Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Báo cáo thực tập tổng hợp về Công ty xi măng Hoàng Thạch.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.62 KB, 26 trang )

I.Quá trình hình thành và phát triển của công ty Xi Măng Hoàng
Thạch:
Cách đây 30 năm, nước ta vốn là một nước công nghiệp chậm phát triển lại vừa
trải qua cuộc chiến tranh lâu dài, gian khổ, ác liệt, đời sống của nhân dân còn
nhiều khó khăn. Công nghiệp, nông nghiệp còn lạc hậu, quy mô nhỏ bé và thiếu
thốn về cơ sở vật chất. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước hoạch định chiến
lược phát triển kinh tế xã hội trong đó sự phát triển của ngành công nghiệp sản
xuất xi măng.
Ngày 15/12/1976, Phó Thủ Tướng Chính Phủ Đỗ Mười ký quyết định 474/TTg
“phê chuẩn nhiệm vụ thiết kế nhà máy Xi Măng Hoàng Thạch” (cho phép xây
dựng nhà máy) với tên gọi: Nhà Máy Xi Măng Hoàng Thạch. Địa điểm xây dựng
tại thôn Hoàng Thạch (xã Minh tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) và thôn
Vĩnh Tuy (xã Vĩnh Khê, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh).
Hơn 3 năm, kể từ ngày Thủ Tướng Chính Phủ ra quyết định phê chuẩn nhiệm vụ
thiết kế, xây dựng Nhà Máy Xi măng Hoàng Thạch. Các đơn vị tham gia thi công
nhà máy đã xây dựng các hạng mục công trình được Thủ Tướng Chính Phủ giao.
Để có bộ máy lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ từng bước tiếp các hạng mục công
trình , tiến tới tiếp nhận toàn bộ nhà máy. Ngày 04/04/1980, Bộ Trưởng Bộ Xây
Dựng Đồng Sỹ Nguyên ký quyết định số 333/BXD-TCCB về việc thành lập nhà
máy Xi Măng Hoàng Thạch. Nhà máy xi măng Hoàng Thạch đặt trụ sở tại thôn
Hoàng Thạch, xã Minh Tân, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Nhà máy là đơn
vị sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh theo chế độ hạch toán
kinh tế, với các nhiệm vụ tổ chức sản xuất các loại xi măng theo kế hoạch của
Liên Hiệp các xí nghiệp xi măng (nay là Tổng Công Ty Xi Măng Việt Nam), bảo
đảm kỹ thuật, chất lượng sản phẩm và an toàn lao động.
Cùng với tiến trình đổi mới và đi lên của đất nước, nhà máy xi măng Hoàng
Thạch ngày càng trưởng thành và phát triển. Từ khi bước vào sản xuất, nhà máy
1
luôn hoàn thành kế hoạch, sản lượng năm sau cao hơn năm trước, giữ được tín
nhiệm của thị trường. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước, ngày
24/09/1992, chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Võ Văn Kiệt ký quyết định số


353/CT phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật: Mở rộng Nhà máy xi măng
Hoàng Thạch trên mặt bằng nhà máy hiện có, với diện tích dây chuyền II là 10
ha.
Ngày 28/12/1993, Nhà máy đã khởi công xây dựng dây chuyền II với công suất
thiết kế 1,2 triệu tấn xi măng/năm, đưa công suất của Nhà Máy từ 1,1 triệu tấn xi
măng/năm lên 2,3 triệu tấn xi măng/năm. Như vậy, nhà máy xi măng Hoàng
Thạch trở thành một cơ sở sản xuất xi măng lớn nhất cả nước.
Sau 10 năm đi vào sản xuất kinh doanh, Nhà Máy ngày càng lớn mạnh, đòi hỏi
phải có sự thay đổi trong quy mô sản xuất. Ngày 12/08/1993, Bộ trưởng Bộ xây
dựng ra quyết định số 363/QĐ-BXD thành lập “Công ty xi măng Hoàng Thạch”
trên cơ sở hợp nhất công ty kinh doanh Xi măng số 3 Hoàng Thạch với Nhà máy
xi măng Hoàng Thạch. Nhiệm vụ của công ty xi măng Hoàng Thạch lúc này
không chỉ đơn thuần là sản xuất xi măng mà còn có nhiệm vụ tổ chức kinh doanh
tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn 6 tỉnh phía Bắc và thủ đô Hà Nội.
Đi đôi với việc triển khai thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch được giao, Đảng bộ và
Ban lãnh đạo công ty còn triển khai thực hiện chỉ thị số 227/XMVN-ĐMQLDN
của tổng công ty Xi măng Việt Nam ngày 02/04/1999 về việc cổ phần hoá xưởng
may bao. Ngày 08/01/1999, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số
04/1999/QĐ-TTg về việc chuyển xưởng May Bao thuộc công ty xi măng Hoàng
Thạch thành công ty Cổ phần bao bì Hoàng Thạch, theo đề nghị của Hội đồng
quản trị Tổng công ty xi măng Việt Nam. Với tổng số vốn điều lệ là 6 tỷ đồng,
trong đó cổ phần Nhà nước là 1,21 tỷ đồng.
Sau khi tiến hành cổ phần hoá xưởng may bao thuộc công ty Xi măng Hoàng
Thạch thành công ty cổ phần bao bì Hoàng Thạch, được sự chỉ đạo trực tiếp cuả
2
Tổng công ty xi măng Việt Nam, công ty xi măng Hoàng Thạch tiếp tục cổ phần
hoá Đoàn vận tải thuỷ thành công ty cổ phần thương mại-dịch vụ-vận tải với tổng
số vốn điều lệ trên 6 tỷ đồng trong đó cổ phần Nhà nước 3,354 tỷ đồng.
Căn cứ Nghị quyết số 29/NQ-ĐU, ngày 18/02/2002 của Đảng uỷ công ty xi
măng Hoàng Thạch về công tác tổ chức công ty cổ phần thương mại-dịch vụ-vận

tải chính thức được thành lập và đi vào hoạt động.
Sau 25 năm sản xuất và kinh doanh, công ty xi măng Hoàng Thạch đã thực sự
trưởng thành. Giai đoạn bắt đầu sản xuất, công ty có 979 cán bộ công nhân viên,
trong đó Đại học 86 người, Trung học 89 người, công nhân kỹ thuật 664 người,
đến nay công ty có 2802 cán bộ công nhân viên, trong đó Đại học trên 477
người, công nhân kỹ thuật tay nghề từ bậc 4 trở lên là 1656 người. Với đội ngũ
công nhân viên chức tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, nâng cao trình độ đã vươn
lên làm chủ thiết bị công nghệ, công tác sản xuất ngày càng được chủ động đảm
bảo vận hành cả 2 dây chuyền an toàn hiệu quả sản lượng năm sau cao hơn năm
trước. Mỗi năm công ty sản xuất ra hàng triệu tấn xi măng có chất lượng cao, đạt
tiêu chuẩn ISO 9001 và ISO 14001 được các cơ quan chức năng trong nước và
quốc tế thừa nhận.
Công ty xi măng Hoàng Thạch đã đạt được những thành tích to lớn; được Đảng
và Nhà nước; các Bộ, ngành ở Trung ương, được các tỉnh uỷ, UBND hai tỉnh Hải
Dương và Quảng Ninh tặng hàng chục huân chương các loại, hàng trăm bằng
khen, cờ luân lưu, đặc biệt làn ngày 6/1/2005 công ty được phong tặng danh hiệu
“Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới”.
II. Đặc điểm của công ty xi măng Hoàng Thạch:
1.Đặc điểm quy trình công nghệ:
Hoàng Thạch là một trong những nhà máy xi măng lớn và hiện đại nhất Việt
Nam, có tầm cỡ quốc tế.
3
Công ty xi măng Hoàng Thạch có lò nung Clinker kiểu quay, sản xuất theo
phương pháp khô, theo một chu trình khép kín với các giai đoạn sau:
a.Giai đoạn chuẩn bị nguyên liệu:
Các nguyên liệu chính để sản xuất xi măng là đá vôi và đá sét được khai thác ở
các mỏ gần công ty, ngoài ra còn sử dụng nguyên liệu điều chỉnh là quặng sắt và
quặng bô xít, lượng quặng sắt và quặng bô xít cho vào nhiều hay ít tuỳ thuộc vào
thành phần hoá học có trong đá vôi và đá sét như: SiO
2

; CaO; Fe
2
O
3
; Al
2
O
3

Đá vôi được khai thác bằng phương pháp khoan nổ cắt tầng theo quy trình và
quy hoạch khai thác, đảm bảo chất lượng ổn định. Sau đó được vận chuyển tới
trạm đập nghiền và đưa vào kho chứa đồng nhất.
Quặng sắt và quặng bô xít được mua ngoài, vận chuyển bằng đường sông, tập kết
vào kho.
b.Giai đoạn nghiền liệu và đồng nhất:
Đá vôi, đá sét cùng các nguyên liệu điều chỉnh được đưa vào máy nghiền liệu
qua hệ thống cân cấp liệu tự động theo tỷ lệ kỹ thuật cho phép. Bột liệu sau khi
nghiền mịn được đưa tới hệ thống si lô, các si lô này vừa có tác dụng để chứa
đồng thời còn để đồng nhất bột liệu.
c.Giai đoạn nung Clinker:
Nhiên liệu để nung Clinker là dầu FO và than cám 3B. Phần than nguyên khai có
chất bốc cao được đưa vào máy sấy khô và chuyển về máy nghiền, nghiền thành
bột than mịn sau đó bằng hệ thống bơm khí nén về các đường ống dẫn chuyền về
két chứa ở lò nung, nó được phun vào lò dưới dạng bột khí linh động nhiều hay ít
tuỳ theo yêu cầu kỹ thuật của từng giờ. Dầu FO chỉ dùng để đốt sấy lò khi lò mới
trở lại hoạt động sau một thời gian dừng sửa chữa bảo dưỡng, còn sau khi lò hoạt
động ổn định người ta chỉ dùng than cho rẻ.
4
Bột liệu từ các si lô chứa trước khi cho và lò được đưa qua hệ thống sấy nóng
đến nhiệt độ 500-600

o
C mới đưa vào lò nung luyện vừa để tiết kiệm thời gian,
vừa tiết kiệm được than dầu. Khí nóng dùng để sấy bột liệu được tận dụng từ khí
thải trong lò ra của quá trình nung luyện trước đó. Bột liệu được nung đến vê
viên nhờ các vòng quay của lò và được vận chuyển, làm lạnh, rồi đưa tới si lô
chứa Clinker. Silô này vừa có tác dụng chứa, vừa có tác dụng ủ cho clinker đạt
được các khoáng quy định, vừa làm nguội clinker.
c.Giai đoạn nghiền xi măng:
Ở giai đoạn này có thêm nguyên liệu để nghiền clinker thành xi măng là thạch
cao với tỷ lệ 5% để điều chỉnh quá trình liên kết của xi măng trong thi công, còn
thêm một số phụ gia pha vào xi măng như sỉ than, đá silíc, đá đen…vừa có tác
dụng làm cho xi măng có màu đẹp, vừa thêm một số tính năng tác dụng khác như
chịu kiềm, chịu axít…và đặc biệt là pha thêm để hạ giá thành sản phẩm xi măng.
Các loại thạch cao và phụ gia kể trên đều được mua ngoài qua phương tiện
đường thuỷ và vận chuyển tập kết vào kho.
Clinker từ si lô chứa, thạch cao, phụ gia được tập kết vào các két chứa trước các
máy nghiền. Các nguyên, vật liệu này được đưa vào nghiền qua các cân tự động
theo tỷ lệ kỹ thuật quy định. Hỗn hợp này được nghiền mịn thành xi măng ở
nhiệt độ 120-150
o
C. Xi măng ra khỏi máy nghiền được vận chuyển tới hệ thống
silô chứa xi măng, vừa để chứa, vừa làm nguội và để ủ xi măng và chờ đóng bao
xuất xưởng.
d.Giai đoạn xuất xi măng:
Xi măng bột từ các xilô chứa được đưa tới 8 máy đóng bao (nếu xuất xi măng
bao), hoặc xuất thẳng nếu xuất xi măng rời. Xi măng sau đóng bao được đưa
thẳng tới các phương tiện vận tải đường bộ, thuỷ, sắt để xuất xưởng.
Công ty xi măng Hoàng Thạch sản xuất xi măng theo phương pháp khô, tiên tiến
hơn phương pháp ướt truyền thống mà các nhà máy xi măng đương thời đang sử
5

dụng, vì phải đồng nhất phối liệu trong môi trường nước rồi mới sấy khô. Do
vậy, phương pháp khô tiết kiệm được nước, nhiên liệu, thời gian.
Toàn bộ dây chuyền sản xuất từ khâu cấp nguyên liệu đến công đoạn nghiền,
đóng bao và xuất xi măng được điều khiển tự động hoàn toàn từ phòng điều
khiển trung tâm của công ty thông qua hệ thống các máy tính điện tử và thiết bị
vi xử lý. Kết quả thành phẩm nguyên liệu được phân tích quang phổ bằng tia
Rơnghen, xác định mỗi một giờ một lần, trên cơ sở đó máy tính điện tử sẽ phân
tích tính toán và điều chỉnh tỷ lệ phối liệu cho giờ tiếp theo.
Gần 300 thông số công nghệ như: nhiệt độ, áp suất, lưu lượng, vòng quay, tỷ lệ
các thành phần nguyên liệu, dòng điện, điện áp…được liên tục chỉ báo và ghi
chép một cách tự động tại phòng điều khiển nhờ hệ thống các đồng hồ tự ghi,
giúp người vận hành theo dõi, kiểm tra và xử lý khi cần thiết. Ngoài ra tại đây
còn có hệ thống các sơ đồ công nghệ được gắn đèn tín hiệu thể hiện tình trạng
hoạt động của từng thiết bị cùng với hệ thống Camera và truyền hình công
nghiệp quan sát được trên 10 vị trí trọng yếu của dây chuyền sản xuất giúp người
vận hành phát hiện các sự cố và phối hợp xử lý kịp thời.
SƠ ĐỒ QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT XI MĂNG
GIAI ĐOẠN 1: SẢN XUẤT BỘT LIỆU


6
Đất sét
Đập búa Cầu trục Đập búa Đá vôi
Kho đồng nhất sơ bộ
đá vôi và đất sét
GIAI ĐOẠN 2:SẢN XUẤT CLINKER



Kho

-Cát
-Xỉ
-Than
Cấp cát và xỉ
Sấy nghiền than
Két than mịn
Kho đồng nhất sơ
bộ đá vôi và đất
Sấy nghiền liệu
Si lô chứa Clinker
Sấy dầu
Cấp liệu vào lò
Lò nung Clinker
Si lô đồng nhất
Sà lan
dầu FO
Bể dầu
FO
Cảng
nhập
7
GIAI ĐOẠN 3: SẢN XUẤT XI MĂNG
2.Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh:
Công ty xi măng Hoàng Thạch là một doanh nghiệp nhà nước có quy mô tài
chính lớn ở Việt nam hiện nay, vấn đề quản lý vốn, kinh doanh sao cho có hiệu
quả tốt nhất đòi hỏi phải có một bộ máy quản lý tổ chức lãnh đạo giỏi, vừa
chuyên sâu từ các vấn đề tài chính, cung cấp vật tư, nguyên, nhiên, vật liệu cho
sản xuất đến kế hoạch sản xuất và tiêu thụ.
8
Kho

-Phụ gia
-Thạch cao
Két thạch
cao
Két phụ
gia
Xilô chứa clinker
xuất bao
ôtô
xuất bao
đường thủy
xuất bao
đường sắt
Xuất xi
măng rời
xilô xi măng
Nghiền xi măng
máy đóng bao
cảng
nhập
Hiện tại để đáp ứng được yêu cầu đó, bộ máy tổ chức quản lý của công ty xi
măng Hoàng Thạch sử dụng phương thức tổ chức quản lý theo hình ô; tức là có
sự phân quyền lãnh đạo, các cấp lãnh đạo không tập trung hết quyền lực trong
tay mà giao một phần cho các bộ phần chức năng. Mô hình này sẽ giúp công ty
có tính chất linh hoạt cao, phản ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường.
Đứng đầu bộ máy quản lý là Giám đốc công ty: Giám đốc công ty do tổng giám
đốc bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của Tổng Giám
Đốc. Giám đốc là đại diện pháp nhân của công ty và chịu trách nhiệm trước tổng
công ty và pháp luật về điều hành hoạt động của công ty, Giám đốc có quyền
điều hành cao nhất trong công ty.

Giúp việc Giám đốc trong công tác quản lý là các phó giám đốc phụ trách theo
lĩnh vực công tác được phân công bao gồm:
-Phó giám đốc khai thác mỏ: chịu trách nhiệm quản lý chuyên sau kỹ thuật khai
thác đá, vận tải và tổ chức chỉ đạo công tác kỹ thuật, nghiệp vụ đối với xưởng xe
máy, xưởng khai thác đá và phòng kỹ thuật mỏ.
-Phó giám đốc cơ điện: Chịu trách nhiệm quản lý chuyên sâu về cơ khí, điện-điện
tử, tự động hoá và tiến bộ kỹ thuật để tổ chức sửa chữa và bảo dưỡng chế tạo,
thay thế, vận hành các thiết bị trong dây chuyền sản xuất xi măng và các thiết bị
khác đảm bảo thiết bị hoạt động ổn định, liên tục, đồng bộ, chất lượng tốt. Tổ
chức chỉ đạo công tác kỹ thuật nghiệp vụ đối với xưởng cơ khí, xưởng điện-điện
tử, phòng kỹ thuật cơ điện.
-Phó giám đốc sản xuất: chịu trách nhiệm quản lý chuyên sâu về công nghệ, tiến
bộ kỹ thuật để tổ chức sản xuất clinker, xi măng từ các nguyên liệu đá vôi, đá sét,
xỉ, thạch cao, than dầu và các loại vật tư khác, đảm bảo chất lượng sản phẩm
nhằm phục vụ nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao
9
nhất. Tổ chức chỉ đạo công tác kỹ thuật nghiệp vụ đối với xưởng xi măng, xưởng
đóng bao, xưởng nguyên liệu, phòng kỹ thuật sản xuất.
-Phó giám đốc kinh doanh-hành chính: chịu trách nhiệm về mọi hoạt động trong
lĩnh vực kinh doanh, quản lý phòng kinh doanh và trong lĩnh vực hành chính
quản trị, đời sống, y tế.
Các phó giám đốc giúp việc giám đốc theo sự phân công hoặc uỷ quyền của giám
đốc, chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về nhiệm vụ được giám đốc
phân công hoặc uỷ quyền.
Kế toán trưởng giúp việc giám đốc công ty chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế
toán, thống kê, tài chính của công ty và có nhiệm vụ quyền hạn theo quy định của
pháp luật.
Sau đó là đến các phòng ban chuyên môn, nghiệp vụ có chức năng, nhiệm vụ
tham mưu giúp việc cho Giám đốc bao gồm:
+Phòng kỹ thuật sản xuất: Quản lý chuyên sâu về công nghệ, tiến bộ kỹ thuật để

tổ chức sản xuất clinker, xi măng từ các nguyên liệu đá vôi, sét, xỉ, thạch cao,
than, dầu, và các loại vật tư khác, đảm bảo chất lượng sản phẩm nhằm phục vụ
nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao nhất.
+phòng kỹ thuật cơ-điện: Có chức năng quản lý chuyên sâu về cơ khí, điện-điện
tử, tự động hoá và tiến bộ kỹ thuật để tổ chức sửa chữa và bảo dưỡng, chế tạo
thay thế, vận hành các thiết bị trong dây chuyền sản xuất xi măng và các thiết bị
khác đảm bảo thiết bị hoạt động ổn định, liên tục, đồng bộ, chất lượng tốt nhằm
phục vụ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất.
+phòng Kỹ thuật mỏ: có chức năng quản lý chuyên sâu kỹ thuật khai thác đá, vận
tải và tổ chức chỉ đạo công tác kỹ thuật, nghiệp vụ đối với xưởng xe máy và
xưởng khai thác đá, nhằm nâng cao hiệu quả công tác khai thác vận chuyển, sửa
10

×