàn xã.
• Những nhóm nhỏ hơn trong cộng đồng được giúp đỡ để xác định đặc
tính và phân chia những khu đất rừng dự trữ mà họ sẽ cùng nhau làm chủ.
+ Thay đổi vai trò của cán bộ lâm nghiệp:
9
Theo truyền thống, cán bộ kiểm lâm huyện đóng vai trò như một cảnh sát.
Theo mô hình mới, cán bộ kiểm lâm huyện hiện nay có một chức năng mới là
giúp người dân nhận biết, điều tra và quản lý rừng của họ vì lợi ích chung của
cộng đồng. Cán bộ kiểm lâm giống như một đối tác của cộng đồng, tư vấn cho
họ làm cách nào để quản lý rừng tốt nhất trong cả ngắn hạn và dài hạn. phương
pháp luận của việc thiết lập mô hình CBFM dựa vào cán bộ lâm nghiệp như là

những cố vấn viên (khuyến khích, hỗ trợ, hướng dẫn). trong khi đang làm thay
đổi mối quan hệ giữa cán bộ kiểm lâm với cộng đồng: từ vai trò người chỉ đạo
sang:
• Tư vấn kỹ thuật cho cộng đồng: cung cấp những thông tin kỹ thuật thích
hợp hoặc
• Tạo ra sự liên kết giữa cộng đồng và cơ quan cấp huyện
• Người trung gian hòa giải giữa các cộng đồng hoặc giữa các nhớm
• Cảnh giới môi trường: cán bộ kiểm lâm giám sát tiến độ thực thi và họ
biết lúc nào cần hỗ trợ, lúc nào cần can thiệp nếu cộng đồng không tuân theo
cam kết quản lý rừng đã được ký kết.
Trong khi những kiến thức chủ yếu không phải từ đào tạo mà từ thực tế.
những thành quả đạt được thông qua cách giải quyết hợp lý khi cộng đồng phải
đối mặt với một vấn đề và khả năng nhận dạng và giải quyết các vấn đề tiếp theo
được nâng lên.
+ Hướng dẫn chứ không phải ra lệnh
Nhân viên kiểm lâm là những người giúp đỡ và tư vấn cho người dân địa
phương
10
1.1.3. Các giai đoạn cơ bản trong việc thực hiện CBFM
- Giai đoạn 1: khởi động
Giai đoạn này được triển khai ở cấp huyện, với việc lựa chọn những xã và
hướng dẫn cho cán bộ huyện cộng với đó là hình thành một nhóm cán bộ với
những kỹ năng khác nhau để làm việc ở cấp xã. Tổ chức các cuộc gặp và cuộc
họp cấp xã để việc thiết lập và định hướng cho bản cam kết được thuận lợi hơn.
- Giai đoạn 2: thực hiện quản lý và đánh giá
Giai đoạn này bắt đầu bằng việc xác định và quy hoạch lại ranh giới về đất
và rừng giữa các xã. Sau đó rừng sẽ được rà soát hoặc đánh giá và dựa vào đó
một kế hoạch quản lý sẽ được đưa ra cùng với những quy định của xã.
- Giai đoạn 3: chính thức hóa và hợp pháp hóa
Kế hoạch quản lý và những quy định riêng của xã được đưa ra trong

những cuộc họp cấp xã để được thông qua và cuối cùng là được chấp thuận bởi
ủy ban nhân dân cấp huyện. khi đã được phê duyệt, xã có thể chuyển sang giai
đoạn 4 và bắt đầu thực hiện kế hoạch quản lý rừng của họ.
- Giai đoạn 4: thực thi
Giai đoạn này sẽ được triển khai ở cộng đồng. hệ thống quản lý rừng cần
bổ nhiệm và đào tạo đội tuần tra với chức năng ban đầu là giám sát và đảm bảo
rằng những quy định đã được phổ cập tới từng người dân. Huyện đảm nhiệm vai
trò quan trắc và hỗ trợ bằng việc giám sát tiến độ và giúp giải quyết các vấn đề.
- Giai đoạn 5: xem xét và đưa ra những đề xuất hợp lý
Sau năm năm cộng đồng sẽ được xem xét và phê duyệt lại kế hoạch quản
lý của họ dựa vào những gì đã làm được trong khoảng thời gian đó. Từ đó có thể
11
rút ra những bài học kinh nghiệm và thay đổi những cách thức không còn phù
hợp.
- Giai đoạn 6: mở rộng mô hình sang những địa bàn khác
Giai đoạn này là giai đoạn triển khai mô hình ở những xã khác. Trong suốt
giai đoạn này chúng ta cần đưa ra những kế hoạch cụ thể và dự thảo ngân sách
cho việc mở rộng mô hình sang xã khác.
1.2. Quyền lợi và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng được
giao rừng, khoán bảo vệ rừng.
1.2.1 Quyền lợi
1.2.1.1. Đối với trường hợp được giao rừng và đất trồng rừng sản xuất.
a. Được hưởng toàn bộ sản phẩm thu hoạch trên diện tích rừng được giao,
bao gồm :
- Sản phẩm gỗ, lâm sản tận thu, tận dụng trong quá trình thực hiện các
biện pháp lâm sinh theo quy phạm các giải pháp lâm sinh áp dụng cho rừng sản
xuất gỗ và tre nứa ban hành kèm theo Quyết định số 200/QĐ-KT ngày 31/3/1993
của Bộ Lâm nghiệp ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn );
- Khi rừng tự nhiên, rừng trồng chưa đủ điều kiện khai thác chính, thì
được khai thác gỗ để giải quyết các nhu cầu thiết yếu của hộ gia đình, như làm

nhà mới, sửa chữa, thay thế nhà cũ. Mức khai thác cho mỗi hộ không quá 10m3
gỗ tròn ( cho một lần làm nhà mới, sửa chữa, thay thế nhà cũ ). Thủ tục khai thác
thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Quyết định số 03/2005/ QĐ-BNN
ngày 7/01/2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
12
- Sản phẩm khai thác chính khi rừng tự nhiên đến tuổi khai thác, theo quy
định tại Quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác, ban hành kèm theo Quyết định số
40/2005/QĐ-BNN ngày 07/07/2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn);
- Sản phẩm khai thác tận dụng, tận thu, khai thác chính từ rừng trồng trên
đất không có rừng; tuổi khai thác; phương thức khai thác, thủ tục khai thác do
người trồng rừng tự lựa chọn và quyết định.
b. Được hỗ trợ cây giống chất lượng cao để trồng rừng sản xuất.
- Mức hỗ trợ: trồng cây gỗ nhỏ mọc nhanh, cây lâm đặc sản
1.500.000đồng/ ha, cây gỗ lớn 2.500.000đồng/ ha;
- Phương thức hỗ trợ: giao cho đơn vị có chức năng, đảm bảo sản xuất
giống đạt chất lượng, có nguồn gốc rõ ràng để thực hiện việc gieo ươm và cung
ứng trực tiếp đến người dân.
c/ Được tham gia và hưởng lợi từ các dự án khuyến nông, khuyến lâm trên
địa bàn.
1.2.1.2 Đối với trường hợp nhận khoán bảo vệ rừng.
Ngoài chế độ được hưởng lợi theo quy định tại khoản 1, 3, 4 và 5 Điều 6
Quyết định số 304, người dân còn được hưởng các sản phẩm thu hoạch trên diện
tích rừng được khoán, bao gồm:
- Sản phẩm gỗ, tre nứa tận thu, tận dụng trong quá trình thực hiện các biện
pháp lâm sinh theo Quy phạm các giải pháp lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất
gỗ và tre nứa ban hành kèm theo Quyết định số 200/QĐ-KT ngày 31/3/1993 của
Bộ Lâm nghiệp ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ). Tỷ lệ hưởng
13
lợi theo quy định tại quyết định số 178/ 2001/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm

2001 của Thủ tướng Chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá
nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp ( sau đây gọi tắt
là Quyết định số 178 );
- Toàn bộ sản phẩm là lâm sản ngoài gỗ, tre nứa thu hái từ rừng tự nhiên,
rừng trồng ( trừ các loại nguy cấp, quý hiếm theo quy định của Chính Phủ );
- Đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên, nếu chưa đủ điều kiện khai thác
chính và rừng phòng hộ, được khai thác tận dụng gỗ từ việc chăm sóc, tỉa thưa
rừng để giải quyết các nhu cầu thiết yếu của hộ gia đình, như làm nhà mới, sửa
chữa thay thế nhà cũ. Mức khai thác cho mỗi hộ không quá 10m3 gỗ tròn ( cho
một lần làm nhà mới, sửa chữa, thay thế nhà cũ ). Thủ tục khai thác, thực hiện
theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Quyết định số 03/2005/ QĐ-BNN ngày 7 tháng
01 năm 2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
- Sản phẩm khai thác chính từ rừng trồng, rừng tự nhiên khi đến tuổi khai
thác được quy định tại Quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác, ban hành kèm theo
Quyết định số 40/2005/QĐ-BNN ngày 07 tháng 7 năm 2005 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn. Tỷ lệ hưởng lợi theo quy định tại Quyết định số
178;
b. Được hỗ trợ cây lâm nghiệp; tham gia và hưởng lợi từ các dự án khuyến
nông, khuyến lâm trên địa bàn như đối với trường hợp được giao rừng và đất
trồng rừng sản xuất.
14
1.2.2. Nghĩa vụ
Ngoài việc thực hiện theo quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 7 Quyết
định số 304, các hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng được giao rừng, khoán bảo
vệ rừng còn có các nghĩa vụ sau:
- Sử dụng rừng được giao, được khoán bảo vệ đúng mục đích, đúng quy
hoạch; chịu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng và chủ
rừng về kế hoạch sản xuất, quy trình kỹ thuật trong quá trình sử dụng rừng được
giao, được khoán bảo vệ;
- Nếu vi phạm các điều khoản trong quyết định giao rừng, hoặc hợp đồng

khoán bảo vệ rừng thì bị thu hồi quyết định theo quy định của pháp luật về đất
đai, hoặc huỷ bỏ hợp đồng khoán bảo vệ;
- Trả lại rừng và đất rừng được giao, được khoán bảo vệ khi cơ quan chức
năng có thẩm quyền thu hồi theo quy định của pháp luật về đất đai;
- Thực hiện đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ của người lao động đối với chủ
sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động;
- Đóng đầy đủ các loại thuế theo quy định của pháp luật.
1.3. Mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ( CBFM) ở Việt Nam
1.3.1. Cơ sở của việc áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng
(CBFM)
Nước ta có hơn 50 dân tộc thiểu số, phần lớn sinh sống ở miền núi, thôn,
bản, buôn (gọi tắt là thôn buôn) là đơn vị xã hội truyền thống, cơ bản trong nông
thôn, miền núi cấu thành đơn vị hành chính cơ sở, có tính tương đối độc lập và
ổn định cao, là cộng đồng dân cư tự nhiên của các tộc người có mối quan hệ ràng
15
buộc, bởi có chung các yếu tố như: chung nơi cư trú, cùng tôn giáo, tín ngưỡng,
chung văn hóa, biểu hiện rõ nét trong ngôn ngữ và tập quán thống nhất của cộng
đồng và chung huyết thống. Mỗi thôn buôn đều có quy định rõ ràng về đất đai
của mình. Ranh giới thường căn cứ vào sông suối, mảnh đất, vạt ruộng mà cư
dân trong thôn, bản canh tác từ lâu đời… Có thể có những đường ranh giới chỉ
mang tính ước lệ, nhưng đều được các cộng đồng thôn bản bên cạnh thừa nhận
và tôn trọng. Ranh giới này thường do người già và người có công khai phá vùng
đất đó hoạch định. Cương vực của thôn không phải chỉ là khu vực đất cư trú,
thường bao gồm: đất ở, đất canh tác, là những phần rừng đã được khai phá đưa
vào canh tác: nương rẫy đang gieo trồng, ruộng bãi…; đất dự trữ là những cánh
rừng sẽ được khai phá trong thời gian những mùa rẫy sắp tới và những rẫy cũ
đang bỏ hoá; đất cấm canh tác là những rừng đầu nguồn nước, rừng trên chóp
núi để giữ nước, chống xói mòn và những khu rừng làm nơi chôn cất người chết,
rừng thờ cúng, rừng thiêng, rừng sử dụng vào mục đích lấy gỗ, lâm sản, săn bắn;
bến nước, nơi đánh bắt cá… Các dân tộc thiểu số thường có có tập quán quản lý

cộng đồng với đất đai và tài nguyên thiên nhiên trong địa phận thôn buôn. Trước
đây, với tập quán làm nương rẫy phổ biến thì tài nguyên quan trọng đối với cộng
đồng là rừng và đất rừng. Tuy có vài khía cạnh khác nhau, nhưng nét đặc trưng
chung nhất trong việc quản lý đất đai, tài nguyên của các dân tộc thiểu số là quản
lý theo cộng đồng thôn buôn, bản. Theo các quan niệm truyền thống của đồng
bào thì chế độ sở hữu và quyền sử dụng đất đai, tài nguyên rừng trong thôn là sở
hữu cộng đồng, của tất cả các thành viên trong thôn bản, mọi thành viên trong
cộng đồng đều được bình đẳng trong việc khai thác sử dụng theo luật tục/quy
ước của thôn do sự điều khiển của già làng, trưởng bản, người ngoài cộng đồng
không được vi phạm.
16
Chẳng hạn người Thái vùng Tây Bắc: Có tập quán phân loại rừng núi
thành các khu vực, nhằm phục vụ các nhu cầu khác nhau của cuộc sống cộng
đồng: rừng phòng hộ nằm trên các khu vực đầu nguồn nước, tuyệt đối cấm khai
thác; rừng dành cho việc khai thác tre gỗ dựng nhà và các nhu cầu khác thì tuyệt
đối không được phát nương làm rẫy, thường là vùng núi cao. Nhiều nơi quy định
“rừng măng cấm”- rừng chuyên để lấy măng. Rừng “gò săn” là khu vực rừng
nguyên sinh chuyên để dành cho tập quán săn thú tập thể - không được chặt cây
làm động thú rừng. Rừng núi dành cho phát nương làm rẫy, có diện tích khá
rộng. Núi rừng phục vụ cho cuộc sống tâm linh - “rừng thiêng” rừng ma.
Ở Tây Nguyên: Người Ê Đê và Mnông có luật tục rất phong phú, điều
chỉnh nhiều lĩnh vực: Tổ chức và quản lý cộng đồng xã hội; ổn định trật tự an
ninh và đảm bảo lợi ích cộng đồng; quan hệ dân sự quản lý sử dụng đất đai, bảo
vệ sản xuất, môi trường: duy trì và giáo dục nếp sống văn hóa, tín ngưỡng…
Cũng như vậy, luật tục quy định của người Tà Ôi, Vân Kiều ở miền Trung,
người Stiêng ở Đông Nam Bộ đều quan niệm đất đai, tài nguyên rừng là tài sản
chung của tất cả cộng đồng không phải của riêng ai. Quan niệm truyền thống về
quyền sở hữu đất đai: đất rẫy thuộc quyền của người khai phá đầu tiên. Khi
khoảnh rẫy đó được định canh vẫn thuộc sở hữu của người chủ rẫy đầu tiên, nếu
họ chết đi, đất đó được chuyển cho con cháu họ. Cộng đồng buôn làng khẳng

định quyền sở hữu của họ. Những tập tục đó là một phần luật tục cổ truyền của
cộng đồng dân tộc giúp họ quản lý cộng đồng trong quá trình bảo tồn và phát
triển. Ở đây, vai trò của già làng, trưởng thôn, trưởng dòng họ được đề cao. Họ
là những người có uy tín, có kinh nghiệm trong ứng xử xã hội, sản xuất, và xử lý
vướng mắc trong cộng đồng. Họ không chỉ giữ vai trò quan trọng duy trì trật tự
đối với công việc chung của dòng họ mà còn đối với cuộc sống của mỗi gia đình.
17
Ở nhiều nơi, trưởng dòng họ lớn thường được coi là đại diện của cộng đồng.
Giữa luật tục và vai trò của họ có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Quản lý cộng
đồng theo luật tục thể hiện tính tự quản trong cộng đồng dân cư thôn rất cao, tồn
tại song song với quản lý của Nhà nước phong kiến và thuộc địa. Sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945, những biến động lớn về chính trị, xã hội đã tác động lớn
đến cộng đồng dân cư của cộng đồng dân tộc thiểu số ở miền núi. Nhìn chung
các tập quán, luật tục được thay thế bằng thể chế của Nhà nước. Tuy nhiên, ở
một số cộng đồng một phần luật tục có liên quan đến tín ngưỡng, tâm linh, quản
lý đất rừng và làm nương rẫy theo cộng đồng vẫn được duy trì và còn hiệu lực.
Ở Việt Nam rừng và cộng đồng dân cư địa phương có mối quan hệ rất mật
thiết, có ảnh hưởng qua lại trực tiếp với nhau bởi các đặc điểm sau:
- Đặc điểm về tập quán. Trên diện tích đất quy hoạch cho sản xuất Lâm
nghiệp có khoảng 24 triệu dân sinh sống với 54 dân tộc, chủ yếu sinh sống ở
vùng núi. Đời sống của đồng bào rất gắn bó với rừng, một số lượng không nhỏ
dân cư này có cuộc sống phụ thuộc vào rừng, từ đất rừng để làm nương rẫy, đến
khai thác gỗ, củi thu hái lâm sản và săn bắt chim thú...
- Đặc điểm về xã hội. Trong đời sống xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số
vùng núi thì tính cộng đồng thôn bản là một thể chế xã hội cơ bản đã có từ lâu và
đến nay vẫn còn tồn tại. Mỗi làng bản có một lối sống riêng, một quy ước riêng
do cộng đồng tự xác lập, được các cộng đồng khác thừa nhận và tôn trọng. Các
cộng đồng này có truyền thống riêng về sở hữu, sử dụng đất đai, trong đó tính sở
hữu theo quản lý cộng đồng là một đặc điểm nổi bật. Qua nhiều biến động về
chính trị xã hội, các truyền thông trên tuy có bị mai một, nhưng vẫn được duy trì

trong công tác quản lý rừng.
18
1.3.2. Xu thế của quản lý rừng dựa vào cộng đồng của Việt Nam
Rừng cộng đồng đang tồn tại như một xu thế mang tính khách quan và
ngày càng có vị trí quan trọng trong hệ thống tổ chức quản lý tài nguyên rừng ở
Việt Nam. Tính đến nay diện tích đất lâm nghiệp do cộng đồng tham gia quản lý
chiếm khoản 15,5% diện tích đất lâm nghiệp của cả nước (Trong đó được cấp có
thẩm quyền giao chiếm khoảng 51%) Vị trí pháp lý của cộng đồng dân cư làng
bản, trước khi có Luật bảo vệ và phát triển rừng công bố năm 2004. Trong thời
gian gần đây đã có một số Nghị quyết của Đảng và văn bản của Chính phủ đề
cập đến một số nội dung có liên quan đến vị trí của cộng đồng dân cư làng bản
như
- Xác định nhiệm vụ nghiên cứu để xây dựng hương ước, lệ làng cổ làm
cơ sở cho việc ban hành hương ước, quy ước mới ở làng bản cho phù hợp với
pháp luật của Nhà nước.
- Xác định thôn, làng, bản, ấp không phải là một cấp chính quyền, nhưng
là nơi sinh sống của cộng đồng dân cư, là nơi thực hiện dân chủ một cách trực
tiếp và rộng rãi nhằm giải quyết công việc trong một bộ phận cộng đồng dân cư.
Trưởng thôn, làng, bản, ấp là đại diện cho cộng đồng dân cư trực tiếp liên hệ, đề
đạt nguyện vọng của cộng dân cư với cấp chính quyền cơ sở (uỷ ban nhân dân
xã). Trưởng thôn, làng, bản, ấp do nhân dân bầu ra và được uỷ ban nhân dân xã
công nhận. Nhà nước thừa nhận làng, bản là chủ rừng
Đối với diện tích rừng làng, rừng bản đã có trước ngày ban hành luật bảo
vệ và phát triển rừng, mà không trái với những quy định của luật bảo vệ và phát
triển rừng, luật đất đai. Vị trí pháp lý của cộng đồng dân cư thôn hiện nay: về
cộng đồng dân cư tham gia được luật bảo vệ và phát triển rừng công bố ngày
19
14/12/2004 đã thừa nhận như một đơn vị chủ rừng và được thể hiện trong luật về
quyền , nghĩa vụ của cộng đồng được giao rừng, cụ thể:
- Điều kiện giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn. Có cùng phong tục, tập

quán, có truyền thống gắn bó cộng đồng với rừng về sản xuất, đời sống, văn hóa,
tín ngưỡng, có khả năng quản lý rừng, có nhu cầu được giao rừng và phải phù
hợp với quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng được phê duyệt, phù hợp
với quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng được phê duyệt, phù hợp với
khả năng qũy đất của địa phương.
- Các khu rừng được xem xét giao cho cộng đồng thôn gồm có 3 loại:
+ Các khu rừng hiện do cộng đồng thôn đang quản lý có hiệu quả.
+ Các khu rừng giữ nguồn nước phục vụ trực tiếp cho cộng đồng và lợi
ích khác của cộng đồng mà không thể giao cho hộ gia đình, cá nhân quản lý.
+ Các khu rừng nằm giáp ranh giữa các thôn, xã, huyện, không thể giao
cho tổ chức hộ gia đình, cá nhân quản lý.
1.3.3 vai trò của cộng đồng dân cư trong quản lý và bảo vệ rừng
a. Vai trò xã hội của làng bản đối với quản lý bảo vệ rừng
Trên thực tế có một số loại rừng, như rừng bảo vệ nguồn nước, rừng
phòng hộ bản làng, rừng ma, rừng thiêng, đang do cộng đồng quản lý và chính
quyền địa phương chưa làm thủ tục giao quyền sử dụng lâu dài cho các cộng
đồng. Tuy nhiên mọi sự tác động của Nhà nước và các tổ chức nhà nước vào các
loại rừng này đều phải có sự thỏa thuận và đồng ý của cộng đồng.
b. Những mô hình quản lý rừng /làng/bản hiện nay
20
Trên thực tế việc quản lý rừng làng/bản ở Việt Nam hiện nay đang có 3
mô hình chủ yếu là:
- Mô hình 1: Rừng do cộng đồng quản lý theo truyền thống, được pháp
luật công nhận:
Đến năm 1991, khi ban hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng, (Luật
BV&PTR) ở một số làng, bản vẫn còn quản lý và hưởng lợi một số khu rừng
làng/bản theo truyền thống đã có trước đây. Luật BVPTR vẫn công nhận những
khu rừng đó thuộc quyền sở hữu của làng. 32 Hội thảo quốc gia “ Đẩy mạnh
quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng tại Việt Nam” Hà Nội tháng 10/2002
- Mô hình 2: Cộng đồng dân cư ở làng/bản nhận khoán bảo vệ cho các chủ

rừng Nhà nước và đã liên kết để nhận khoán bảo vệ rừng đã giao cho các tổ chức
Nhà nước quản lý, cùng hưởng lợi, bằng nhiều hình thức liên kết khác nhau (như
nhóm: hộ gia đình, nhóm đồng sở thích hoặc toàn bộ cộng đồng dân cư thôn
bản). Đến năm 2001, diện tích rừng và đất lâm nghiệp thuộc loại hình quản lý
này vào khoảng 936.327 ha. (Trong đó ở rừng phòng hộ 494.242 ha, rừng đặc
dụng 32.298 ha và rừng sản xuất 402.795 ha).
Trên thực tế, đối với loại mô hình này cộng đồng dân cư làng/bản cũng chỉ
là người làm thuê, được thù lao một số tiền ít ỏi, không được hưởng lợi gì đáng
kể ở rừng, nên tính tích cực của họ chưa được phát huy. Trong tương lai, mô
hình này cần phải được cải tiến theo hướng giao cho cộng đồng dân cư làng/bản
trực tiếp quản lý và hưởng lợi ở những khu rừng gắn liền với nơi cư trú của dân
cư.
- Mô hình 3: Rừng và đất lâm nghiệp được chính quyền địa phương (cấp
tỉnh) giao cho các làng/bản quản lý (đang có tính chất thí điểm). Ở nhiều tỉnh
21
(nhất là các tỉnh đang có các dự án hợp tác với nước ngoài về lâm nghiệp xã
hội/lâm nghiệp cộng đồng) đã thí điểm giao đến cộng đồng dân cư làng/bản một
số diện tích rừng và hướng dẫn họ quản lý, có những chính sách họ hưởng lợi cụ
thể. Các báo cáo nghiên cứu điểm về lâm nghiệp cộng đồng (LNCĐ) đã đánh giá
những kết quả bước đầu của mô hình quản lý rừng này và xác nhận đây là một
mô hình quản lý lâm nghiệp có hiệu quả, phù hợp với tình hình quản lý lâm
nghiệp hiện nay của Việt Nam và chắc chắn sẽ được phát triển nhiều hơn trong
tương lai và sẽ thuận lợi hơn khi Luật bảo vệ và phát triển rừng (sửa đổi) có hiệu
lực thi hành.
1.3.4. Kinh nghiệm quản lý rừng ở Việt Nam
a. Xã Phúc Sen - Cao Bằng
Xã Phúc Sen là một xã vùng cao với dân số 2.027 người, trong đó đa số là
người dân tộc Nùng An, sống ở 12 bản. Người dân sống bằng nghề nông và ít
liên hệ với thị xã Cao Bằng, nơi cách xã Phúc Sen khoảng 40 km. Xã Phúc Sen
có diện tích 1.300 ha trong đó 23 ha là khu dân cư, 267 ha là đất nông nghiệp và

1.010 ha là đất rừng. Trước đây, nhân dân xã Phúc Sen đã phải đương đầu với
tình trạng rừng bị tàn phá nghiêm trọng và người dân có mức sống rất thấp. từ
năm 2003 thực hiện áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng cuộc sống
của người dân nơi đây đã có nhiều đổi khác. Việc giao đất được thực hiện chủ
yếu thông qua việc thảo luận với dân làng ngay tại hiện trường. Mỗi làng được
giao quản lý hai hay ba ngọn núi đá vôi riêng biệt hay một nửa sườn núi. Thông
qua việc bàn bạc và dàn xếp với dân làng, xã đã giao rừng trên cơ sở vị trí đất
rừng, khả năng quản lý rừng và mức độ phụ thuộc vào các khu rừng đó của
người dân. Sau đó các bản làng lại giao lại cho các hộ dân sử dụng và quản lý
22
dựa trên các quy định riêng của từng bản, làng. Trong diện tích do bản quản lý,
người dân được phép lấy củi sau khi đã được phép của lãnh đạo trong bản. Nếu
xảy ra tình trạng chặt cây trái phép, thì người vi phạm bị phạt 5kg gạo cho 1kg
củi chặt trái phép. Sau hơn 5 năm thực hiện mô hình quản lý rừng dựa vào cộng
đồng đã mang lại cho người dân cũng như những khu rừng nơi đây những thay
đổi đánh kể. các khu rừng già bị chặt phá trước dây đã phục hồi bình tốt che phủ
một diện tích trên 71 ha. Khoảng 176 ha đã tái sinh tốt và bình quân một ha có
412 cây con được trồng bổ sung. Đời sống của người dân trong bản được nâng
cao nhờ các hoạt động khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ.
b. Sơn La
Sơn La là tỉnh vùng cao nằm phía Tây Bắc Việt Nam. Tổng diện tích tự
nhiên toàn tỉnh là 1.421.000 ha. Trong đó đất lâm nghiệp có 1.034.100 ha, đất
nông nghiệp có 147.360 ha, đất khác và núi đá chiếm 239.530 ha. Trong điều
kiện khi mà tài nguyên rừng đã cạn kiệt, nền nông nghiệp đang đứng trước
những thử thách mới. Sơn La đã áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng
đồng với chủ trương giao đất giao rừng. Lâm Nghiệp đang dần chuyển hướng
quản lý từ nhà nước sang cộng đồng với nhiệm vụ là xây dựng hệ thống rừng đặc
dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất theo phương thức nông lâm kết hợp. Bình
quân mỗi năm tỉnh đã trồng 4000 – 5000 ha rừng tập trung, hơn 1 triệu cây
phong trào, khoanh nuôi tái sinh 30.000 ha, bảo vệ 162.000 ha rừng hiện còn,

đưa độ che phủ rừng lên 11,5%. 25.000 hộ nông dân đã nhận khoán bảo vệ rừng.
Bộ mặt nông thôn đang từng bước được cải thiện về thu nhập : có 1,72% số hộ
giàu, 8,3% hộ khá, 70,3% hộ trung bình, còn 19,5% hộ nghèo. Đổi mới sinh hoạt
của hộ gia đình: nhà kiên cố 10,45%, nhà bán kiên cố 31,36%, được dùng điện
28,25%, dùng nước giêng 17,15%.
23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
TẠI VÙNG TÂY NGUYÊN
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và lâm nghiệp vùng Tây
Nguyên
24
2.1.1. Vị trí chiến lược về kinh tế - xã hội
Tây Nguyên là vùng cao nguyên nằm ở phía tây của Trung Bộ, giáp với
các tỉnh Nam lào và đông bắc Campuchia, bao gồm 5 tỉnh xếp theo thứ tự vị trí
địa lý từ bắc xuống nam gồm: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm
Đồng. Tây Nguyên có vị trí địa pý cực kỳ quan trọng về mặt sinh thái, về phòng
hộ vì có thể coi Tây Nguyên nhưu một phần nóc mái nhà của các tỉnh Duyên
Haie miền trung và Đông Nam Bộ, nơi bắt nguồn của 4 hệ thống sông lớn: Sông
Sê San, Srê Pốk đổ vào sông Mê Kông. Sông Ba và Đồng Nai đổ ra biển vùng
Duyên hải miền trung. Tây Nguyên còn có hệ thống đường giao thông thuận lợi
và mối quan hệ kinh tế - xã hội bền chặt giữa các vùng này. Do vậy, Tây Nguyên
có điều kiện để mở rộng mối bang giao với nhiều vùng trong cả nước và quốc tế,
đồng thời là địa bàn chiến lược quan trọng đảm bảo an ninh quốc phòng của đất
nước.
2.1.2. Địa hình và địa thế
Địa hình Tây Nguyên đa dạng và phong phú, là cao nguyên hợp nhất bởi
một loạt cao nguyên liền kề. đó là các cao nguyên Kon Tum cao khoảng 500m,
cao nguyên Kon Plong, cao nguyên Kon Hà Nừng, Plâyku cao khoảng 800m,
cao nguyên Mdrak cao khoảng 500m, Đắk Lắk cao khoảng 800m, Mơ Nông cao
khoảng 800-1000m, Lâm Viên cao khoảng 1500 và Di Linh cao khoảng 900 -

1000m, với nhiều dạng địa hình: Núi cao, núi trung bình, núi thấp, các cao
nguyên, sơn nguyên và thung lũng nhỏ hẹp nằm dọc theo các triền sông lớn. Tây
nguyên còn có nhiều dải núi cao như Ngọc Linh, cao tới 2.584m ở phía bắc tỉnh
Kon Tum và các dãy núi cao tới 2000m ở phía nam tỉnh Lâm Đồng. Mật độ sông
suối của Tây Nguyên thưa, chỉ có 4 hệ thống sông lớn. đây là nguồn lực để phát
25

×