Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.27 MB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
KHOA NGỮ VĂN & VĂN HÓA HỌC
NGÀNH VĂN HÓA HỌC
 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ, XÃ EABAR HUYỆN
SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC K.33
GVHD : ThS. VÕ THỊ THÙY DUNG
SVTH : TRẦN XUÂN HẠNH
Đà Lạt, 2013
ii
ii
LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn đến quý
Thầy, Cô trong Khoa Ngữ Văn & Văn Hóa Học-Trường Đại học Đà Lạt đã tận
tình giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Thạc sỹ
Võ Thị Thùy Dung, người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ, truyền đạt kiến thức,
hướng dẫn cho tôi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp Đại học.
Đồng thời, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến các cô, các chú trong Ủy Ban
Nhân Dân xã Eabar và những người dân tại địa phương đã cung cấp những tài
liệu, những hiểu biết và giúp đỡ nhiệt tình cho tôi trong suốt thời gian điền dã tại
địa phương.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cám ơn sâu nặng tới gia đình, bạn bè những
người thân, đã luôn quan tâm ủng hộ và giúp đỡ trong suốt năm học vừa qua cũng
như trong suốt quá trình thực hiện khóa luận của mình.
Đà Lạt, tháng 5, năm 2013
Tác giả


Trần Xuân Hạnh
iii
iii
LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Nội dung, kết quả nghiên
cứu và các số liệu trong khóa luận chưa được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm với những quy chế của nhà trường với sự
cam đoan này.

Đà Lạt, tháng 5 năm 2013
Tác giả
Trần Xuân Hạnh
iv
iv
MỤC LỤC
MỤC LỤC iii
MỞ ĐẦU v
1. Lý do chọn đề tài v
2. Mục đích nghiên cứu iv
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu v
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề v
5. Phương pháp nghiên cứu vii
6. Đóng góp của khóa luận viii
7. Bố cục của khóa luận viii
CHƯƠNG 1 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1
1.1. Tổng quan về xã Eabar huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên 1
1.1.1. Vị trí địa lý 1
1.1.3. Tình hình xã hội 3

1.2. Khái quát về dân tộc Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên 5
1.2.1. Địa bàn cư trú 5
1.2.2. Tên gọi và thành phần tộc người 5
1.2.3.Truyền thống đoàn kết đấu tranh 6
1.2.4. Hoạt động kinh tế 7
1.2.5. Nghề thủ công truyền thống 10
CHƯƠNG 2 14
MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ
TẠI XÃ EABAR, HUYỆN SÔNG HINH TỈNH PHÚ YÊN 14
2.1. Văn hóa vật chất 14
2.1.1. Ẩm thực 14
2.1.2. Trang phục 15
2.1.3. Nhà cửa 18
2.2. Văn hóa xã hội 21
2.3. Văn hóa tinh thần 25
2.3.1. Yang trong quan niệm của người Ê-đê 25
2.3.2. Tín ngưỡng và nghi lễ cúng theo vòng đời 26
2.3.2.1. Lễ cúng trước khi sinh nở 26
2.3.2.2. Lễ cúng sau sinh nở 26
iii
2.3.2.2. Lễ cúng ở tuổi trưởng thành 28
2.3.2.2. Lễ cúng sau khi chết 30
3.3.3. Nghi lễ cầu cúng theo vòng cây trồng 31
3.3.3.1. Lễ cúng lúa mọc (Mdie) 31
3.3.3.2. Lễ cúng lúa trổ bông 32
3.3.3.3. Lễ cúng mừng lúa mới (T’h mđiê rou) 32
3.3.3.4. Lễ cúng cầu mưa (H’uh gian) 33
3.3.3.5. Lễ cúng bến nước (Tun pin e) 34
CHƯƠNG 3 35
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ, XÃ EABAR, HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN. .35
3.1. Biến đổi văn hóa truyền thống của người Ê- đê ở Eabar 35
3.1.4. Ưu-nhược điểm của vấn đề biến đổi văn hóa truyền thống 41
3.2. Tác nhân biến đổi văn hóa truyền thống 42
3.2.1. Chính sách phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới 42
3.2.2. Sự phát triển của lực lượng sản xuất, ứng dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất và đời sống 43
3.2.3. Sự tăng cường giao lưu hội nhập giữa các nền văn hóa 43
3.3.1. Giải pháp về kinh tế - xã hội 44
KẾT LUẬN 49
TÀI LIỆU THAM KHẢO 51
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH 1
Hình 24. Ăn uống của người Ê-đê hiện nay 12
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa vốn gắn liền với toàn bộ cuộc sống và sự phát triển của xã hội. Con
người ra đời cùng với văn hóa, trưởng thành nhờ văn hóa, hướng tới tương lai cũng
từ văn hóa. Văn hóa của một dân tộc trước hết thể hiện ở bản sắc của dân tộc ấy.
Bản sắc dân tộc có vai trò định hướng cho sự lựa chọn trong hành động của con
người. Vai trò của văn hóa đã được Đại hội VIII khẳng định “văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội, là mục tiêu và là động lực thúc đẩy sự phát triển cuả xã hội”.
Với lời khẳng định ấy, có thể thấy văn hóa đã kết tinh những giá trị tinh thần cốt lõi,
đặc sắc và có tính trường tồn trong lịch sử dân tộc. Và dưới sự lãnh đạo của Đảng,
văn hóa Việt Nam ngày càng hoàn thiện, góp phần hun đúc nên tâm hồn, khí phách,
bản lĩnh Việt.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên
nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã
hội và nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau nên đã hình thành các vùng văn hóa khác
nhau. Từ đó, văn hóa của các dân tộc cũng có những điểm khác biệt mang tính đặc

thù. Một trong các vùng văn hóa ấy là vùng văn hóa Trung Bộ (Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận). Đây là vùng văn hóa rộng lớn gồm nhiều
dân tộc sinh sống, có sự giao lưu và tiếp biến văn hóa Chăm. Mỗi dân tộc với những
đặc điểm riêng, đều sớm hình thành những nét văn hóa, độc đáo của mình. Nhờ đó,
đã có nhiều đóng góp lớn lao với cộng đồng dân tộc trên mọi lĩnh vực văn hóa, xã
hội.
Dân tộc Ê-đê là dân tộc có nền văn hóa truyền thống đặc sắc trong 54 dân tộc
thiểu số ở nước ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Ê-đê ở Phú Yên đã sớm hình
thành giá trị văn hóa mang màu sắc riêng. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa đến
từng cá nhân trong cộng đồng người Ê-đê, góp phần làm tăng thêm giá trị cho nền
văn hóa đa dân tộc vùng Trung Bộ Việt Nam.
v
Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu
hóa đang diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam
cũng như tất cả các quốc gia khác không thể đứng ngoài cơn lốc ấy. Đặc biệt, kinh
tế thị trường với những ưu điểm và mặt trái của nó có ảnh hưởng không nhỏ đến
nền văn hóa truyền thống của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
trong đó có văn hóa của dân tộc Ê-đê ở Phú Yên. Trước tác động của cơ chế thị
trường, của mở rộng hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị
văn hóa truyền thống của người Ê-đê nói chung, và người Ê-đê ở Phú Yên nói riêng
đang bị mai một, pha trộn, lai căng. Đó là điều rất đáng quan tâm. Vì thế, chúng tôi
thấy, cần phải có thêm nhiều tài liệu giúp cho mọi người đặc biệt là lớp trẻ được
tiếp cận với kho tàng truyền thống của dân tộc mình, để hiểu và để tạo nên niềm tự
hào về quê hương, dân tộc.
Là một người sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này hơn 20 năm, từng chứng
kiến sự đổi thay về văn hóa, con người, kinh tế, chính trị, chúng tôi không khỏi có
những trăn trở và suy tư. Do đó, góp một tiếng nói tri ân-tình cảm, một góc nhìn từ
góc độ người làm văn hóa nhằm góp phần bảo tồn vùng đất, con người và tìm hiểu
một cách hệ thống hơn nét đẹp văn hóa truyền thống của những con người nơi mảnh

đất Eabar là điều chúng tôi thật sự mong muốn. Và đề tài “Văn hóa truyền thống
của người Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên” là cơ hội quý giá để
chúng tôi thực hiện những mong muốn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài khảo sát thực địa tại địa phương, cụ thể là xã Eabar để tìm hiểu đời
sống văn hóa của đồng bào nơi đây. Đồng thời, tìm hiểu điều kiện tự nhiên, lịch sử
đã chi phối như thế nào đến đời sống văn hóa của người dân. Thông qua tìm hiểu
đời sống văn hóa truyền thống, phong tục tập quán làm ăn sinh sống của đồng bào,
người nghiên cứu cũng chỉ ra những tác nhân tạo nên văn hóa truyền thống của văn
hóa đồng Ê-đê nơi đây. Từ đó, có cơ sở để đề xuất phương hướng bảo tồn cũng như
phát triển văn hóa truyền thống của đồng bào Ê-đê tại xã Eabar nói riêng và người
Ê-đê ở các địa phương khác nói chung nhằm tạo sợi tơ lung linh sắc màu trong tấm
thảm muôn màu được dệt thành bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
iv
Việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là hết sức khó khăn, nhất là
trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa như hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu văn
hóa truyền thống người Ê-đê ở xã Eabar là việc làm hết sức cấp bách, cần tiến hành
nhanh chóng và cần có sự phối hợp của các ban ngành đoàn thể. Nếu không, những
nét văn hóa truyền thống sẽ bị rơi vào quên lãng, thậm chí sẽ bị mất đi dưới tác
động của cơ chế thị trường. Nhất là, khi mà những đòi hỏi về đời sống vật chất đang
ngày càng tác động làm thay đổi cuộc sống bà con, thì việc nghiên cứu tìm hiểu,
bảo tồn và phát huy là điều vô cùng khó khăn. Vì vậy, qua đề tài này chúng tôi
muốn cho người đọc một cái nhìn cụ thể và toàn diện hơn về dân tộc Ê-đê ở xã
Eabar trên phương diện văn hóa truyền thống.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là văn hóa truyền thống của đồng bào
dân tộc Ê-đê tại xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Đề tài chúng tôi chọn để
tiến hành nghiên cứu là “Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, xã Eabar, huyện
Sông Hinh, tỉnh Phú Yên”, nhưng trong phạm vi một khóa luận, để đưa đến một cái
nhìn toàn diện và cảm nhận sâu sắc về văn hóa truyền thống của một dân tộc là điều

không dễ. Làm được điều đó cần có thời gian nghiên cứu một cách cụ thể, rõ ràng.
Chính vì vậy, tránh việc dàn trải tràn lan nên chúng tôi tập trung nghiên cứu vào
vấn đề văn hóa hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Qua đó, đem ra so sánh người Ê-
đê ở xã Eabar với các nhóm Ê-đê ở các địa phương khác. Các yếu tố văn hóa truyền
thống khác chúng tôi sẽ sử dụng để làm cơ sở để so sánh và chứng minh cho vấn đề
trên.
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Người Ê-đê đã có mặt rất sớm ở xã Eabar, chủ yếu là cư dân phần lớn di cư
và chuyển từ các tỉnh Tây Nguyên qua Phú Yên. Dấu vết của dân tộc Ê-đê tại xã
Eabar đã phản ánh đậm nét trong các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật
tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê-đê vẫn còn là xã hội mang dấu ấn mẫu
hệ đậm nét ở nước ta, có giá trị đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn hóa dân tộc
Việt Nam. Chính vì vậy, từ lâu đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu tìm
hiểu và nhiều người quan tâm.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về người Ê-đê ở Phú Yên hiện nay
không nhiều. Có thể kể lên đây một vài công trình nghiên cứu về văn hóa người Ê-
v
đê tại Phú Yên như La province de Phu Yen của A.Laborde xuất bản năm 1929 có
nhắc đến nhóm cư dân sinh sống ở vùng cao Phú Yên. Công trình của ông đã đặt
cột mốc và tạo cơ sở bước đầu để các học giả tiếp tục nghiên cứu về người Ê-đê ở
Phú Yên nói chung và xã Eabar nói riêng.
Những năm sau 1980, các nhà dân tộc học Việt Nam tiến hành nhiều đợt
khảo sát ở vùng văn hóa Tây Nguyên bao gồm khu vực có người Ê-đê cư trú, theo
đó nhiều công trình được xuất bản như:
Đại cương về dân tộc Ê-đê, M’nông ở Đăk Lăk (1982) của Bế Viết Đẳng,
Chu Thái Sơn, Vũ Thị Hồng, Vũ Đình Lợi. Công trình này đã trình bày những vấn
đề chung nhất về đời sống của hai dân tộc Ê-đê, M’nông trên các phương diện:
thiên nhiên và dân cư (đặc điểm địa lý, sự phân bố dân cư và thành phần dân tộc,
vài nét về truyền thống văn hóa, nguồn gốc lịch sử, những đặc điểm nhân chủng của
các dân tộc Ê-đê, M’nông) kinh tế và xã hội. Đặc biệt, ở phần thứ 3 (chương 1) của

công trình, tác giả Chu Thái Sơn đã đề cập đến văn hóa vật chất của người Ê-đê. Và
ở chương 3, tác giả Vũ Đình Lợi cũng đã đề cập đến những lễ nghi-phong tục trong
chu kỳ đời sống của người Ê-đê nhưng chỉ bó hẹp trong phạm vi 8 trang (157-164).
Nên những gì mà tác giả trình bày còn ở mức độ sơ lược, chỉ mang tính gợi mở,
nhưng lại là cơ sở để người nghiên cứu kế thừa và phát triển.
Người Ê-đê, một xã hội mẫu quyền của bà Anne De Hauteloque xuất bản
năm 2004 là kết quả của 14 tháng sống cùng, sinh hoạt cùng, hòa nhập vào cuộc
sống của cư dân tại buôn Põk, Đăk Lăk của bà. Anne De Hauteloque đã đề cập đến
vị trí của người đàn ông và người phụ nữ trong xã hội Ê-đê. Đồng thời, đi sâu
nghiên cứu và giới thiệu về cơ cấu tổ chức, các quan hệ xã hội của dân tộc Ê-đê,
nhấn mạnh khẳng định xã hội Ê-đê là xã hội mẫu quyền điển hình nhất ở Tây
Nguyên.
Đặc biệt khi nói đến công trình nghiên cứu về người Ê-đê ở Phú Yên nếu
không nói đến công trình Người Ê-đê M’dhur ở Phú Yên của Lê Thế Vịnh, Nguyễn
Thị Hòa, Y-Điêng do Sở Khoa học Công nghệ Phú Yên xuất bản tháng 12 năm
2005 quả là một thiếu sót. Bởi lẽ, đây là công trình đã nêu cụ thể về văn hóa tộc
người Ê-đê trên cả hai phương diện văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Tiếc là
công trình này chưa thật sự đi sâu sát vào văn hóa truyền thống cụ thể của từng địa
bàn, chưa cập nhật đầy đủ các thông tin và số liệu cần thiết ở mỗi địa bàn cụ thể.
vi
Bên cạnh đó, khá nhiều công trình nghiên cứu về người Ê-đê đăng trên các
tạp chí như:
1. Một số đặc điểm xã hội của các dân tộc Trường Sơn-Tây Nguyên, tạp chí
Dân tộc học số 1, 1954.
2. Bàn về lịch sử tộc người và đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa cư dân Tây
Nguyên của Chu Thái Sơn, tạp chí Dân tộc học số 2-1979.
3. Mấy nhận xét về hôn nhân và gia đình của người Ê-đê của Nông Hoàng
Cư, tạp chí Dân tộc học số 3-1980.
4. Tổ chức làng cổ truyền của các dân tộc Tây Nguyên của Phan Xuân Biên,
tạp chí Dân tộc học số 3-1985.

5. Những thay đổi trong tập quán sử dụng nước của người Ê-đê của tác giả
Nguyễn Trường Giang, tạp chí Dân tộc học số 3-2001.
6. Dấu vết bào tộc của người Ê-đê của tác giả Phan Hữu Dật, tạp chí Dân
tộc học số 5-2002.
v.v.v…
Tuy nhiên, có thể thấy rằng, các học giả chỉ nghiên cứu ở những địa bàn lớn,
riêng nghiên cứu về văn hóa truyền thống ở xã Eabar thì hiện chưa có công trình
nào. Nhất là, qua thời gian, khi mà nhà nước can thiệp vào cuộc sống của người Ê-
đê như xây dựng nông thôn mới, bê tông hóa các công trình…rồi yếu tố cơm, áo,
gạo, tiền đòi hỏi người Ê-đê phải chạy theo kinh tế, để mưu sinh, lo toan cho cuộc
sống, thì những yếu tố văn hóa truyền thống có gì biến đổi vẫn chưa được quan tâm.
Vì vậy đó là những cơ sở để người nghiên cứu có thể mạnh dạn lựa chọn
“Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên”
để làm đề tài khóa luận nhằm đem lại cái nhìn rõ nét và toàn diện nhất về văn hóa
truyền thống của người Ê-đê ở Phú Yên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng phương pháp liên ngành dân tộc học - văn hóa học.
Thông qua quá trình điền dã, thu thập thông tin, quan sát cuộc sống của người Ê-đê
ở địa bàn xã Eabar, chúng tôi sẽ đưa đến cho người đọc một cái nhìn cụ thể, thực tế
về người Ê-đê trên 3 phương diện: văn hóa vật chất, văn hóa xã hội, văn hóa tinh
thần. Phương pháp so sánh cũng là phương pháp được chú trọng để rút ra những
điểm chung và những nét khác biệt so với các tộc người Ê-đê ở các địa phương
khác.
vii
Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp định tính, định lượng,
phương pháp tổng hợp và phân tích… khi cần thiết, nhằm thu thập, đưa ra các lý
giải rõ hơn về văn hóa truyền thống của đồng bào Ê-đê xã Eabar, huyện Sông Hinh,
tỉnh Phú Yên.
6. Đóng góp của khóa luận
Mặc dù đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tộc người Ê-đê, nhưng đến

nay vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể nào mang tính hệ thống, khái quát cụ thể về một
tộc người Ê-đê cư trú tại xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Nên với công
trình nhỏ này, chúng tôi mong muốn tìm hiểu những giá trị văn hóa truyền thống
của đồng bào Ê-đê một cách toàn diện và đầy đủ nhất.
Khóa luận góp phần giúp độc giả hình dung, nhìn nhận, đánh giá về văn hóa
truyền thống của dân tộc Ê-đê xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Đồng
thời, giúp cư dân, đặc biệt là giới trẻ nhận thấy được giá trị văn hóa truyền thống
của tộc người mình và đánh giá thực trạng của vấn đề để có phương hướng phục
dựng và bảo tồn các giá trị văn hóa tốt đẹp của đồng bào. Thông qua việc tìm hiểu
văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở một không gian hẹp, chúng tôi hy vọng sẽ
góp thêm tư liệu cho những người đam mê nghiên cứu về văn hóa tộc người Ê-đê ở
Việt Nam nói chung và người Ê-đê ở xã Eabar nói riêng.
Cuối cùng, với việc nghiên cứu về văn hóa truyền thống của người Ê-đê xã
Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, hy vọng đề tài của chúng tôi sẽ đóng góp
một phần nhỏ bé trong việc nghiên cứu và bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tộc
người một cách khoa học nhất.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Phụ lục, khóa luận được chia thành ba
chương như sau:
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tổng quan về xã Eabar huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên
1.2. Khái quát về đồng bào dân tộc Ê-đê xã Eabar huyện Sông Hinh tỉnh Phú
Yên
Chương 2. MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA
NGƯỜI Ê-ĐÊ, XÃ EABAR, HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN
2.1. Văn hóa vật chất
viii
2.2. Văn hóa xã hội
2.3. Văn hóa tinh thần
Chương 3. BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VĂN HÓA

TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ, XÃ EABAR, HUYỆN SÔNG HINH,
TỈNH PHÚ YÊN
3.1. Biến đổi văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở Eabar
3.2. Tác nhân biến đổi văn hóa truyền thống
3.3. Vấn đề bảo tồn văn hóa truyền thống
ix
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tổng quan về xã Eabar huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên
1.1.1. Vị trí địa lý
Phú Yên là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ, diện tích tự nhiên
là 5.060 km
2
, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía nam giáp tỉnh Khánh Hòa, phía tây
giáp tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk, phía đông giáp biển Đông. Phú Yên có vị trí địa lý và
giao thông tương đối thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Tỉnh có 09 đơn vị hành chính gồm các huyện: Đồng Xuân, Đông Hòa, Sông
Hinh, Sơn Hòa, Phú Hòa, Tây Hòa, Tuy An, thị xã Sông Cầu và thành phố Tuy Hòa
(là trung tâm tỉnh lỵ).
Huyện Sông Hinh là huyện miền núi được thành lập từ ngày 25/02/1985 trên
cơ sở chia cách huyện Tây Sơn thành hai huyện Sơn Hòa và Sông Hinh. Huyện
Sông Hinh nằm ở phía tây nam Phú Yên, phía tây nam giáp tỉnh Đăk Lăk, tây bắc
giáp tỉnh Gia Lai. Diện tích tự nhiên 886 km
2
, tổng dân số 45.860 người, trong đó
đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 46% dân số. Dân cư tập trung ở khu vực thành thị
10.639 người, nông thôn 35.221 người trên địa bàn 10 xã (Sơn Giang, Đức Bình
Đông, Đức Bình Tây, Eabia, Eabá, Eabar, Eatrol, Sông Hinh, Ealâm, Ealy) và một
thị trấn (Hai Riêng).
Xã Eabar là xã miền núi thuộc huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên được tách ra

từ xã EaBá vào ngày 15 tháng 11 năm 1991 và đó được coi như là ngày thành lập
xã. Xã có diện tích tự nhiên là 10.185 ha, nằm trên đường quốc lộ DT645, cách thị
trấn Hai Riêng chừng 15km. Phía tây giáp với xã Ealy, phía đông giáp huyện Sông
Hinh, phía bắc giáp xã Ea Lâm, phía nam giáp với huyện M’Drak, tỉnh Đăk Lăk.
Trên địa bàn xã có các tuyến giao thông quan trọng nối với các khu vực
trong và ngoài tỉnh, là cầu nối các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ với các tỉnh Tây
nguyên, tạo điều kiện thuận lợi trong trao đổi hàng hóa (đặc biệt là giao lưu, buôn
bán cà phê và mủ cao su với các tỉnh Tây Nguyên, trao đổi, buôn bán nguyên liệu
làm giấy với tỉnh Khánh Hòa, vì nơi đây có diện tích trồng cây keo, tràm nằm rải
rác khắp địa bàn xã) tạo liên kết hợp tác phát triển kinh tế - xã hội thông qua quốc
lộ DT 645. Trong tương lai khi tuyến đường Đông Trường Sơn đi qua xã hoàn
thành thì khả năng trao đổi hàng hóa càng thuận lợi hơn.
1
Xã Eabar là xã vừa có vị trí quan trọng về quốc phòng, vừa là vùng giao lưu
văn hóa giữa các tỉnh duyên hải miền Trung với địa bàn chiến lược Tây Nguyên.
Với các dân tộc cùng sinh sống như: Ê-đê, Bana, Kinh, Tày, Nùng, Dao, Thái… nên
đời sống văn hóa hết sức phong phú và đa dạng. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị
di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc xã Eabar từng bước được chú trọng đầu tư.
Một số lễ hội văn hoá và văn nghệ dân gian của đồng bào dân tộc Ê-đê (dân tộc bản
địa) đã được phục dựng và bảo tồn như: lễ hội cồng ching
1
, lễ bỏ mả, lễ cầu mưa, lễ
mừng nhà mới, lễ cúng vòng đời Các loại nhạc cụ như: sáo đất, đàn Goong…
cũng được các nghệ nhân quan tâm và gìn giữ.
Là vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời, giàu truyền thống hào hùng trong
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Cùng nằm ở rìa phía Đông của dãy Trường Sơn và tiếp giáp với Tây Nguyên
nên khí hậu huyện Sông Hinh, trong đó có xã Eabar có đặc điểm chung là vừa chịu
ảnh hưởng khí hậu vùng Tây Nguyên, vừa ảnh hưởng khí hậu vùng duyên hải miền

Trung. Nơi đây, mỗi năm có 2 mùa: mùa nắng bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9, đôi
khi có gió Tây Nam khô nóng hoạt động khá mạnh, mùa mưa rơi vào tháng 9 và
tháng 10 đôi khi kéo dài đến tháng 1 năm sau. Nhiệt độ trung bình 24,9
0
C.
* Sông ngòi
Là một xã có ít hệ thống sông ngòi nên từ khi thành lập xã đã triển khai đắp
đê làm hồ chứa nước. Hiện toàn xã có 6 hồ chứa nước lớn, chưa kể các hồ chứa
nước nhỏ do các hộ gia đình khai phá để phục vụ cho việc tưới tiêu sản xuất của bà
con trên địa bàn.
* Về đất đai
Tổng diện tích tự nhiên trên toàn xã là 10.185 ha. Trong đó diện tích đất
nông nghiệp là 7.258,17 ha, đất lâm nghiệp 2.262,8 ha, đất chuyên dùng là 253,72
ha, đất nông thôn 295 ha, đất chưa sử dụng 869,68 ha, đất mặt nước chuyên dùng là
242,8 ha. Ở xã Eabar đất đỏ và đất pha cát chiếm phần lớn diện tích.
* Về rừng
Theo số liệu từ Ủy Ban Nhân Dân xã thì đất lâm nghiệp là 2.262,8 ha, chủ
yếu là rừng trung bình, nhưng đây là nơi bao bọc, tập trung nhiều loại động thực
1
Những người Ê-đê cao tuổi ở xã Eabar quen gọi Cồng chiêng là “đồng la” hoặc Cồng ching. Nên trong khóa
luận này chúng tôi thống nhất tên gọi là cồng ching.
2
vật, người dân quen gọi là “Hòn đen”
2
. Nơi đây có nhiều loại gỗ, cây thuốc quý
như cẩm lai, trắc, mun, hà thủ ô, chò chỉ…động vật có khỉ, hươu, vooc, vượn, trâu
rừng.
1.1.3. Tình hình xã hội
Xã Eabar là một xã nghèo thuộc diện đầu tư của chương trình 134 và 135 của
chính phủ. Toàn xã có 8 thôn trong đó 4 thôn người Việt: thôn Eadin, thôn Ea

Mkeng, thôn Chư Blôi, thôn Tân An và 4 thôn buôn đồng bào dân tộc Ê-đê: buôn
Chung, buôn Thứ, buôn Trinh, buôn Quen.
Đồng bào các dân tộc thiểu số xã Eabar sống theo dòng họ hình thành nên
các buôn làng và có sự đan xen với người Việt trong địa bàn các thôn buôn. Tổng
dân số toàn xã là 5.486 người. Trong đó dân tộc Ê-đê là 1.866 người, dân tộc Tày,
Nùng 302 người, còn lại là người Việt.
Xã Eabar được thành lập năm 1991. Là một xã vùng sâu vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn nên nền kinh tế ở đây còn rất khó khăn, đồng bào chủ yếu làm nông
nghiệp và chăn nuôi phụ thuộc vào thiên nhiên. Trình độ dân trí thấp nên việc áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và chăn nuôi còn nhiều hạn chế
nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Thêm vào đó, thời tiết diễn biến phức tạp làm ảnh
hưởng đến sản xuất nông nghiệp, dịch bệnh và chuột phá hoại mùa màng nên tỷ lệ
hộ nghèo còn khá cao. Theo điều tra, rà soát hộ nghèo năm 2012 là 1.021 hộ chiếm
tỷ lệ 79,5%.
Những năm qua, từ khi đất nước chuyển sang đổi mới và xây dựng nông
thôn mới, nhờ có chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, sự quản lý và điều
hành sâu sát kịp thời của chính quyền địa phương, tổng thu ngân sách địa phương
85 triệu, thu nhập bình quân đầu người là 7,6 triệu. Đồng bào nơi đây đã phát huy ý
chí tự lực tự cường, truyền thống cần cù lao động sáng tạo, tinh thần đoàn kết nên
cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trên một số lĩnh vực kinh tế, văn hóa và
xã hội. Đời sống vật chất ngày càng tiến bộ, chuyển biến theo hướng đi lên, nhu cầu
về đời sống văn hóa tinh thần ngày càng được đáp ứng tốt hơn. Quốc phòng, an
ninh ngày càng được giữ vững hơn.
Vấn đề giáo dục được xã tập trung chỉ đạo, tuyên truyền, vận động nên năm
2012 xã tiếp tục giữ vững phổ cập trung học cơ sở, phổ cập tiểu học và mẫu giáo
2
Hòn đen là tên gọi quen thuộc của những người Ê-đê xã Eabar. Đó là một dãy núi bao bọc xã Eabar, nằm ở
phía tây nam của xã.
3
đúng độ tuổi, công tác giáo dục - đào tạo được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Trong

năm 2011-2012 các đơn vị thường xuyên tổ chức các hoạt động chuyên môn liên
tục trong suốt năm học, tạo khí thế thi đua sôi nổi cho toàn ngành. Điều đáng chú ý
là tỷ lệ học sinh là đồng bào Ê-đê chiếm tỷ lệ khá cao, cho thấy đồng bào Ê-đê đã
quan tâm đến việc học của con em mình, nhiều người trong số đó đã thành đạt nắm
nhiều vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước.
Công tác y tế, dân số gia đình và trẻ em được quan tâm và đạt được nhiều
thành tựu đáng kể, chỉ tính trong năm 2012, toàn xã đã có tổng số lượt khám bệnh là
4338/5556 lượt đạt 0,78 lượt/người/năm. Khi có bệnh tật thì người Ê-đê đến các
trạm Y tế để khám và điều trị, không còn trường hợp chữa bệnh bằng “thầy cúng”.
Rõ ràng nhận thức về xã hội trong cộng đồng người Ê-đê đã được nâng cao đáng
kể.
Trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao những năm qua xã đã tiếp
tục tuyên truyền rộng rãi cuộc vận động “Học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí
Minh”, tiếp-phát đầy đủ chương trình truyền thanh, đảm bảo tuyên truyền đầy đủ
chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đến từng người dân. Hiện
nay UBND cũng đã triển khai tu sửa các loa đài của Đài truyền thanh xã đảm bảo
thông tin kịp thời về tin tức thời sự - kinh tế - văn hóa xã hội - an ninh quốc
phòng….
Đăng ký tổ chức giải thể dục thể thao các dân tộc thiểu số 2012, tham gia
hội thi đẽo tượng gỗ và chế tác nhạc cụ dân tộc do Trung tâm văn hóa thông tin
(VHTT) huyện Sông Hinh tổ chức. Tính đến năm 2012 trong xã có 3 thôn buôn
được công nhận là thôn buôn văn hóa (thôn Tân An, thôn Ea Din và thôn Ea
Mkeng) công nhận 826 hộ gia đình văn hóa. Hiện tại mỗi thôn đã có nhà văn hóa và
sinh hoạt cộng đồng.
Công tác bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc được chú trọng.
Việc bảo tồn tiếng nói và chữ viết được quan tâm, đã tổ chức các lớp dạy tiếng Ê-đê
cho cán bộ chủ chốt của huyện và một số lễ hội được phục dựng để lưu giữ. Phong
trào đoàn kết toàn thôn buôn xây dựng đời sống văn hóa được triển khai rộng khắp,
đánh dấu một bước quan trọng trong đời sống văn hóa của đồng bào.[4]
4

1.2. Khái quát về dân tộc Ê-đê, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên
1.2.1. Địa bàn cư trú
Người Ê-đê ở Phú Yên cư trú trong một không gian tương đối rộng từ Sơn
Hòa đến Sông Hinh. Vì cư trú ở rìa phía đông dãy Trường Sơn, cách xa khu vực tập
trung của người Ê-đê (Đăk Lăk) và có số lượng dân cư không nhiều, nên người Ê-
đê ở Phú Yên ít được các học giả quan tâm nghiên cứu. Địa điểm tụ cư của họ
thường nằm theo các triền suối, sông nhỏ hay những chỗ đất cao và bằng phẳng, xa
tít là những dãy núi chập chùng, xanh ngắt một màu. Người Ê-đê có dân số khoảng
12.759 người, cư trú tai các địa phương như xã Eabia, Eatrol, Eabar, Eabá, Ealâm…
Trong đó xã Eabar người Ê-đê tập trung ở 4 thôn trên tổng số 8 thôn đó là
buôn Chung, buôn Thứ, buôn Quen và buôn Trinh. Theo số liệu điều tra dân số năm
2012 (bộ phận công tác Dân số và kế hoạch hóa gia đình thuộc Ủy Ban Nhân Dân
xã Eabar) thì tổng dân số đồng bào Ê-đê là 1.866 người, trong đó buôn Chung là
156 hộ, 800 khẩu; buôn Thứ là 86 hộ, 379 khẩu; buôn Quen là 86 hộ, 363 khẩu;
buôn Trinh là 71 khẩu, 324 khẩu.
3
Người Ê-đê quần cư theo buôn, họ không quen sống xen kẽ với các dân tộc
khác. Vì thế cư trú với mật độ khá tập trung, chỉ tính riêng tại xã Eabar qua các
buôn thì người Ê-đê chiếm khoảng 99% dân số. Mỗi buôn có một bến nước chính,
nếu dựng buôn gần sông, suối thì đoạn suối chảy qua chính là ranh giới. Ngày xưa
chủ yếu lấy nước ở các con sông, suối. Ngày nay, các giếng tập thể mọi người cùng
múc nước và đem về dùng. Mỗi buôn có một khu vực để sản xuất, chăn thả, buôn
này không được xâm lấn buôn kia, nhà này không được xâm phạm đất đai của nhà
khác, quy định về tính cộng đồng của người Ê-đê được thể chế hóa bằng hệ thống
luật tục. Đứng đầu là già làng, người giữ quyền lực về thể chế trong thôn buôn.
1.2.2. Tên gọi và thành phần tộc người
Người Ê-đê là một trong những tộc người có khá nhiều nhóm địa phương.
Những nhóm đại phương có số dân đông là Kpă, Adham, Krung, Ktul, Hwing,
Epan, Bil và M’Dhur.
Các cuộc điều tra và khảo sát thực địa nơi có người Ê-đê sinh sống tại Phú

Yên cụ thể là xã Eabar cho thấy người Ê-đê ở xã Eabar thuộc nhóm Ê-đê M’dhur.
Ngoài số dân cư trú tại chỗ, còn có một nhóm Ê-đê chuyển từ nơi khác đến. Trong
3
Số liệu thống kê dân số-dân tộc trên địa bàn xã Eabar năm 2012.
5
quá trình cư trú có khuynh hướng giao tiếp văn hóa với người Djarai và người
Chăm, nên trong ngôn ngữ và văn hóa có những yếu tố khác biệt so với cộng đồng
người Ê-đê ở Đăk Lăk. Bên cạnh tộc danh Ê-đê hoặc Anak Đê một số học giả người
Pháp thường nhắc đến dân tộc này với tên gọi Rhadé (Rađê). Tuy nhiên trong quá
trình tồn tại và phát triển. Cũng như các nhóm Ê-đê khác có xu hướng xích lại gần
nhau hơn trên cơ sở tộc danh chung Ê-đê. Chỉ tính riêng trên địa bàn xã Eabar thì họ
của người Ê-đê có các họ Ksor, Nay, Huynh, LêMô, Kpá, Lê, Bon… Trong số các
họ trên thì họ Ksor, Nay và LêMô là những họ chiếm phần lớn trong cộng đồng dân
tộc ở địa bàn. Trong giao tiếp thường ngày, cũng như người Việt họ chỉ gọi tên, ví
dụ như một người có tên là Ksor Y Nuôi thì lúc gọi tên trong giao tiếp gọi là: “Y
Nuôi” còn đối với người già, nếu là người thân trong nhà thì đàn ông gọi là “Oi”,
nếu là phụ nữ thì gọi là“ Tun” hoặc “Adôn”. Điều đó thể hiện sự lịch thiệp trong
quan hệ xã hội, cộng đồng, thể hiện tình cảm thiêng liêng gắn chặt quan hệ gia đình,
bạn bè hàng xóm.
1.2.3.Truyền thống đoàn kết đấu tranh
Trước đây, khu vực người Ê-đê Phú Yên đang sinh sống là địa bàn thuộc
huyện M’Drak, tỉnh Đăk Lăk, cư dân vùng này vừa có quan hệ gốc tích, vừa có
quan hệ lãnh thổ với người Ê-đê ở Đăk Lăk. Do vậy những biến động về kinh tế
chính trị, kinh tế văn hóa của vùng đất Tây Nguyên đều tác động đến người Ê-đê ở
Phú Yên.
Mùa hè năm 1947, địch lập đồn ở Hai-Riêng, Cà Lúi, Bà-Lá, Ma phu, đưa
quân chiếm các xã Eabá, Eabia, Suối Trai, Krông-Pa. Ngày 5 tháng 1 năm 1948, từ
Cheo Reo, Ai Nu, địch mở rộng cuộc hành quân đánh xuống Củng Sơn, bị ta chặn
đánh quyết liệt buộc phải rút về Cà Lúi. “Đầu năm 1948, bọn giặc Pháp mở cuộc
hành quân dọc theo sông H’Năng và sông Ba càn qua sông Ba rồi chúng nó lên dốc

M’hăm tại buôn Bầu, trung đoàn 84 Nơ-Trang-Lơng phục kích đánh địch trên đồi
M’hăm, thu được một đoàn voi tiếp tế của địch”
4
.
Với âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, Mỹ nhanh chân nhảy
vào thay thế thực dân Pháp và ngang nhiên xóa bỏ hiệp định ngừng chiến ở Việt
Nam, Mỹ-Ngụy đưa quân đóng đồn Hai Riêng, Tân Vinh, Cà Lúi, mở các cuộc
hành quân đốt nhà, phá rẫy, dồn dân. Trước tình hình đó tỉnh ủy Phú Yên, huyện ủy
4
Theo lời kể của Ông Ma Not ( sinh năm 1920, ở buôn Chung, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên).
6
Sơn Hòa đã có những chủ trương và biện pháp chống trả kẻ thù. Mùa hè năm 1963
lực lượng vũ trang ở các xã Eabá, Eatrol, Eabia, Đức Bình, buôn Thung đánh tan
các cuộc càn quét quy mô lớn của địch từ Buôn Ma Thuột kéo xuống.
Để chuẩn bị giải phóng Phú Yên đồng bào Ê-đê ở các xã Eabar, Eabia,
Eatrol, Suối Trai, Cà Lúi và buôn Bầu, đã không quản gian khổ hy sinh, ngày đêm
bám trụ làm đường, chặt tre, đan mê lót đường, làm cầu để xe chở hàng hóa, đạn
dược, thuốc men chi viện cho chiến trường Phú Yên.
Qua hai cuộc kháng chiến đã có 213 người con của dân tộc Ê-đê hy sinh vì
sự nghiệp giải phóng dân tộc, đây là những trang sử hào hùng trong truyền thống
đánh giặc ngoại xâm của đồng bào Ê-đê ở xã Eabar nói riêng và Phú Yên nói
chung.[9]
1.2.4. Hoạt động kinh tế
Cư trú trong môi trường phần lớn phụ thuộc vào thiên nhiên, vì vậy kinh tế
nông nghiệp trong đó rẫy chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống bà con. Đất rẫy
thích hợp là loại đất rừng già có nhiều cây lớn, có thảm thực vật dày. Khi tiến hành
khai phá, đồng bào luôn quan tâm bảo vệ rừng, tránh hủy diệt giun đất và hủy diệt
tràn lan, biến đất đai thành đồi trọc. Lúc chọn được đám rẫy, đồng bào không chặt
phá hết mà để lại những khoảnh rừng lớn để chống xói mòn, đồng thời lấy cây làm
nhà, và chỉ sau một vài năm khi đất canh tác đã bạc màu họ mới phát tiếp và cứ sau

vài năm họ lại quay về chỗ cũ canh tác. Do điều kiện tự nhiên, nơi cư trú của người
Ê-đê xã Eabar, về đất đai chủ yếu là đất pha cát nghèo chất dinh dưỡng nên người
Ê-đê phải đi xa vào các sườn núi, chủ yếu ở phía đông nam để khai phá đất đai, do
đó từ lâu người Ê-đê ở đây đã có kiểu cư trú ngoài buôn
5
và cư trú trong buôn, kiểu
cư trú này thích nghi với sản xuất nông nghiệp, tiện lợi canh tác.
* Một số nông cụ truyền thống:
Trong sản xuất kinh tế người Ê-đê xã Eabar sử dụng một số công cụ như xà
gạc, wăng-briêng, wăng wit, gùi lớn để thu hoạch, hwar
Rìu là công cụ để chặt, đốn cây lớn dùng trong quá trình phát dọn nương rẫy.
Đồng thời, rìu cũng dùng để chẻ những cây gỗ lớn để đốn củi phục vụ cho sinh hoạt
nấu nướng thường ngày.
5
Là hình thức cư trú khá phổ biến của người Ê-đê xã Eabar, họ dựng các ngôi nhà nhỏ “chòi”, có sàn cao gần
nơi canh tác, thường là dưới các chân đồi, có các vật dụng và đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt và sản xuất.
Họ ở đó trong suốt quá trình chăm sóc cho đến khi thu hoạch, rồi họ lại quay về ngôi nhà chính của mình
ở trong buôn.
7
Xà gạc là một lưỡi dao có mỏ cặp, cán bằng tre hoặc gỗ được tra (cố định)
vào phía đầu cong của cán, lưỡi và cán là hai đường song song. Người đàn ông Ê-đê
khi đi ra ngoài thường có thói quen đem theo xà gạc trên vai để phát dọn nương rẫy
đồng thời đó cũng là vũ khí khi gặp thú dữ.
Wăng-briêng là chiếc cuốc nhỏ để làm cỏ ở những vùng có cây cỏ nhỏ mọc
và xới đất gồm một lưỡi sắt nhỏ giống như lưỡi liềm.
Wăng wit là loại cuốc nhỏ dùng để làm cỏ lúa, bắp, so với wăng briêng thì
lưỡi nhỏ và dài hơn, phần đầu lưỡi nhọn dần, được uốn cong và lắp vào cán, nó gần
giống như lưỡi dao bẻ cong lại, mặt lưỡi không vuông góc với cán mà hơi nghiêng.
Gùi (pung guj) là phương tiện vận chuyển chủ yếu và phổ biến của người
Ê-đê xã Eabar. Gùi thường được đan bằng tre hoặc mây, phần đáy bằng gỗ được

được đẽo thành 4 mặt khá vuông góc. Gùi thường được đan thành hình khối trụ
tròn, có mặt vành to và nhỏ dần ở phần đáy, có hai quai được bện bằng dây rừng
thường là mây, hoặc cây cổ rùa một đầu buộc vào vành gùi, đầu kia buộc vào đáy
gùi. (xem phụ lục hình ảnh, hình 10).
Trong các dụng cụ thì cày và bừa là hai loại dụng cụ hỗ trợ tốt trong việc cày
và xới đất, có thể được đẽo bằng gỗ hoặc lấy cây tre già ghép lại, cày của người Ê-
đê giống của người Việt, chỉ khác một điều là vì cày và bừa của họ được thiết kế
cho hai con bò kéo một lần. Những người Ê-đê ở đây cho rằng nếu cái cày mà dùng
1 con bò kéo thì nó sẽ kéo yếu hơn, cày sẽ không sâu và lúc trồng lúa sẽ không năng
suất. Mặt khác, họ rất yêu những con vật nuôi, nên họ không muốn vật nuôi làm
nặng nhọc. Chính vì điều đó, người Ê-đê xã Eabar không có một phương tiện vận
chuyển nào dựa vào sức của động vật như cộ bò, kiên an
6
như người Việt, điều đó
ảnh hưởng sâu đậm trong văn hóa người Ê-đê.
Ngay từ khi định cư sinh sống ở đây, đồng bào Ê-đê đã canh tác lúa nước và
lúa rẫy rải rác dưới những quả núi. Hình thức canh tác nương rẫy, người Ê-đê ở xã
Eabar cũng giống với Ê-đê ở Đăk Lăk đó là “Việc sử dụng nương theo chế độ luân
khoảnh gắn liền với việc sử dụng giống lúa gieo trồng trên các loại nương cũ, mới
khác nhau. Nương mới khai phá năm đầu, Enah thường trồng các giống lúa mdie
Wiet, mdie Ana, mdie Blá. Nương đã sử dụng 3, 4 năm, Kpuh trồng mdie Săn, mdie
6
Cộ bò, kiên an là phương tiện vận chuyển được người dân xã Eabar hay dùng, đó là một khung hình chữ
nhật, được gắn kết với nhau bằng gỗ, ở phần đáy có lắp 2 bánh theo chiều ngang song song với nhau, ở hai
bên khung có 2 thanh cây dài được thiết kế sao cho con bò có thể kéo xe di chuyển. Cộ bò là phương tiện vận
chuyển lúa, cà phê… vào nhưng năm 1990-2000.
8
Kê, còn nương rẫy đã sử dụng lâu năm người ta trồng mdie Gêrang, lúa Halan,
Sikar…khi lúa trên những nương đã sử dụng lâu năm đem lại năng suất kém thì bỏ
hóa, nương đó gọi là Ksor ”[2; 46]

Khắp các thôn, buôn xã Eabar đều có ruộng nước của người Ê-đê, và ở men
các cánh đồng rải rác những chòi
7
, túp lều của người Ê-đê ở để thuận lợi cho việc
trông coi, chăm sóc. Gần đây, được sự chỉ đạo của ban khuyến nông và lãnh đạo xã,
bà con chủ yếu trồng các cây công nghiệp như cà phê, sắn mì, mía, xen lẫn ngô. Ở
những chỗ bằng phẳng hơn chủ yếu trồng ngô, đậu. Kể từ năm 2009 người Ê-đê
trồng cây cao su trên những quả đồi nhỏ, dần thay thế cây cà phê đem lại thu nhập
ổn định cho bà con.
Do cuộc sống hầu như phụ thuộc vào tự nhiên và dựa trên điều kiện tự nhiên
sẵn có, nên chăn nuôi chiếm phần quan trọng trong đời sống. Ở xã Eabar hộ gia
đình nào cũng chăn nuôi bò nhưng mang tính tự nhiên, chăn thả rông, họ ít làm
chuồng bò. Gia súc chủ yếu ngủ dưới sàn nhà, vì là hình thức chăn thả rông nên mất
mát khá nhiều và đôi khi vào phá trong các cánh đồng người Việt. Vì thế, gần đây
khi nhận thức ngày càng cao, khoảng đất trống không còn nhiều, người Ê-đê đã
chuyển sang hình thức chăn thả có người trông coi, và đã có chuồng trại để cho bò.
Đây là một thay đổi đáng mừng trong sinh hoạt của người Ê-đê. Việc làm này
không những nâng cao chất lượng đàn bò mà còn cải thiện môi trường sống. Heo
cũng là vật nuôi chiếm phần quan trọng trong mỗi thôn buôn, đồng bào chủ yếu
nuôi heo mọi, có màu đen, sức đề kháng với môi trường tự nhiên cao, chủ yếu là
chăn thả rông, heo thường đi kiếm ăn, ủi đất ăn giun, rau, cỏ. Khắp các buôn, chủ
yếu nuôi heo nái và heo thịt, heo đực thì được giữ lại để cúng trong các buổi lễ cúng
Yang, cúng rượu 3, rượu 5…Thức ăn cho heo chủ yếu là loại “môn” (là loại cây
thân mềm thường mọc ở nơi ẩm ướt người Ê-đê khi đi làm ruộng về cắt nhỏ nấu
chín mềm, trộn lẫn với cám gạo) xác bã rượu cần, cám, thóc giã nát. Hiện nay khi
số lượng bò ngày càng ít và giá bò ngày càng cao thì heo gần như được đem thay
thế cho các lễ cúng. Ngoài heo, người Ê-đê còn nuôi gà, vừa là nguồn cung cấp thịt
cũng vừa là vật cúng trong các buổi lễ. Chuồng gà của người Ê-đê cột trụ được
thiết kế rất cao (xem phụ lục ảnh, hình 11). Đây có lẽ là để cho đàn gà phù hợp với
7

Chòi của người Ê-đê là những ngôi nhà nhỏ, thường là mái tranh, vách nứa, có sàn cao trên 1m, trong chòi
có các vật dụng và đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt và canh tác. Được dựng gần các cánh đồng, nương rẫy để
thuận tiện cho việc chăm sóc và bảo vệ cây trồng. Đây cũng là hình thức cư trú ngoài buôn của người Ê-đê xã
Eabar.
9
tập tính của nó, và cũng là dư âm của lối sống khi mà xưa kia người Ê-đê sống gần
các quả đồi để tránh thú dữ ăn thịt.
Cùng với hoạt động sản xuất, việc tìm kiếm nguồn thức ăn trong rừng, trên
sông suối cũng là một trong những hình thức mưu sinh của người Ê-đê xã Eabar
nhằm khai thác nguồn lương thực, thực phẩm tại chỗ để cải thiện, duy trì đời sống
và bảo đảm sự sinh tồn. Khi đi rừng người Ê-đê hái măng, rau. Đặc biệt có một loại
rau tên gọi là rau giún rất ngon, có hình tương tự như vòi con voi chỉ mọc ở trong
rừng sâu, gần chỗ ẩm ướt, rất được người Ê-đê ưa chuộng. Bên cạnh đó, người đồng
bào còn hái sa nhân. “Ngày xưa xã Eabar còn chưa tách khỏi xã Eabá thì vùng đất
này rất nhiều mật ong, ở tít trong “Hòn đen” cứ vào khoảng tháng 4 đến tháng 7
hằng năm, mình cùng trai làng rủ nhau vào rừng lấy mật ong. Vào những lúc rảnh
rỗi hay lúc sắp đến mùa gặt lúa là đồng bào mình thường vào rừng săn bắn đem
theo chó, bẫy tự chế, cung tên, và một vài khẩu súng còn sót lại sau chiến tranh vào
rừng săn bắn, chủ yếu là heo rừng, nai mình đi liên tiếp cả tuần, có khi lên tới cả
tháng, nếu săn được con gì, thì tiến hành sơ chế (nghĩa là mổ xẻ), chia thành từng
mảnh và gánh về buôn làng sau đó chia từng phần cho nhưng người tham gia”
8
.
Ngoài săn bắn còn có hoạt động đánh cá rất kỳ thú, men theo các con suối
nhỏ, hay các chỗ sông chia nhánh, người Ê-đê xếp đá, đan thành các thành lũy chặn
các con sông suối lại và để một lỗ nhỏ và đặt một “cái đó”
9
để cá vào và hàng tuần
họ đến lấy cá một lần.
Những người phụ nữ trong làng thì vào rừng hái sa nhân, phong lan tím, đôi

khi có tắc kè, rắn nhỏ, về bán cho các hiệu buôn người Việt để đổi lấy vật phẩm cần
thiết như rổ, chén, bát…v.v.v. Những lúc đi rừng, làm rẫy người Ê-đê luôn gùi thêm
gùi củi đem về nhà sắp xếp ngay ngắn, để dưới sàn nhà để nấu ăn và phòng mùa
mưa không có củi sinh hoạt.
1.2.5. Nghề thủ công truyền thống
Không giống như người Ê-đê ở Tây Nguyên, người Ê-đê ở Phú Yên chưa
biết rèn công cụ lao động bằng sắt, họ chủ yếu trao đổi với người Việt trên địa bàn.
Do vậy nghề thủ công truyền thống của người Ê-đê nơi đây là đan lát nhà cửa và
8
Theo lời kể của ông Oi Núc (tức Doun Y Don, buôn Chung, xã Eabar, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên).
9
“Đó” là một dụng cụ đánh cá thường được người Ê-đê xã Eabar sử dụng, “đó” được đan bởi những cây trẻ
chẻ thành từng lát mỏng và đan thành hình giống như cánh quạt và uốn cong như ống nước chẻ làm đôi, đầu
miệng loe to ra và gần tới đáy thì càng nhỏ gần lại, được đặt ở chỗ đã được định hình trước, thường là chỗ có
nhánh sông, suối nhỏ. Khi cá, lươn… bơi qua thì chúng vô tình bơi vào “cái đó” và không đi ra được.
10
các công cụ sinh hoạt trong gia đình như: thúng, gùi, mẹt, rổ. Thúng có nhiều loại,
có loại to tròn như chiếc gùi đựng bắp, có loại miệng rộng, có loại miệng loe chủ
yếu để đựng ngô, lúa dùng khi hót lúa, ngô vào bao cất vào kho. Gùi là loại dụng cụ
được đan lát bằng tre hoặc nứa dùng để gùi lúa, nước, củi, và đựng các vật quý
trong nhà. Ngoài những chiếc gùi lớn, người Ê-đê còn đan những chiếc gùi nhỏ, có
trang trí hoa văn rất thẩm mỹ, những đường nét được tạo bởi những thẻ tre, nứa,
được gọt, đẽo và xếp thành hình (thường là những đường carô) hoàn toàn không
dùng sơn, cho trẻ em gùi nước, hái rau, bẻ măng, dùng để đưa cơm khi đi rẫy. Các
vật phẩm đan lát xong thì gác trên bếp để hun khói cho đen nhằm chống mọt và
tăng độ bền, dẻo dai cho dụng cụ. Mẹt, rổ cũng có nhiều loại, nhưng chiếc mẹt tiêu
biểu của người Ê-đê ở đây là chiếc mẹt hình trái tim, ở mui trái tim có một khe nhỏ
để lúc sàng lúa, hạt lúa sẽ theo khe nhỏ đó chạy vào bao lúa tránh rơi vãi ra ngoài.
Ngày xưa, vùng đất Eabar này rất nhiều tre nứa nhưng dụng cụ khai thác gỗ còn quá
sơ sài nên lượng gỗ chặt về để làm nhà còn ít. Vì thế, chỉ chặt được những cây nhỏ

và cây tre, nứa dùng để đan mê làm tường nhà. Những cây nứa, cây tre được chẻ đôi
và dùng cây đập ra từng mảnh và cố kết lại thành từng mảng lớn để làm tường cho
ngôi nhà. Chỉ có cột nhà và đòn tay mới dùng gỗ còn lại chủ yếu là tre, nứa. Bây
giờ khi đặt chân về những buôn làng trên địa bàn xã Eabar rất hiếm thấy những kiểu
nhà như vậy, các lũy tre xanh bao bọc quanh buôn làng, nhưng rất ít sử dụng tre để
đan lát làm tường nhà nữa mà chủ yếu để lấy măng, làm hàng rào, phục vụ cho việc
đan lát và các dụng cụ phục vụ cho sản xuất.
Nhìn vào trang phục, chúng ta có thể phân biệt được người đó thuộc chủng
tộc nào thông qua trang phục, bởi vì nghề dệt vải thủ công là một yếu tố cốt lõi, xác
định sắc màu tộc người. Ở xã Eabar nghề dệt vải khá phát triển. Cứ vào thứ bảy,
chủ nhật và những lúc rảnh rỗi là người phụ nữ trong buôn bắt đầu dệt vải. Họ
không dệt trên khung cửi mà giăng thành một đường vòng rồi lấy hai đoạn cây căng
thẳng dây, sao cho đường sợi tơ trải ra hai mặt song song kề nhau, móc nối với nhau
bằng một chiếc go. Khi dệt, người dệt lấy một đoạn dây chằng qua lưng và đầu kia
buộc vào cây cột để cho toàn bộ sợi dây căng đều, tạo thành một cái khung dệt, họ
cũng không dùng thoi mà cầm suốt chỉ để luồn, để hai tầng sợi đan vào nhau thành
tấm vải, việc dệt như vậy rất công phu. Khi dệt hoa văn, người Ê-đê xếp các sợi chỉ
màu, cùng với sợi chỉ đen thành một tấm thảm dọc và theo một kiểu trang trí hoa
11
văn được định hình trước, hoa văn trang trí chủ yếu là quang cảnh thiên nhiên, là
các ô carô, những ô vuông nhỏ được chồng lên nhau, là những hình ảnh quen thuộc
của cuộc sống đồng bào như con chim, con cá. Từ sợi chỉ trắng để tạo ra sợi chỉ
màu người Ê-đê tiến hành nhuộm chỉ, công thức nhuộm chỉ dựa vào kinh nghiệm
ngàn đời được đúc kết qua bao thế hệ. Như để có màu đen chàm dùng cây chàm, để
có màu vàng người Ê-đê dùng cây nhàu, hoặc củ nghệ, để có màu nâu thì dùng vỏ
cây dẻ. Để dệt một chiếc áo, váy, khố, ngưởi phụ nữ Ê-đê phải mất từ 3 đến 4 tháng.
Thời gian bỏ ra lâu như vậy cho nên người Ê-đê rất coi trọng, và trị giá của nó cũng
rất cao. Vải dệt còn là vật phẩm để bắt chồng, quà cho cha mẹ, anh em họ hàng
trong lễ cưới hỏi. Nhưng hiện nay nghề dệt này ít được đồng bào đây chú trọng vì
váy dệt kiểu này rất nóng, trong khi đó váy ngoài thị trường cung cấp đầy đủ cho

nhu cầu của họ.
Một nghề thủ công không thể thiếu trong đời sống của người Ê-đê xã Eabar
là nghề chế biến rượu cần. Rượu cần đi vào các buổi lễ cúng Yang, đi vào văn hóa
truyền thống của người Ê-đê. Trong các công đoạn chế biến rượu cần thì công đoạn
làm men là quan trọng nhất, việc đầu tiên là phải nấu cơm. Gạo ở đây không phải là
gạo bóc trắng mà là loại gạo bóc lần một trong quy trình xay lúa, người Ê-đê lấy
gạo đó đem nấu thành cơm, sau đó bốc ra mẹt, hoặc nia để hơi nguội rồi trộn đều
men và bỏ vào ché, sau đó dùng lá chuối bịt kín miệng ché lại. Về phần men rượu
người Ê-đê thường dùng rễ cây dong riềng rửa sạch, phơi khô, tán nhỏ rồi trộn thêm
bột củ riềng, hoặc gừng, bột gạo nắn thành từng nắm nhỏ và đem phơi khô. Ché
rượu cần thường đặt ở phía đông của ngôi nhà, khoảng vài tháng là đem ra uống, vì
thời gian càng lâu thì độ của rượu càng mạnh. Rượu cần là một lễ vật không thể
thiếu trong các buổi lễ, bất cứ là lễ gì, lớn hay nhỏ đều có rượu cần, ví dụ như cúng
rượu 3 thì gồm có 3 ché rượu và 1 con gà, cúng rượu 5 thì năm ché rượu và 1 con
gà, heo thiến. Thứ tự các ché rượu được đặt theo hình tam giác đứng, nghĩa là ché
cao, to đặt ở giữa, ché nhỏ hơn đặt liền kề và được cố định bằng dây thừng níu với
cột nhà, vì theo qua niệm của người Ê-đê nếu ché rượu mà đổ bể thì đó là một điềm
báo không tốt.
Người Ê-đê xã Eabar có thói quen hút thuốc lá, trong các mảnh vườn nhỏ,
gần nơi cư trú những người già trong nhà trồng các cây thuốc lá, sau đó phơi khô và
thái nhuyễn đem cất vào bao. Họ chủ yếu hút thuốc lá bằng tẩu (xem phụ lục hình
12
ảnh, hình 17). Vì thế, tẩu thuốc được chế tác khá nhiều kiểu. Có loại bằng tre, nứa,
gỗ, được gọt đẽo rất công phu và được quấn đồng, nhôm hoặc bạc xung quanh tẩu
thuốc, nhưng thông dụng nhất vẫn là tẩu thuốc được quấn bằng lá chuối. Người Ê-
đê bỏ thuốc vào 1 mảnh lá chuối và quấn theo hình xoắn con ốc. Có thể thấy, cuộc
sống của người Ê-đê tách ra khỏi các dân tộc khác nên còn lưu giữ được những văn
hóa truyền thống mang đậm bản sắc riêng của dân tộc mình. Dù có những thay đổi
về phương thức sinh hoạt do bước tiến của xã hội, nhưng nét văn hóa truyền thống
giàu bản sắc dân tộc vẫn còn sống mãi với bà con nơi mảnh đất Phú Yên này.

13

×