Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của hồ chí minh về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam sự vận dụng quan điểm nêu trên của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.64 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE
----- oOo -----

BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Anh, chị hãy tìm hiểu và phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh
về cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? Sự
vận dụng quan điểm nêu trên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát
triển nền kinh tế nước ta hiện nay.

Họ và tên: Đồn Ngọc Minh
MSV: 11206071
Lớp tín chỉ: LLTT1101
Giảng viên: TS Nguyễn Chí Thiện

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Hà Nội - 2022

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


MỤC LỤC
A. Mở đầu
B. Nội dung
1.

Cơ sở lý luận 1


2.

Cơ sở thực tiễn
2.1.

Bối cảnh quốc tế

2.2.

Bối cảnh Việt Na

3.

Chủ trương thực hiện nền kinh tế nhiều
3.1.

Nền kinh tế hai th

3.2.

Nội dung đổi mới

3.3.

Nền kinh tế nhiều

năm 1986

4.


Sự vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển

nền kinh tế nước ta hiện nay
C. Kết luận

14

Tài liệu tham khảo

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


A. MỞ ĐẦU
Thực hiện công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng
Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc nhất về những vấn đề cơ
bản của Cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MacLênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” và trên thực tế, tư tưởng Hồ
Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng Sản và của toàn
dân tộc Việt Nam, được rộng rãi nhân dân đồng tình hưởng ứng dẫn đến đạt được
nhiều thắng lợi trong việc thay đổi nhận thức và lối sống của quần chúng nhân dân.
Không chỉ dừng lại ở phạm vi trong nước, tư tưởng Hồ Chí Minh cịn ảnh hưởng đến
quốc tế khi nhiều quốc gia đã có những ủy ban, tổ chức chuyên nghiên cứu về tư tưởng
của Người.
Một trong những ảnh hưởng mà tư tưởng Hồ Chí Minh hướng đến là việc định hướng
Chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên Chủ nghĩa xã hội cũng như xây dựng và
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở thời kỳ quá độ. Vận dụng triết học Mác –
Lênin về cái chung, cái riêng; cái phổ biến, cái đặc thù, Hồ Chí Minh đã chủ trương
cho bước đi của nước nhà là thực hiện con đường gián tiếp lên Chủ nghĩa xã hội
không kinh qua Chủ nghĩa tư bản xuất phát từ thực tiễn Việt Nam lúc bấy giờ là một

nước nghèo với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, những tàn dư phong kiến còn đang
tồn tại, chiến tranh chưa thực sự chấm dứt. Từ xuất phát điểm ấy, tiền đề cơ sở khách
quan quy định tính chất phức tạp của cơ cấu kinh tế - xã hội và sự tồn tại của các thành
phần kinh tế khác nhau đã ra đời. Kể từ Đại hội VI năm 1986, tư tưởng Hồ Chí Minh
về nền kinh tế nhiều thành phần được vận dụng rõ rệt. Chu trương ây cua Ngươi đã soi
sáng đường lối xây dựng và phát triển kinh tế trong sự nghiệp đổi mới, thưc tê phat
triên kinh tê cua Viêt Nam lúc bấy giờ đa chưng minh điêu ây.
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất: Do đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ lịch sử đặc biệt,
cịn có sư đan xen giữa các yếu tố của xã hội cũ và xã hội mới. Nên trong lĩnh vực kinh tế,
tất nhiên cũng sẽ bao gồm những thành phần kinh tế của xã hội cũ cùng với thành phần
kinh tế của xã hội mới ra đời.Thành phần kinh tế là một loại hình của quan hệ sản xuất
xác định tương ứng với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất nhất định đã ra đời
nhưng chưa phát triển đạt tới vai trò thống trị trong nền kinh tế hoặc đang bị thủ tiêu dần.
Như vậy, mỗi thành phần kinh tế được xây dựng trên cơ sở một hình thức sở hữu về tư
liệu sản xuất và một lực lượng sản xuất nhất định.Trong thời kỳ

1

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


quá độ ở nước ta, nền kinh tế có nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất: sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Mỗi loại hình sở hữu lại có nhiều hình thức
khác nhau. Các hình thức sở hữu ln gắn bó chặt chẽ với nhau, có sự tác động qua
lại, đan xen vào nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên sự đa dạng các hình thức kinh tế và
sản xuất kinh doanh. Vì vậy trong thời kì q độ có nhiều thành phần kinh tế.
Thứ hai: Theo yêu cầu của quy luật: quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất nên trong thời kỳ quá độ, quá trình xây dựng quan hệ

sản xuất xã hội chủ nghĩa phải trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất. Nước ta do
đặc điểm lịch sử là: đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến,
không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trải qua chiến tranh lâu dài và ác liệt, tàn phá mọi
nguồn lực tiềm năng của đất nước, trình độ của lực lượng sản xuất thấp kém, không
đồng đều giữa các ngành, các vùng và các doanh nghiệp. Chính sự phát triển khơng
đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết về hình thức, quy mơ và quan hệ sở hữu
phù hợp với nó, nghĩa là những quan hệ sản xuất khác nhau. Tương ứng với nó sẽ có
nhiều thành phần kinh tế.
Thứ ba: Do tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài của cơng cuộc cải biến quan hệ sản
xuất cũ; xây dựng, củng cố và hồn thiện quan hệ sản xuất mới địi hỏi.Thật vậy, khi
giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, đã tiếp quản nền
kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Có hai loại tư hữu: Tư hữu
lớn các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, doanh nghiệp ... của các chủ tư bản trong và ngồi
nước – đó là kinh tế tư bản chủ nghĩa và tư hữu nhỏ của nông dân cá thể, thợ thủ công
cá thể, những người bn bán nhỏ - đó là sản xuất nhỏ cá thể. Quan niệm và thái độ
của chính quyền mới đối với hai hình thức sở hữu trên về tư liệu sản xuất là khác
nhau: Đối với tư hữu lớn, lý luận về quốc hữu hoá của chủ nghiã Mác-Lênin khẳng
định khơng nên quốc hữu hố ngay một lúc mà được tiến hành từ từ theo từng giai
đoạn và bằng hình thức và phương pháp nào là tuỳ điều kiện cụ thể, nên việc những
doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa còn tồn tại là tất yếu kinh tế.
Bộ phận tư bản được cải tạo hồ bình, theo con đường tư bản nhà nước sẽ hình thành
thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Cịn những bộ phận tư bản bị quốc hữu hố tồn
bộ sẽ hình thành các doanh nghiệp nhà nước.Đối với tư hữu nhỏ thì chỉ có thơng qua
con đường hợp tác hố, theo các ngun tắc: tự nguyện, bình đẳng, dân chủ và cùng có
lợi, đồng thời tuân theo các quy luật khách quan. Nhà nước đã thuyết phục những
người sản xuất nhỏ vào làm ăn tập thể vì vậy hình thành thành phần kinh tế tập thể.
Tuy nhiên cịn có một số chưa tham gia thì phải kiên trì thuyết phục, chờ đợi họ. Do
đó trong thời kỳ quá độ còn tồn tại thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ.

2


TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Thứ tư: Trong thời kỳ quá độ, các thành phần kinh tế cũ do lịch sử để lại vẫn còn có
vai trị, tác dụng tích cực để phát triển sản xuất như: giải quyết việc làm cho người lao
động, duy trì và phát triển ngành nghề truyền thống, tăng thu nhập cho người dân,
nâng cao đời sống... Do đó phải để cho kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân
tồn tại, hơn nữa phải tạo điều kiện, mơi trường cho nó tồn tại và phát triển. Nhận thức
và hành động như vậy mới phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với lợi ích kinh
tế của các giai tầng trong xã hội, góp phần ổn định sản xuất và đời sống.
Thứ năm: Do yêu cầu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi: Để tăng trưởng và
phát triển kinh tế, củng cố và phát triển hệ thống chính trị, xã hội, nhà nước phải xây
dựng hệ thống cơ sở kinh tế mới, cùng với kết quả của q trình quốc hữu hố, hình
thành thành phần kinh tế nhà nước, đây là bộ phận giữ vai trò chủ đạo, là nền tảng
thực sự của nền kinh tế quốc dân.
Thứ sáu: Do đòi hỏi của q trình tồn cầu hố kinh tế, chúng ta phải tham gia vào
phân công lao động và hợp tác quốc tế, phải có chính sách mở cửa nền kinh tế, phải
thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực nhất là về kinh tế để kết
hợp sức mạnh trong nước với ngoài nước, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.Với
yêu cầu trên, Đảng ta có phương châm: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy
của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển.
Chúng ta đã thực hiện đa phương hoá quan hệ kinh tế, đa dạng hố các hình thức quan
hệ quốc tế, thông qua hợp tác và đầu tư nước ngoài đã liên doanh, liên kết với kinh tế
tư bản ngoài nước nên xuất hiện thành phần kinh tế mới: kinh tế tư bản nhà nước, và
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
2. Cơ sở thực tiễn

2.1. Bối cảnh quốc tế
Công cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc diễn ra theo hướng thị trường mở cửa bắt

đầu diễn ra từ năm 1978. Những thành tựu cải cách nổi bật mà Trung Quốc thu được
đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam quan tâm do có sự tương đồng nhiều mặt.
Mặt khác, sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã đưa đến bài học
về con đường cải tổ theo kiểu “phủ định sạch trơn”, giải quyết không đúng mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị trong q trình cải tổ.
Ngồi ra, thành công của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật trên thế giới đã đưa ra
những giải pháp quan trọng, thể hiện sự phát triển vượt bậc để đưa ra những giải pháp
quan trọng, thể hiện sự phát triển vượt bậc để đưa các nước vốn xuất phát từ những

3

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


nước nông nghiệp lạc hậu trở nên phát triển. Cụ thể đó chính là sự phát huy sức mạnh
nội lực, mở cửa thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút vốn đầu tưu nước ngoài.
Xu hướng hợp tác và cạnh tranh trên thế giới đang từng bước thay thế xu hướng xung
đột và đối đầu buộc các quốc gia phải thay đổi góc nhìn, mở rộng quan hệ hợp tác
cùng phát triển.
2.2. Bối cảnh Việt Nam
Như lý luận đã khẳng định ở trên, sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng kinh
tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là tất yếu khách quan. Nhưng trong thực
tiễn, do nhận thức sai lầm, ý chí chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn, chúng ta đã
chủ trương sớm xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần bằng làn sóng quốc doanh hố,
tập thể hố do việc thực hiện mơ hình chế độ sở hữu tồn dân và cơ chế kế hoạch hóa
tập trung đã mang lại những kết quả to lớn không thể phủ nhận. Chúng ta đã vội vàng
xoá bỏ một số thành phần kinh tế: kinh tế tư bản tư nhân, cá thể, tiểu chủ dẫn đến hậu
quả tiêu cực cho nền kinh tế khi thời cuộc đổi thay: làm mất động lực kinh tế, các tiềm
năng của đất nước không được khai thác hiệu quả, lực lượng sản xuất xã hội bị lãng
phí một cách nghiêm trọng, kìm hãm sự phát triển kinh tế hàng hoá, đời sống nhân dân

gặp nhiều khó khăn... Chủ trương trên là trái với quy luật khách quan, trái với lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả
những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn
chưa phát triển và những quan hệ sản xuất mới cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện
trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong
lịng bản thân xã hội cũ”. Để sửa chữa và khắc phục những sai lầm trong quá khứ,
chúng ta phải nhận thức lại và hành động ngay bằng việc đổi mới cơ chế, chính sách,
pháp luật và các biện pháp nhằm tạo điều kiện, môi trường, khuyến khích mọi thành
phần kinh tế phát triển, khơng phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế.
Thực tiễn gần 20 năm đổi mới, chúng ta không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan
nhiều thành phần kinh tế mà cịn thực hiện nhất qn, lâu dài chính sách kinh tế nhiều
thành phần và đã đem lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế: Lực lượng sản xuất đã phát
triển nhanh chóng, các tiềm năng, nguồn lực, thế mạnh của các thành phần kinh tế
như: vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, điều hành kinh tế, giải quyết thất nghiệp...
được khai thức và phát huy mạnh mẽ cho phát triển kinh tế; Khơi dậy động lực kinh tế
cho quá trình phát triển: người lao động được tự chủ trong lao động, các doanh nghiệp
được tự do tìm kiếm cơ hội đầu tư, môi trường cạnh tranh được thiết lập, khắc phục
được tình trạng độc quyền tạo cơ sở để phát triển mạnh kinh tế thị trường; các thành
phần kinh tế cũ vừa sử dụng có hiệu quả, vừa cải biến một cách tốt nhất...

4

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


3. Chủ trương thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần
3.1. Nền kinh tế hai thành phần trước năm 1986 (nền kinh tế bao cấp)
Vì vừa thốt khỏi chiến tranh với những hậu quả nặng nề của một nước thuần nơng,
nước ta gặp nhiều khó khăn sau thời kì hậu chiến tranh, xây dựng đất nước. Nước ta
học theo mô hình xã hội chủ nghĩa của Liên Xơ với nền kinh tế tập trung, kế hoạch

hóa. Do đó, kinh tế - xã hội của nước ta khơng dễ gì có thể nhanh chóng thốt khỏi
nghèo khó, khó khăn. Do đó, thời kì bao cấp là giai đoạn mà tồn dân đang cố gắng
vượt qua những điều kiện khó khăn, thiếu thốn của thực tại và tìm hướng đi để phát
triển đất nước tốt hơn.
Hầu hết người lao động làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp của nhà nước và
sống theo chế độ tem phiếu của thời kì này.
Theo đó, cơ chế quản lý kinh tế của nước ta chính là cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
thể hiện qua những khía cạnh như:
Nền kinh tế do nhà nước quản lý hành chính dựa trên chỉ tiêu pháp lệnh từ trên
xuống dưới. Theo đó, doanh nghiệp hoạt động theo quyết định của cơ quan nhà nước
liên quan với các pháp lệnh theo quy định từ vật liệu cung cấp, hình thức sản xuất,
tiền vốn, sản phẩm cùng tổ chức nhân sự, tiền lương và bộ máy hoạt động… Các
doanh nghiệp sẽ có chỉ tiêu cần đạt theo kế hoạch cấp vốn của nhà nước, giao nộp
sản phẩm. Lỗ lãi sẽ do nhà nước quản lý.
 Doanh nghiệp được các cơ quan hành chính liên quan tham gia nhiều vào việc
kinh doanh, sản xuất nhưng không phải chịu trách nhiệm về lãi lỗ và pháp lý đối với
các quyết định của mình. Ngân sách nhà nước sẽ là cơ quan thu lãi và lỗ cho các hoạt
động của doanh nghiệp.
 Quan hệ tiền tệ – hàng hóa khơng được coi trọng và hầu như chỉ là hình thức.
Trong đó, quan hệ hiện vật chiếm vị thế chủ đạo. Nền kinh tế sẽ được nhà nước quản
lý theo chế độ “cấp phát – giao nộp”. Do đó, sức lao động, tư liệu sản xuất hay phát
minh sáng chế không được coi là hàng hóa trên pháp luật.
 Bộ máy quản lý qua nhiều cấp từ trung ương tới địa phương. Do có nhiều cấp


trung gian nên hoạt động không năng động, kịp thời, thậm chí dẫn tới nhiều tiêu cực
ảnh hưởng tới quyền lợi của người lao động, người dân.
Do nền kinh tế nhiều thành phần không được thừa nhận mà chỉ có kinh tế quốc doanh
và tập thể là chủ đạo để tiến hành xóa bỏ kinh tế tư nhân, cá thể và sở hữu tư nhân
khỏi xã hội. Do đó, kinh tế Việt Nam thời kì này lâm vào tình trạng khủng hoảng, trì

trệ với nhiều tiêu cực. Kinh tế phát triển theo chiều rộng, phù hợp với mục tiêu chủ

5

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


yếu theo từng giai đoạn nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học –
cơng nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế, khơng kích thích tính năng động, sáng tạo của
các doanh nghiệp, xí nghiệp sản xuất, kinh doanh, đời sống người dân gặp nhiều khó
khăn, thiếu thốn về ăn mặc, về cuộc sống vật chất và tinh thần trong khi kinh tế thế
giới đang dần phát triển tập trung về chiều sâu, đẩy mạnh cách mạng khoa học.
Thời kì bao cấp kéo dài trong 10 năm từ 1976 – 1986 trước khi thực hiện Đổi mới.
Nước ta đã thực hiện 2 kế hoạch 5 năm trong giai đoạn này bao gồm: Kế hoạch 5 năm
lần thứ 2 (1976 – 1980) và kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1981 – 1986). Theo quan điểm
của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa mơ hình Liên Xơ, kinh tế kế hoạch hóa là điểm nổi
bật quan trọng nhất với kế hoạch phân bổ mọi nguồn lực, không thừa nhận cơ chế thị
trường và sản xuất hàng hóa, xem kinh tế thị trường là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản.
3.2. Nội dung đổi mới quan điểm chính sách kinh tế tại Đại hôi VI năm
1986
Đại hội VI của Đảng năm 1986 với đường lối đổi mới toàn diện đất nước đã đáp ứng
những yêu cầu bức thiết để đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội, xác định nhiệm vụ đổi mới là vấn đề có ý nghĩa sống cịn của cách mạng. Đảng
thẳng thắn thừa nhận “những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính
sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện... đặc biệt là những sai
lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản
đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan”. Theo đó, trong đường lối kinh tế,
Đảng đã đề ra chính sách kinh tế nhiều thành phần “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Cùng với chính sách kinh tế nhiều
thành phần, Đại hội VI còn chủ trương bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lại cơ cấu

đầu tư, tập trung thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lượng thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Các chương trình đó là sự cụ thể hố nội
dung chính của cơng nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu.
Về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI cho rằng, việc bố trí lại cơ cấu kinh tế
phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao
cấp từ nhiều năm nay đã không tạo được động lực phát triển làm suy yếu nền kinh tế,
kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân
phối lưu thông và sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Phong cách quản lý
quan liêu, cửa quyền tư duy mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí. Vì vậy, phương
hướng đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã được khẳng định là xoá bỏ tập trung quan
liêu, bao cấp xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ
phát triển của nền kinh tế. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế

6

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, theo nguyên tắc
tập trung dân chủ chú trọng tính kế hoạch sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng
hoá - tiền tệ, các đơn vị sản xuất có quyền tự chủ sản xuất - kinh doanh tự chủ về tài
chính, sử dụng tốt các địn bẩy kinh tế. Thêm vào đó, Đại hội VI nhấn mạnh sự cần
thiết phải “Cơng bố chính sách khuyến khích nước ngồi đầu tư vào nước ta dưới
nhiều hình thức, nhất là đói với các ngành và cơ sở địi hỏi kĩ thuật cao, làm hang xuất
khẩu. Đi đôi với việc cơng bố luật đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp tạo điều
kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh”.
3.3. Nền kinh tế nhiều thành phần sau năm 1986
 Nhu cầu đổi mới cơ chế quản lí kinh tế
Thứ nhất, do những thành công ban đầu và những hạn chế của quá trình đổi mới từng
phần. Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thốt khỏi khủng hoảng kinh tế - xã

hội, Đảng và Chính phủ đã có những đổi mới trong chính sách quản lý kinh tế để
hướng tới nền kinh tế thị trường. Đó là chính sách khốn sản phẩm trong nơng nghiệp
theo chỉ thị 100 – CT/TW của Ban Bí thư Trung ương khóa IV (1981); nghị định 25 và
nghị định 26 – CP của Chính phủ về quản lý cơng nghiệp (1981); bù giá vào lương ở
Long An; nghị quyết TW8 khóa V (1985) về cuộc tổng điều chỉnh giá – lương – tiền…
Những chính sách mới đó bước đầu đã mang lại những căn cứ để Đảng nhận thấy rằng
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là đúng hướng, là thiết thực.
Tuy nhiên, đó chỉ mới là những đổi mới từng phần có tính chất chắp vá trong phạm vi
của cơ chế cũ, sự đổi mới chưa toàn diện, triệt để nên nền kinh tế của chúng ta vẫn còn
rất nhiều khó khan. Từ đó, Đảng thấy rằng đổi mới từng phần là chưa đủ, cần phải đổi
mới một cách quyết liệt, triệt để hơn bằng việc thay đổi hoàn toàn cơ chế quản lý kinh
tế.
Thứ hai, do Đảng đã nhận thức được sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế.
Đề cập đến điều này, Đại hội VI (12/1986) khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế
phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan lieu, bao
cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội
chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản
xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông
và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”. Vì lí do đó, nhu cầu cấp bách và cần
thiết ngay lúc bấy giờ là việc phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nước ta.
 Nhận thức về nền kinh tế thị trường của Đảng

7

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 6 (khóa VI) (3/1989) đã phát triển thêm một
bước nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khi đưa ra quan
điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa

xã hội, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính chất
quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ đó, các khái niệm, phạm trù của kinh
tế hàng hóa, kinh tế thị trường như: cung - cầu, thị trường, giá cả,...

bắt đầu được phổ biến rộng rãi. Đặc biệt, tại hội nghị này, đã khẳng định: Trong nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thị trường xã hội là một thể thống nhất, thông suốt
trong cả nước và gắn với thị trường thế giới với nhiều lực lượng khác nhau tham gia
lưu thông hàng hoá. Đồng thời, nhấn mạnh “Thị trường tác động đến q trình tái sản
xuất chủ yếu thơng qua giá cả. Trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh, người sản xuất,
người lưu thông và người tiêu dùng chủ động mua bán, thỏa thuận với nhau về giá,
hình thành nên giá thị trường... Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ phải phù hợp
với giá thị trường trong nước và giá thị trường quốc tế”. Như vậy, nhận thức của Đảng
về việc cần hình thành một thị trường hàng hóa là điều cần thiết, việc này đã đánh dấu
bước phát triển vượt bậc về mặt tư duy của Đảng so với Đại hội VI. Sau Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ sáu (khóa VI), cơ chế hai giá bị xóa bỏ, thay vào đó là
cơ chế một giá thống nhất trên toàn quốc, kể cả giá của một số mặt hàng do Nhà nước
cần kiểm soát (xăng dầu, điện, nước, cước phí giao thơng...) cũng căn cứ theo thị
trường, không được ấn định chủ quan, tùy tiện. Từ tháng 3 - 1989, Nhà nước quyết
định chuyển toàn bộ lương thực và 80% vật tư sang kinh doanh.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6 - 1991), Đảng có bước tiến mạnh
mẽ khi đề cập đến việc phát triển các loại thị trường như tài chính - tiền tệ và thị
trường lao động. Tuy nhiên chưa đề cập đến thị trường đất đai - bất động sản và thị
trường khoa học và công nghệ. Đồng thời, Đảng đã chỉ rõ, Việt Nam cần “đa dạng hóa
và đa phương hóa quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên
tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi”. Quan điểm này đã đặt nền
móng vững chắc cho quá trình Việt Nam phát triển quan hệ với các quốc gia và vùng
lãnh thổ trên thế giới một cách linh hoạt. Tiếp tục mạnh tư duy đổi mới, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII (6/1996) của Đảng khẳng định sự cần thiết phải xây dựng
nền kinh tế hàng hóa “Sản xuất hàng hóa khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là
thành tựu phát triển chung của văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”.
Như vậy, Đảng đã khẳng định nền kinh tế hàng hóa cịn tồn tại lâu dài ở Việt Nam, mơ
hình phát triển kinh tế hàng hóa là quan điểm lâu dài và nhất qn của Đảng, nó khơng
phải là quan điểm nhất thời, hay là chỉ tồn tại do ý muốn chủ quan. Các thành phần

8

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


kinh tế được cụ thể hóa vai trị, vị trí trong nền kinh tế quốc dân, yếu tố thị trường bắt
đầu được đề cao bên cạnh vai trò của nhà nước. Tuy nhiên, sự thay đổi về lý luận nhận
thức chưa có bước đột phá, tư duy lý luận vẫn cịn trói buộc bởi quan niệm kinh tế tư
nhân phát triển sẽ dễ dẫn đến đất nước chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế Việt
Nam trong giai đoạn 1986 - 2000 vẫn còn một số hạn chế: tốc độ tăng trưởng kinh tế
còn thấp so với tiềm năng, cơ chế quản lý kinh tế chưa thực sự theo cơ chế thị trường,
tốc độ hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam còn chậm,... Những điều này đòi hỏi
Đảng phải thực sự có bước đột phá trong tư duy về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,
mạnh dạn xóa bỏ những yếu tố bao cấp trong cách quản lý kinh tế, để giúp nền kinh tế
Việt Nam có sự phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Mơ hình nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được làm sáng rõ hơn tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX (2001) Đại hội đã tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, 15 năm đổi mới, 10 năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội; rút ra
những bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới. Từ đó, phát triển và hồn thiện
đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
Đối với việc phát triển nền kinh tế, Đại hội đã lần đầu tiên sử dụng khái niệm “nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, coi đây là mơ hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, trong đó xác định:
Về mục đích, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng để
phục vụ cho đại đa số nhân dân, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công

bằng, văn minh”. Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường sẽ thực hiện cởi trói
sản xuất, mọi người dân đều có cơ hội trong việc phát huy năng lực bản thân, được
làm những gì mà pháp luật khơng cấm, có điều kiện phát triển toàn diện bản thân.
Về chế độ sở hữu, cơ cấu thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa chế độ công hữu sẽ “từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt
đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản”. Tuy nhiên, quá trình xây
dựng chế độ cơng hữu khơng được nóng vội, chủ quan mà được thực hiện từng bước
đi vững chắc, với tiêu chí cơ bản để đánh giá là “thúc đẩy phát triển lực lượng sản
xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội”. Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Đảng xác định rõ hơn vai trị, vị trí của
các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế nhà nước “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc”. So với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội IX của Đảng đã mở
rộng thêm một thành phần kinh tế, đưa tổng số lên 6 thành phần: kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước

9

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Với những định hướng quan trọng trong xác định
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần sẽ tạo đà đưa kinh tế đất nước phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, dưới sự dẫn dắt của thành phần kinh tế nhà nước và tập
thể.
Về phát triển các loại thị trường, Đảng chủ trương phát triển đồng bộ các loại thị
trường đã được khẳng định dứt khoát và rõ ràng hơn. Đặc biệt, Đại hội đã đề cập đến
việc phát triển các thị trường cụ thể như: thị trường lao động, thị trường khoa học và
cơng nghệ. Đảng nêu rõ “hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại

thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế, để thị trường hoạt động
năng động có hiệu quả, có kỷ luật, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh,
công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm sốt độc quyền kinh doanh”.
Về vai trị của Nhà nước trong quản lý kinh tế và xây dựng hệ thống pháp luật, Nhà
nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách,
sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của
kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích
cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân
dân lao động, của tồn thể nhân dân. Trong hoạt động quản lý nền kinh tế, nhà nước sẽ
“tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị trường, tạo điều kiện
mặt tích cực đồng thời khắc phục, hạn chế những tác động tiêu cực của thị trường”.
Đây là một bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng về xây dựng đường lối
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa kinh tế thị trường từ chỗ
coi như công cụ, một cơ chế quản lý hỗ trợ cho kinh tế kế hoạch sang coi kinh tế thị
trường thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế để đất nước phát triển theo con
đường xã hội chủ nghĩa.
Về chế độ phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân
phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi
xã hội. Đại hội lần này đã bổ sung phân phối theo “mức đóng góp vốn và các nguồn
lực khác vào sản xuất”. Và đây có thể nói là một bước đột phá.
Về hội nhập kinh tế quốc tế, trong bối cảnh tồn cầu hóa và khu vực hóa trở thành một
xu thế khi các quốc gia ngày càng gắn kết với nhau trong quá trình phát triển, sự phân
cơng lao động trên bình diện quốc tế ngày càng sâu sắc, Đảng đề ra nhiệm vụ “tiếp tục
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp
 Các thành phần kinh tế

10


TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Qua thực tiễn của 20 năm đổi mới, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã
xác định nền kinh tế nước ta có năm thành phần. Đó là: Kinh tế nhà nước, Kinh tế tập
thể, Kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), Kinh tế tư bản nhà nước, Kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Kinh tế nhà nước: Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu toàn
dân về tư liệu sản xuất. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, ngân
hàng nhà nước, ngân sách nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà
nước và các tài nguyên quốc gia, các tài sản khác thuộc sở hữu nhà nước có thể dựa
vào vịng chu chuyển kinh tế.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Vai trị đó được thể hiện nhu sau: Một là, doanh nghiệp nhà nước giữ những
vị trí then chốt ở những ngành, lĩnh vực kinh tế và địa bàn quan trọng của đất nước,
các doanh nghiệp nhà nước đi đầu trong ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ,
nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả kinh tế và chấp hành pháp luật. Hai
là, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để Nhà nước thực
hiện chức năng điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
nó mở đường, hướng dẫn hỗ trợ và lôi cuốn các thành phần kinh tế khác cùng phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, xã hội và chấp
hành pháp luật.
Kinh tế tập thể: Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà nòng cốt là
hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể; liên kết rộng rãi
những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa
thuộc các thành phần kinh tế, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn (trừ một số
lĩnh vực có quy định riêng); phân phối theo lao động, theo vốn góp và mức độ tham
gia dịch vụ; hoạt động theo các nguyên tắc: hợp tác tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và
cơng khai; tự chủ tự phát triển cộng đồng. Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính,

bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội
của các thành viên, góp phần xố đói, giảm nghèo; tiến lên làm giàu cho các thành
viên, phát triển cộng đồng. Đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể phải trên cơ sở quan điểm
toàn diện, cả kinh tế - chính trị - xã hội, cả hiệu quả của tập thể và của các thành viên.
Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực, vững chắc, xuất phát từ nhu cầu
thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản xuất. Nhà
nước giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng thị
trường, xây dựng quỹ hỗ trợ hợp tác xã, chịu trách nhiệm và cùng có lợi.

11

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


Kinh tế tư nhân: Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng trong thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, cơng nghiệp hố, hiện đại hoá,
nâng cao nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. “Kinh tế tư nhân có vai
trị quan trọng , là một trong những động lực của nền kinh tế”. Thành phần kinh tế tư
nhân bao gồm kinh tế cá thể , tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
 Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về

tư liệu sản xuất. Sự khác nhau giữa kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ ở chỗ: trong
kinh tế cá thể nguồn thu nhập hoàn toàn dựa vào lao động và vốn của bản thân và
gia đình, cịn trong kinh tế tiểu chủ, tuy nguồn thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào lao
động và vốn của bản thân và gia đình, nhưng có th lao động. ở nước ta do trình
độ lực lượng sản xuất cịn thấp, kinh tế cá thể, tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu
dài trong nhiều ngành nghề và ở khắp các địa bàn cả nước.

 Kinh tế tư bản tư nhân: Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Trong thời kỳ
quá độ ở nước ta, thành phần này cịn có vai trị đáng kể để phát triển lực lương
cản xuất xã hội hóa sản xuất khai thác các nguồn vốn, giải quyết việc làm và góp
phần giải quyết các vấn đề xã hội khác. Kinh tế tư bản tư nhân rất năng động,
nhạy bén với kinh tế thị trường, do đó sẽ có những đóng góp khơng nhỏ trong quá
trình tăng trưởng kinh tế của đất nước, tuy nhiên, kinh tế tư bản tư nhân có tính tự
phát rất cao.
Kinh tế tư bản nhà nước: Kinh tế tư bản nhà nước dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp
về vốn giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước
dưới các hình thức hợp tác liên doanh. Kinh tế tư bản nhà nước có khả năng to lớn
trong việc huy động vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý tiên tiến vì lợi ích của
bản thân kinh tế tư bản tư nhân và phát triển kinh tế của đất nước. Thành phần kinh tế
này có vai trị đáng kể trong giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế. Sự tồn tại
thành phần kinh tế này là rất cần thiết, cần phát triển mạnh mẽ nó trong thời kỳ quá độ
ở nước ta.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi: Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi có vai trò quan
trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của nước ta thông qua bổ sung nguồn vốn đầu
tư, chuyển giao và phát triển công nghệ, nâng cao năng lực quản lý, tạo việc làm. Kinh
tế có vốn đầu tư nước ngồi góp phần rất lớn vào tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ

12

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố và thúc đẩy tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
4. Sự vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành


phần của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế nước
ta hiện nay
Trong thời kì nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đổi mới, mở cửa thị trường, tái cơ
cấu kinh tế nhiều lần, có những thành phần kinh tế mới được bổ sung hay tách ra từ
những thành phần kinh tế cũ để phù hợp hơn với sự phát triển của mọi mặt trong lĩnh
vực kinh tế. Tuy nhiên có thể thấy việc thay đổi lại cơ cấu kinh tế, tái tạo lại bộ máy
nhà nước trong thời kì quá độ và đi theo định hướng kinh tế thị trường, kinh tế nhiều
thành phần mang lại những hiệu quả to lớn, thay đổi cục bộ nền kinh tế của đất nước
ta. Chính sách Chủ tịch hồ Chí Minh chỉ ra với kinh tế quốc doanh là cần phải phát
triển thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và
thúc đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Điều này được Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp
tục phát huy và lấy làm cơ sở phát triển cho cả tư duy lãnh đạo sau này. Cụ thể hiện
nay, kinh tế quốc doanh ngày càng thể hiện được rõ vai trị điều tiết nền kinh tế của
mình, đồng thời tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác ở Việt Nam có cơ hội
phát triển và mơi trường cạnh tranh ngày càng trong sạch, lành mạnh hơn. Đối với
hình thái kinh tế hợp tác xã, chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Nhà nước cần đặc
biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nó phát triển. Hiện nay, thành phần kinh tế
hợp tác xã đang được cải thiện cả về cách thức lẫn phương thức hoạt động để có thể
phù hợp hơn với cơ chế thị trường cũng như gia tăng sức sản xuất. Đồng thời, thành
phần kinh tế này cũng được kết hợp liên doanh với nhiều thành phần kinh tế khác, tạo
nên sự phát triển đồng đều, hài hòa, bền vững. Với kinh tế cá thể của những người làm
nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản
xuất của họ, đồng thời giúp đỡ họ cải tiến các phương thức, các tư liệu sản xuất, cải
tiến cơng nghệ, khuyến khích những tiểu chủ đầu tư vào cơ sở vật chất. Bên cạnh đó,
có thể kết hợp kinh tế cá thể với thành phần kinh tế hợp tác xã để có thể tận dụng được
các nguồn vốn trong xã hội, tạo công ăn việc làm, giải quyết được các nhu cầu việc
làm, huy động các nguồn lực rảnh rỗi trong nhân dân. Với các nhà tư sản, đây là thành
phần kinh tế được đặc biệt quan tâm vì tầm quan trọng của họ trong việc tạo ra phần
lớn của cải trong xã hội, giúp nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại. Các
lĩnh vực có tiềm năng phát triển vẫn đang được tiếp tục đầu tư và thúc đẩy, tạo điều

kiện phát triển. Đồng thời, Nhà nước cũng bổ sung các cơ chế, chính sách mới với
mục đích khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân gia tăng sản xuất và đầu tư. Việc
khuyến khích cả doanh nghiệp tư nhân sản suất đã tạo nên những tăng trưởng lớn đối

13

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


với nền kinh tế đất nước. Cùng với sự tăng trưởng của các thành phần kinh tế trên,
kinh tế tư bản của nhà nước cũng có những thay đổi đáng kể. Lý luận của Chủ tịch Hồ
Chí Minh được Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng, kế thừa và phát triển để phù hợp
hơn với nền kinh tế hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy đây là thành
phần kinh tế có tiềm năng lớn về vốn, công nghệ, nhân lực và đang ngày càng được
chú trọng phát triển. Đặc biệt việc kết hợp liên doanh với các doanh nghiệp tư nhân, tư
nhân nước ngoài tạo nên những sự tiến bộ vượt bậc của nền kinh tế nước ta hiện nay.
Bằng việc góp vốn đầu tư, Nhà nước có thể tạo ra các khoản thu chính phủ ngồi các
khoản thu vẫn thường có, việc này giúp tận dụng tối đa nguồn tiền dự trữ khi cần tới,
nguồn vốn cũng được khai thác triệt để, củng cố lại bộ máy rà sốt, hạn chế bớt tình
trạng tham nhũng, từ đó góp phần phát huy được tiềm năng to lớn của các doanh
nghiệp tư nhân và nhà nước.
C. KẾT LUẬN
Việt Nam sau hơn 30 năm đổi mới đi theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã
đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Có thể
thấy q trình q độ gián tiếp lên xã hội xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu và bền
bỉ . Từ một nước đói nghèo, chịu tàn phá nặng nề của chiến tranh cùng với xuất phát
điểm là nước nông nghiệp lạc hậu, tư duy kinh tế thuần nông, Việt Nam đã trở thành
nước có thu nhập trung bình cùng những tiềm năng phát triển to lớn. Các cấu trúc kinh
tế qua thời gian được thay đổi linh hoạt để phù hợp với thời kì hội nhập, với nền kinh
tế mở, kinh tế đa quốc gia. Nhờ mở cửa, hội nhập thành cơng, Việt Nam đã có thêm

những cơ hội, những nguồn lực kinh tế mạnh mẽ hơn, hứa hẹn sẽ mang lại sự phát
triển vượt bậc trong tương lai.

14

TIEU LUAN MOI download : moi nhat


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Bộ giáo dục và đạo tạo.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.
CTQG, HN 2001.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
CTQG, HN 2006.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
CTQG, HN 2011.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII,
Văn phịng TW Đảng, HN 2016.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.12.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.10.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t.8.
Hơ Chi Minh: Tồn tập, Nxb. Chinh tri quôc gia - Sư thât, H, 2011, t.6.

TIEU LUAN MOI download : moi nhat



×