Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Tìm hiểu con đường chi viện của miền bắc cho miền nam trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước (1954 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (609.76 KB, 37 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
----🙣🙣🙣----

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN HỌC PHẦN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Tìm hiểu con đường chi viện của miền Bắc cho miền Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)

Thực hiện: Nhóm 1
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Lan Phương
Mã lớp học phần: 21116HCMI0131

HÀ NỘI - 2021


BẢNG PHÂN CÔNG

HỌ VÀ TÊN

STT

CÔNG VIỆC THAM GIA

1

Nguyễn Thùy An

Nội dung (1.2)


2

Âu Quỳnh Anh

Nội dung (III)

3

Bùi Thị Ngọc Anh

Nội dung (2.2)

4

Chử Thị Lan Anh

Nội dung (2.1)

5

Lại Vân Anh

Nội dung (2.2)

6

Nguyễn Hoàng Ngọc Anh

Nội dung (2.4)


7

Nguyễn Thị Lan Anh

Nội dung (2.3)

8

Nguyễn Việt Anh

Nội dung (2.5)

9

Trần Thị Vân Anh

Nội dung (2.3)

10

Trần Vân Anh

Nội dung (2.5)

11

Trịnh Thị Mai Anh

Nội dung (1.1) + Word


12

Nguyễn Minh Ánh

Nội dung (1.1) + PowerPoint

13

Nguyễn Ngọc Ánh

Nội dung (III)

14

Hoàng Thị Bình

Nội dung (2.4)

15

Nguyễn Minh Châu

Nội dung (2.1)

NHẬN XÉT

Nhóm trưởng
Nguyễn Việt Anh

MỤC LỤC

I.

5

2


1.1 5

II.

a) Nguyên nhân cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

5

b) Tình hình cách mạng miền Nam trước khi xuất hiện con đường chi viện

5

1.2. Chủ trương hình thành con đường chi viện miền Nam

7

7
2.1. Đường bộ

7

a) Hoàn cảnh và quá trình hình thành


7

b) Quá trình hoạt động

9

c) Đánh giá

12

2.2. Đường thủy

13

a) Hồn cảnh và q trình hình thành

13

b) Q trình hoạt động

13

c) Đánh giá

15

2.3. Đường ống xăng dầu

17


a) Hồn cảnh và quá trình hình thành

17

b. Quá trình hoạt động

18

c) Đánh giá

19

2.4. Đường hàng khơng

20

a) Hồn cảnh và q trình hình thành

20

b) Quá trình hoạt động

21

c) Đánh giá

22

2.5. Đường tài chính, chuyển ngân


23

a) Hồn cảnh và q trình hình thành

23

b) Quá trình hoạt động

24

c) Đánh giá

27

III. Kết quả chung và ý nghĩa của các con đường chi viện

28

3.1. Kết quả của con đường chi viện của miền Bắc cho miền Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ
28
3.2. Ý nghĩa của các con đường chi viện
IV. Bài học kinh nghiệm từ con đường chi viện

30
32

3



LỜI MỞ ĐẦU

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta, công tác chi viện
sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc vào tiền tuyến miền Nam giữ vai trị hết
sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định nhất đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.
Khi nói đến hệ thống chi viện chiến lược, huyền thoại cho cuộc chiến tranh giải phóng
miền Nam người ta thường nghĩ đến: con đường thứ nhất, đường Trường Sơn - đường
Hồ Chí Minh trên bộ; con đường thứ hai, con đường xăng dầu; con đường thứ ba, con
đường Hồ Chí Minh trên biển; con đường thứ tư, con đường hàng không; và con
đường thứ năm là một con đường vơ hình, khơng có lối, khơng có đường, con đường
chỉ có ai đi qua rồi mới biết, con đường tài chính - chuyển ngân. Cùng với tuyến
đường chi viện chiến lược - đường Hồ Chí Minh trên bộ nổi tiếng thế giới, dân tộc ta
còn lập một kỳ tích nữa trong lịch sử, đó là tuyến chi viện chiến lược - đường Hồ Chí
Minh trên biển. Đây là một kỳ tích có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng mà người đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; là biểu hiện
của ý chí sắt đá, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của tồn Đảng,
tồn dân, tồn qn ta.
Những đóng góp hiệu quả của tuyến chi viện miền Bắc cho miền Nam đã góp phần
xứng đáng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc,
vượt lên những tính tốn thơng thường về chiến tranh của chính quyền Mỹ - ngụy, để
lại nhiều bài học kinh nghiệm q giá cho hơm nay và mai sau.
Nhóm chúng em làm đề tài: “Tìm hiểu con đường chi viện của miền Bắc cho miền
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)” để làm đề tài thảo
luận nhằm hiểu rõ hơn vai trò to lớn mang tính lịch sử ấy và xác định tầm quan trọng
của chiến lược này. Qua nghiên cứu đề tài, nhóm chúng em sẽ có thêm những bài học
quý giá và thêm lịng tự hào tự tơn dân tộc, u tổ quốc và hết mình nỗ lực trong thời
đại ngày nay để góp phần nhỏ bé trong cơng cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

NỘI DUNG


4


I. Hoàn cảnh lịch sử và chủ trương con đường chi viện:
I.1 Hoàn cảnh lịch sử:
a) Nguyên nhân cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước:
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ (Genève) được ký kết. Cuộc
chiến tranh kết thúc, hịa bình lặp lại ở Việt Nam và trên bán đảo Đông Dương. Quân
Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta được hồn tồn giải phóng. Theo hiệp định
Genève, sau hai năm sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng đế quốc Mỹ
không thực hiện, với ý đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra,
nhảy vào tổ chức, chỉ huy ngụy quyền, ngụy quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự,
biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Từ năm 1955, đế
quốc Mỹ xây dựng nên chính quyền Ngơ Đình Diệm để thực hiện chủ nghĩa thực dân
mới trên đất nước ta, chia cắt đất nước ta lâu dài. Bấy giờ cả dân tộc ta lại bước vào
chiến đấu xâm lược.
Lúc đó, Mỹ và chính quyền Ngơ Đình Diệm do Mỹ dựng lên ra sức phá hoại hiệp
định Genève 1954 về Việt Nam, thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng” đánh phá
điên cuồng, giết hại, giam cầm hơn nửa triệu cán bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước,
đàn áp dã man phong trào đấu tranh của nhân dân đòi thi hành hiệp định Genève và
thực hiện tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước cùng chính quyền dân sinh, dân
chủ. Chỉ trong 4 năm (1955 - 1958), 9/10 cán bộ đảng viên của ta bị địch bắt giết, tù
đày, nhiều huyện khơng cịn cơ sở Đảng. Ở Nam Bộ, khoảng 7 vạn cán bộ ta bị giết,
gần 90 vạn nhân dân, cán bộ bị bắt, bị tù đày, gần 20 vạn bị tra tấn thành tàn tật, chỉ
còn khoảng 5000 so với 60000 trước đó. Cách mạng miền Nam phải chịu những tổn
thất nặng nề và lâm vào tình thế rất hiểm nghèo.
Đứng trước chính sách cực kỳ phản động và tàn bạo của Mỹ - Diệm, Đảng ta đã chỉ
rõ nhân dân miền Nam khơng có con đường nào khác là đứng lên làm cách mạng để
cứu nước, cứu mình. Do đó, mục đích cách mạng miền Nam là phải đánh đổ chính

quyền độc tài phát xít Ngơ Đình Diệm và đánh đổ bằng con đường cách mạng.
b) Tình hình cách mạng miền Nam trước khi xuất hiện con đường chi viện:
Với việc ký kết hiệp định Genève 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết
thúc thắng lợi, những thành quả của cách mạng tháng Tám 1945 đã được giữ vững
nhưng Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Do âm mưu của đế quốc Mỹ từ
trước, trong và sau hội nghị, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai chế
độ chính trị - xã hội khác nhau.
Ở miền Nam, thực dân Pháp cũng có những hành động phá hoại Hiệp định mới
được ký kết. Ngay sau khi hiệp định Genève còn chưa ráo mực, đế quốc Mĩ đã thay
chân Pháp nhảy vào miền Nam, dựng lên chính quyền tay sai Ngơ Đình Diệm. Thực
hiện âm mưu chia cắt Việt Nam, biến miền nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và
căn cứ quân sự của Mỹ. Biện pháp chiến lược cơ bản của chúng là thực hành chính
sách “tố cộng, diệt cộng”, tập trung đánh phá cách mạng miền Nam vô cùng tàn khốc.
Việt Nam trở thành trọng điểm trong chiến lược toàn cầu của Mĩ ở châu Á Thái Bình
Dương. Cụ thể:
Mỹ - Diệm huy động mọi lực lượng qn sự, an ninh, hành chính, tình báo, thông
tin tuyên truyền, thực hành cuộc khủng bố, đàn áp tồn diện cả về qn sự, chính trị,

5


tâm lý, kinh tế, cực kỳ thâm độc, tàn bạo. Chúng gây ra những cuộc thảm sát đẫm máu
ở Ngân Sơn, Chí Thạnh (Phú Yên), Chợ Được (Quảng Nam), Mỏ Cày, Bình Đại (Bến
Tre), v.v...Chúng dùng quân đội mở nhiều cuộc hành quân càn quét quy mô lớn, dài
ngày như các “chiến dịch Thoại Ngọc Hầu” kéo dài 9 tháng (5-1956 đến 2-1957) ở 18
tỉnh miền Tây Nam Bộ, “chiến dịch Trương Tấn Bửu” trong 7 tháng (7-1956 đến 21957) ở 8 tỉnh miền Đông Nam Bộ,... để triệt phá cách mạng, tàn sát những người yêu
nước, khủng bố những người kháng chiến cũ mà chúng gọi là cộng sản hoặc phần tử
thân cộng sản. Mỹ-Diệm đã ban hành Luật 10/59 “đặt cộng sản ra ngồi vịng pháp
luật”, biến cả miền Nam thành nơi tràn ngập nhà tù, trại giam, trại tập trung.
Từ tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã họp và ra Chỉ thị riêng về tình hình mới và nhiệm

vụ công tác mới cho các đảng bộ miền Nam. Trong 2 năm đầu, Đảng chủ trương lãnh
đạo nhân dân đấu tranh đòi thực hiện Hiệp định Genève, đòi củng cố hồ bình, thực
hiện các quyền tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất đất nước trên cơ
sở độc lập, dân chủ. Đứng trước nguy cơ, Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống
khủng bố, đàn áp của ngụy quân, nguỵ quyền, chống chính sách “tố cộng, diệt cộng”
của Mỹ-ngụy, bảo vệ và xây dựng lực lượng cách mạng, căn cứ địa cách mạng, xây
dựng và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời tích cực nghiên cứu, chuẩn bị
tìm con đường đấu tranh thích hợp để hạn chế tổn thất, đẩy cách mạng miền Nam tiến
lên.
Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam đã trải qua những năm tháng vơ cùng khó
khăn, ác liệt. Trước sức đánh phá của địch qua nhiều đợt “tố cộng, diệt cộng” cực kỳ
tàn ác và những chiến dịch càn quét khốc liệt của quân đội ngụy tay sai, cách mạng
miền Nam đã chịu những tổn thất nặng nề chưa từng có. Trong tình hình đó, Đảng đã
động viên được 12 triệu lượt quần chúng (1955-1958) đấu tranh chính trị dưới những
hình thức khác nhau. Trước tình thế khó khăn, hiểm nghèo, đại bộ phận đồng bào miền
Nam vẫn một lòng một dạ theo cách mạng, vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh bất khuất
chống lại cường quyền, áp bức và khủng bố tàn khốc của địch để giữ gìn lực lượng và
thế đấu tranh. Một số khá đơng đảng viên bị thất tán do chuyển vùng và rút vào hoạt
động bí mật để chống khủng bố, vẫn hướng về Đảng và Cách mạng.
Cùng với sự giúp đỡ dưới hình thức "viện trợ" qn sự, chính trị, kinh tế, miền Nam
Việt Nam được xây dựng thành căn cứ quân sự, thành cơ sở kinh tế thực dân kiểu mới
của Mỹ.
1.2. Chủ trương hình thành con đường chi viện miền Nam:
Khi cách mạng miền Nam gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là giao thông liên lạc,
việc chi viện từ Bắc vào Nam, Bác Hồ và Đảng ta đã xác định con đường lối cách
mạng trong giai đoạn mới: Tiến hành đồng thời chiến lược cách mạng ở hai miền
nhằm mục tiêu chung là chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc,
thống nhất Tổ quốc; đã chỉ rõ mối quan hệ chiến lược giữa hai miền: Xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc là để tạo sức mạnh giải phóng miền Nam, đẩy mạnh đấu tranh
cách mạng ở miền Nam là để giải phóng miền Nam và bảo vệ miền Bắc; miền Bắc có

tác dụng quyết định nhất, miền Nam có tác dụng trực tiếp đối với sự nghiệp hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước. Đó cũng là mối quan hệ khăng khít,
ruột thịt giữa hậu phương lớn và tiền tuyến lớn, huy động sức mạnh của toàn dân để
chiến thắng kẻ thù hung bạo. Đó cũng là biểu thị ý chí: “Nước Việt Nam là một, dân

6


Việt Nam là một, sơng có thể cạn, núi có thể mịn, song chân lý ấy khơng bao giờ thay
đổi”.
Tháng 1-1959, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và khẳng định con
đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là con đường sử dụng bạo lực cách
mạng để giải phóng miền Nam, hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Thực
hiện những nhiệm vụ trên đây, chiến trường miền Nam rất cần sự chi viện về lực
lượng, vũ khí, đạn dược, thuốc men, quân trang, quân dụng... với số lượng lớn. Chi
viện sức người, sức của kịp thời trở thành yêu cầu sống còn đối với sự tồn tại và phát
triển của cách mạng miền Nam và điều đó địi hỏi phải gấp rút mở những tuyến đường
huyết mạch nối liền hậu phương với tuyền tuyến. Tuyến đường ấy phải đủ sức đảm
nhận, hoàn thành nhiệm vụ vận tải chiến lược, đáp ứng yêu cầu, tình hình phát triển
của chiến trường và thậm chí phải vượt trước một bước.
Ngay sau hội nghị Trung ương 15, Tổng Quân ủy Trung ương đã họp bàn về việc
xây dựng lực lượng vũ trang Miền Nam và chuẩn bị tìm cách đưa một số bộ phận quân
đội cùng với vũ khí đạn, dược, vật tư… vào chi viện cho chiến trường Miền Nam một
cách bí mật, an tồn, tránh sự kiểm soát, phát hiện của kẻ thù. Ngày 19/5/1959 Tổng
Quân ủy Trung ương quyết định thành lập “Đoàn qn sự đặc biệt” (sau đó gọi là
Đồn 559) có nhiệm vụ mở xuyên đường Trường Sơn vào Nam, nhằm xây dựng tuyến
chi viện chiến lược, vận chuyển vật chất và binh lực từ hậu phương lớn Miền Bắc cho
tuyền tuyến Miền Nam. Cũng chính từ đây – đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí
Minh huyền thoại được hình thành, là mạch máu giao thơng quan trọng, góp phần
quyết định và sự thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến

chống Mỹ cứu nước.
II. Con đường chi viện:
2.1. Đường bộ:
a) Hồn cảnh và q trình hình thành:
❖ Hoàn cảnh:
Khi cách mạng miền Nam gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là giao thơng liên lạc,
việc chi viện từ Bắc vào Nam. Đảng ta đã xác định rõ: “Miền Nam là tiền tuyến lớn,
miền Bắc là hậu phương lớn”, vì vậy miền Bắc phải chi viện sức người, sức của cho
miền Nam chiến đấu. Theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Khơng có gì q hơn
độc lập tự do”, “dù phải hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, chúng
ta cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Nhiệm vụ cấp bách đặt ra đặt ra cho
miền Bắc là phải tìm đủ mọi cách để chi viện cho chiến trường miền Nam.
Trên thực tế, đường Trường Sơn xuất hiện từ trong cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp, tuy nhiên đó chỉ là những con đường mịn nhỏ hẹp, hình thức vận chuyển
chủ yếu là 5 gùi thồ đơn giản. Sang thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược, Trước yêu
cầu ngày càng cao của tiền tuyến miền nam, nếu chỉ dựa vào những con đường mịn
nhỏ hẹp như vậy thì không thể vận chuyển đủ và kịp thời nhân lực, vật lực cho quân và
dân miền nam đánh Mỹ; cho nên, việc khai thơng, mở rộng hệ thống đường mịn
Trường Sơn thật sự cấp thiết. Nhận thức rõ yêu cầu của thực tiễn lịch sử, tháng 51959, Hội nghị Trung Ương Đảng lần thứ 15 khẳng định: “Đây là một việc làm lớn, có
ý nghĩa chiến lược, quan hệ trực tiếp đến sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất
Tổ quốc”.
7


❖ Quá trình hình thành:
Ngày 5-5-1959, Tổng Quân ủy (nay là Quân ủy Trung ương) quyết định thành lập
Phòng Nghiên cứu công tác chi viện quân sự miền nam, trực thuộc Bộ Tổng tham
mưu, do Thượng tá Võ Bẩm làm Trưởng phịng, có nhiệm vụ: mở một con đường đặc
biệt trên dãy Trường Sơn từ bắc vào nam để chuyển nhân lực, vật lực từ miền bắc
phục vụ cách mạng miền nam. Đến ngày 19-5-1959, Bộ Chính trị Trung ương Đảng

quyết định thành lập Đoàn 559, xây dựng tuyến chi viện chiến lược - đường Trường
Sơn trên bộ. Vai trò của đường Trường Sơn được Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy
khẳng định là: “Con đường chi viện miền Nam, là cơ bản nhất, chủ yếu nhất, có ý
nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng trước mắt và lâu dài”.
Tổng Quân ủy, Bộ Quốc phòng quyết định biên chế bước đầu của Đoàn là 500 cán
bộ, chiến sĩ. Ngoài Đoàn bộ, Đoàn được tổ chức thành Tiểu đoàn vận tải bộ 301 và các
bộ phận: Xây dựng kho, bao gói hàng, sửa chữa vũ khí, chế biến thực phẩm. Ra đời
tháng 5-1959, Đoàn được mang phiên hiệu 559 (đến ngày 12-9-1959, Bộ Quốc phịng
ra quyết định chính thức thành lập Đoàn 559). Con đường được mở đúng ngày sinh
của Bác nên được mang tên đường Hồ Chí Minh. Và ngày 19/5/1959 trở thành Ngày
truyền thống Đoàn 559 - Bộ đội Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh.
Lúc đầu đường Hồ Chí Minh trên bộ là con đường mịn đi dọc phía đơng dãy
Trường Sơn, luồn lách qua hàng rào, đồn bốt và sự đánh phá ác liệt của Mỹ - Ngụy.
Khắc phục được những những khó khăn, cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong và
nhân viên kỹ thuật của Đồn 559 đã bền bỉ, anh dũng và mưu trí đánh địch, mở đường,
đảm bảo giao thông, thực hiện nhiệm vụ trung tâm là tiếp nhận nguồn hàng từ hậu
phương miền Bắc (bao gồm Tổng cục Hậu cần, của Ban Thống nhất Trung ương, của
các cơ quan nhà nước gửi vào chiến trường, gửi cho bạn Lào) và nguồn thu mua ở
hướng Campuchia, tổ chức vận chuyển chi viện tới các chiến trường miền Nam và
Lào, đảm bảo hàng quân cho bộ đội và các đồn cán bộ dân-chính- đảng qua lại trên
đường Trường Sơn.
Sau một thời gian “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” trong điều kiện địch đánh phá
ác liệt, khí hậu, thời tiết phức tạp, việc xây dựng và bảo vệ tuyến bảo vệ tuyến vận tải
kéo dài hàng nghìn ki-lơ-mét, vượt xa với quy mơ, phạm vi cả Đông và Tây dãy
Trường Sơn, xuyên qua 20 tỉnh thuộc 3 nước Đơng Dương. Đường Hồ Chí Minh là
khúc ruột nối các tuyến vận tải của hậu phương lớn Miền Bắc, các tuyến vận tải của
các chiến trường thuộc 3 nước Việt-Lào-Campuchia, đã tạo nên một hệ thống liên
hồn và vững chắc. Những chiến cơng 6 ấy khơng những địi hỏi lịng dũng cảm mà
cịn phải có trí thơng minh, có biện pháp tổ chức lực lượng, bố trí thế trận…đúng đắn,
sáng tạo, hiệu quả.

b) Q trình hoạt động:
❖ Giai đoạn 1960 - 1964:
Đây là giai đoạn của những năm đầu xây dựng tuyến chi viện chiến lược. Ở miền
Nam, sau khi có Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị chủ trương đẩy
mạnh hoạt động chi viện cho chiến trường. Vị trí, vai trị của Đoàn 559 ngày càng
quan trọng, nhiệm vụ của Đoàn ngày càng nặng nề. Trong khi đó, địch ngày càng tăng
cường lùng sục, đánh phá ác liệt hơn. Ngày 1/9/1960, Hội nghị Ban cán sự Đoàn 559

8


ra nghị quyết nêu rõ: “Phải quyết tâm tự lực cánh sinh, tranh thủ sử dụng đi đường cũ,
đồng thời tiếp tục soi đường mới để làm đường dự bị”.
Trong khi tuyến giao liên vận tải quân sự từ miền Bắc được mở dọc theo dãy
Trường Sơn tiến dần vào phía Nam thì ở Trung Bộ, các con đường giao liên được mở
tiếp vào các khu căn cứ Tây Nguyên và từ miền Đông Nam Bộ các đội vũ trang tuyên
truyền cũng tiến hành soi đường ra Bắc. Đến cuối năm 1960, ta đã thiết lập được tuyến
giao liên vận tải từ Trung Bộ vào miền Đông Nam Bộ, tuyến giao liên quân sự Trường
Sơn thật sự trở thành cầu nối giữa miền Bắc với các căn cứ miền Nam.
Trong mùa khơ 1960 - 1961, Đồn 559 đã vận chuyển giao cho chiến trường được
30 tấn vũ khí, bảo đảm lương thực cho gần 2.000 cán bộ vào chiến trường, có chân
hàng dự trữ cho các đợt vận chuyển tiếp theo. Đồn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
khen ngợi: “Đoàn 559 bước đầu làm được vậy là giỏi, nhưng cần nghiên cứu tổ chức
làm tốt hơn nữa”.
Ngày 31/1/1961, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự 5 năm (1961 1965) và phương hướng, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam. Trong đó có
nhiệm vụ: Mở rộng đường hành lang vận chuyển Bắc - Nam, cả đường bộ và đường
biển... nâng dần quy mô và khối lượng tiếp tế vận chuyển phương tiện vũ khí, cung
cấp tài chính từ miền Bắc vào miền Nam. Trước tình hình địch đánh phá ngày càng ác
liệt, Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào nhất trí với đề nghị của ta mở tuyến
đường vận tải trên đất Bạn, đồng thời cũng đề nghị dùng đường đó để vận chuyển một

số nhu cầu thiết yếu của Bạn tới Nam Lào, cùng Bạn mở rộng vùng giải phóng ở khu
vực này. Ngày 14/6/1961, Đồn 559 chính thức bước vào hoạt động trên tuyến Tây
Trường Sơn.
Ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 96/QP phát triển Đoàn 559
tương đương cấp sư đồn, qn số 6.000 người. Khơng chỉ phát triển về số lượng,
Đồn 559 đã có bước phát triển quan trọng về chất lượng. Các chiến sĩ Trường Sơn
vừa là người lính vận tải, vừa là chiến sĩ bộ binh, công binh, vừa công tác, vừa chiến
đấu.
Bằng những nỗ lực to lớn của Đồn 559, hệ thống đường Hồ Chí Minh có sự phát
triển nhanh chóng. Đến cuối năm 1964, bộ đội tuyến 559 cùng các đơn vị vũ trang,
thanh niên xung phong và giao thông Quân khu 4 đã xây dựng được tuyến hành lang
vận tải gồm 7 nhiều trục đường gùi thồ và một trục đường cơ giới ở Tây Trường Sơn,
thực hiện được chiến dịch vận chuyển quy mô lớn mà Quân ủy Trung ương giao. Về
lực lượng, sau hơn 5 năm hoạt động, quân số của Đoàn 559 lên đến 8.000 người. Kết
thúc năm 1964, Đoàn 559 đã đưa đón quân vào Khu 5: 15.896 người, Nam Bộ: 1.571
người.
❖ Giai đoạn 1965 - 1968:
Đây là giai đoạn ngăn chặn sự phá hoại của địch và tiếp tục mở rộng. Tuyến vận tải
cơ giới đường Hồ Chí Minh vươn sâu chi viện cho chiến trường miền Nam đánh bại
chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.
Đến tháng 4/1965 quân số của Đoàn 559 đã phát triển lên tới 24.000 người thường
xuyên làm nhiệm vụ là mở đường và tổ chức vận chuyển chi viện cho chiến trường
miền Nam và Hạ Lào; đồng thời có nhiệm vụ bảo đảm vật chất và an toàn cho các lực
lượng hành quân, bảo vệ hành lang chống địch tập kích bằng đường bộ và đường
khơng, phối hợp và giúp đỡ các địa phương củng cố vùng giải phóng ở dọc hành lang.
9


Bộ Tư lệnh 559 có ba lực lượng chính là: lực lượng mở đường mới, giữ gìn và sửa
chữa đường cũ; lực lượng vận chuyển và giữ kho; lực lượng bảo vệ. Ngồi ra cịn có

các lực lượng bảo đảm khác như: thông tin, quân y, sửa chữa... Về tổ chức, Đảng ủy và
Bộ Tư lệnh của Đoàn tương đương cấp quân khu trực thuộc Quân ủy Trung ương.
Quyết định trên đánh dấu bước phát triển mới của Đoàn 559, từ vận tải thô sơ chuyển
sang vận tải cơ giới; từ quy mơ cấp sư đồn lên quy mơ cấp quân khu với những
nhiệm vụ chiến lược to lớn, vô cùng khó khăn, phức tạp trên một địa bàn rộng. Để đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ, tháng 2/1966, Bộ Tư lệnh 559 giải thể các tuyến, tổ chức thành
8 binh trạm; mỗi binh trạm phụ trách một khu vực nhất định và đều có một tiểu đồn
cơng binh.
Mùa khơ năm 1966 - 1967 đánh dấu bước chuyển lớn về chiến thuật vận tải của
Đồn 559 từ “phịng tránh tích cực” sang “tiến công” hợp đồng binh chủng. Các sở chỉ
huy được chuyển ra gần đường, các lực lượng phịng khơng, cơng binh đóng sát đường
để dễ hỗ trợ kịp thời và hiệu quả hơn cho lực lượng vận tải chủ cơng. Nhiều tuyến
đường phụ, đường vịng được mở thêm để đảm bảo thơng đường cho xe chạy. Nhờ đó
cơng tác vận chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam tăng gấp 25 lần, giao cho
bạn Lào tăng gấp 12 lần so với năm 1966, đưa bộ đội vào chiến trường tăng gấp 2,5
lần so với chỉ tiêu Bộ giao.
Đến cuối năm 1967, mạng lưới đường đã lên đến 2.959km đường ơ tơ, trong đó có
275km đường chính, 576 km đường vòng và 450km đường vào các vùng kho chứa.
Trong năm 1967, để chuẩn bị cho tổng tấn công Mậu Thân 1968, đã có hơn 81.000 tấn
hàng đã được vận chuyển và cất giữ, với 200.000 quân, trong đó có 07 trung đoàn bộ
binh và 20 tiểu đoàn độc lập đã di chuyển vào Nam an toàn bằng con đường này. Năm
1968, Đồn 559 đã có 25 binh trạm, 23 trung đoàn; quân số lên đến 80.000 người.
❖ Giai đoạn 1969 - 1972:
Đây là giai đoạn mở rộng đường Hồ Chí Minh, góp phần đánh bại một bước quan
trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.
Mùa khơ 1968 - 1969, hệ thống đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn không
chỉ phát triển vào các chiến trường Nam Bộ và Tây Nguyên mà còn được phát triển
mạnh ra phía Bắc, tiếp giáp với hậu phương lớn miền Bắc, đáp ứng với yêu cầu chi
viện ngày càng lớn cho chiến trường miền Nam.
Tháng 7/1970, Bộ Tư lệnh 559 được đổi tên thành Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Các

binh trạm được tổ chức thành các sư đoàn; gồm 8 sư đoàn, 1 đoàn chuyên gia (tương
đương sư đoàn), 16 trung đoàn trực thuộc, 6 binh trạm.
Để tạo thế bất ngờ với địch, ngày 5/5/1971, Bộ Tư lệnh Trường Sơn huy động tồn
bộ lực lượng cơng binh và một số lực lượng khác đồng loạt ra quân mở “đường kín”
(là các con đường chạy dưới các tán cây của rừng Trường Sơn).
Tháng 7/1971, Bộ Tư lệnh Trường Sơn được tổ chức thành: 5 Bộ Tư lệnh khu vực
(470, 471, 472, 473, 571), 6 binh trạm trực thuộc (9, 12, 14, 15, 29, 31), 6 trung đồn
cơng binh trực thuộc (4, 6, 8, 10, 98, 217), 2 trung đồn ơ tơ (11, 13), 3 trung đồn
phịng khơng (210, 591, 593), 2 trung đồn đường ống xăng dầu (532, 592), 1 trung
đồn thơng tin (gồm 5 tiểu đoàn), 4 quân y viện (Bệnh viện 59, Viện 46, Viện 47, Viện
48) và các cơ quan trực thuộc (Bộ Tham mưu và 5 cục). Bộ Quốc phịng cho phép tăng
thêm 61 tiểu đồn, nâng tổng số lên 188 tiểu đoàn và tương đương trực thuộc các binh

10


trạm; bổ sung 35.000 quân (20.000 bộ đội và 15.000 thanh niên xung phong, dân công
hỏa tuyến, công nhân giao thông), nâng tổng quân số lên 92.000 người.
Đến cuối năm 1971, tồn tuyến đã mở được 1.190km đường kín. Vận chuyển trên
đường kín đã trở thành xu thế chủ đạo trên đường Hồ Chí Minh, được Đảng ủy và Bộ
Tư lệnh Trường Sơn đánh giá rất cao, coi đó là một thành tựu có ý nghĩa chiến lược,
tạo được thế bất ngờ đối với không quân địch. Hệ thống đường kín tiếp tục được phát
triển trong những năm tiếp theo.
Cuối năm 1972, ta đã xây dựng được một mạng đường giao thông vận tải chiến
lược gồm nhiều trục dọc, ngang và các đường vịng tránh, hình thành hệ thống đường
cho các kiểu, loại xe cơ giới, với tổng chiều dài 11.000km. Giao thơng vận tải phục vụ
kháng chiến của tồn miền Nam trong năm 1972 đã góp phần quan trọng tạo nên chiến
thắng to lớn của quân và dân ta trong cuộc tiến công chiến lược năm 1972, buộc đế
quốc Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn phải ký Hiệp định Pa-ri, đồng thời cũng góp phần
cho cuộc tiến cơng chiến lược của quân và dân Lào giành thắng lợi toàn diện, buộc

địch phải ký Hiệp định Viêng Chăn.
❖ Giai đoạn 1973 - 1975:
Đây là giai đoạn hoàn thiện thế trận đường Hồ Chí Minh, cùng cả nước tiến hành
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.
Đầu năm 1973, mạng đường chiến lược đã được xây dựng, mở rộng trên địa bàn
Tây Trường Sơn, về cơ bản vẫn là tuyến đường đất, chỉ bảo đảm vận chuyển được
trong mùa khơ; cịn trên địa bàn Đơng Trường Sơn, ta chưa có điều kiện mở đường
qua Tây Nguyên. Để đáp ứng yêu cầu tăng khối lượng vận chuyển, tăng tốc độ xe
chạy, tăng mật độ phương tiện nhằm tổ chức vận chuyển lớn, cơ động lớn và nhanh
các binh đoàn chủ lực và binh khí kỹ thuật đến các hướng tác chiến, ta cần nhanh
chóng xây dựng, phát triển, hồn thiện mạng đường giao thông vận tải chiến lược
Đông, Tây Trường Sơn ra phía trước.
Để hồn thành khối lượng cơng việc rất lớn được giao, Bộ Tư lệnh Trường Sơn đã
tổ chức điều chỉnh, bố trí lực lượng phù hợp với tình hình; đồng thời được trên tăng
cường lực lượng, phương tiện. Mùa khô 1973 - 1974, lực lượng công binh được triển
khai trên toàn tuyến làm nhiệm vụ xây dựng, khôi phục và bảo đảm đường vận
chuyển.
Giữa năm 1974, Bộ Tư lệnh Trường Sơn có tất cả 8 sư đoàn binh chủng, 20 trung
đoàn và tương đương trực thuộc, hàng chục tiểu đoàn trực thuộc các cục nghiệp vụ;
tổng quân số lên đến 100.495 người, trong đó có 13.155 sĩ quan.
Cuối năm 1974, tuyến vận tải quân sự chiến lược trên đường Hồ Chí Minh đã thực
hiện được chủ trương của Quân ủy Trung ương, hoạt động cả mùa khơ và mùa mưa
theo tỷ lệ thích hợp. Qn và dân ta đã có một hệ thống đường chiến lược nối liền từ
hậu phương lớn miền Bắc với các chiến trường, bảo đảm cho tất cả loại binh khí kỹ
thuật cơ động trong đội hình hành quân của các quân đoàn, binh chủng hợp thành ra
trận.
c) Đánh giá:
Đường vận tải Hồ Chí Minh trên bộ là con đường của tinh thần sáng tạo, đột khởi,
bất ngờ và biến hóa khơng ngừng. Từ một nhóm nhỏ cán bộ trinh sát đường, đến tiểu


11


đồn giao liên đầu tiên dẫn qn đã hình thành một binh đoàn mang tên Binh đoàn
Trường Sơn - Đoàn 559.
Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh được hình thành, là mạch máu giao thơng
quan trọng, góp phần quyết định sự thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước là kết quả của nhiều nhân tố hợp thành, trong đó nổi bật là thành công của
việc tổ chức, xây dựng tuyến chi viện chiến lược. Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí
Minh thể hiện tư duy độc đáo, sáng tạo, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh sắc sảo, tài tình
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; đồng thời, khẳng định quân và dân ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng có thể làm nên những chiến công lừng lẫy, những kiệt tác vĩ đại lưu
danh vào sử sách.
Đóng góp phần lớn vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, việc chi viện
bằng đường bộ trên tuyến đường Trường Sơn còn tồn tại những ưu điểm và hạn chế
riêng. Với địa hình hiểm trở, núi cao, suối sâu giúp cho bộ đội Trường sơn ẩn náu khỏi
những đợt đánh phá, những chiến lược của kẻ thù như “chiến tranh ngăn chặn”, “chiến
tranh điện tử”, “chiến tranh hóa học”, với đủ loại vũ khí, thiết bị, phương tiện chiến
tranh tối tân. Song, đối mặt 10 với địa hình hiểm trở; thời tiết, khí hậu khắc nghiệt với
những ngày “nắng như đổ lửa”, “mưa như trút nước” trên núi rừng Trường Sơn; đối
mặt với những trận sốt rét kéo dài trong điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn…. đã
bào mịn đi rất nhiều sức lực của quân dân ta, đã có rất nhiều người đã hy sinh trên
tuyến đường Trường Sơn huyền thoại này.
Trong quá trình hoạt động trên con đường này, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
có những chiến lược sắc sảo, nhạy bén, linh hoạt và vô cùng độc đáo, biểu hiện cụ thể
ở nhiều hoạt động.
Thứ nhất, cụ thể hóa đường lối chiến tranh nhân dân và vận dụng sáng tạo kinh
nghiệm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đó là trực tiếp tổ chức tuyến chi
viện trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ cách

mạng hai miền Nam - Bắc; thực hiện mục tiêu chi viện cho chiến trường, quyết tâm
đánh thắng địch ở miền Nam, không cho chúng mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, bảo
vệ vững chắc hậu phương của cách mạng.
Thứ hai, Đảng ta thực hiện chủ trương kháng chiến toàn dân, toàn diện, mỗi người
dân là một chiến sĩ, cả nước cùng hướng về miền Nam thành đồng Tổ quốc.
Thứ ba, dùng Trường Sơn là chiến trường lớn làm phân tán lực lượng Mỹ - ngụy
Sài Gòn, hạn chế chiến tranh phá hoại của Mỹ ra miền Bắc và làm tăng thêm sức mạnh
chiến đấu của quân và dân ta ở miền Nam. Nếu khơng có tuyến chi viện chiến lược
Trường Sơn, chúng ta khó có thể mở được những chiến dịch với quy mô ngày càng
lớn trên khắp chiến trường miền Nam và rút ngắn thời gian để có Đại thắng mùa Xuân
1975.
Thứ tư, Chủ trương chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế
tiến cơng để đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
Trên đây là những nét độc đáo, chưa có tiền lệ trong lịch sử chiến tranh của dân tộc;
sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo nghệ thuật quân sự Việt Nam vào điều kiện chiến
trường Trường Sơn.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là kết quả của nhiều nhân tố
hợp thành, trong đó nổi bật là thành cơng của việc tổ chức, xây dựng tuyến chi viện
12


chiến lược. Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh trên bộ thể hiện tư duy độc đáo,
sáng tạo, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh sắc sảo, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh; đồng thời, khẳng định quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng có thể làm nên
những chiến cơng lừng lẫy, những kiệt tác vĩ đại lưu danh vào sử sách.
2.2. Đường thủy:
a) Hồn cảnh và q trình hình thành:
❖ Hồn cảnh:
Trước u cầu chi viện cho chiến trường miền Nam, Bộ chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng nhận định: nhiệm vụ vận chuyển chiến lược phải theo kịp tình hình phát

triển của chiến trường, nếu có điều kiện phải đi trước một bước. “Theo nhận định của
Tổng 11 quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh, trong thời gian từ 3- 4 năm trước mắt dù cố gắng
đến mức cao nhất, đoàn 559 cũng chưa thể mở được đường vận tải dọc theo phía Đơng
dãy Trường Sơn vào các chiến trường xa là Nam Trung Bộ và Nam Bộ”. Song vũ khí
cho chiến trường Nam Bộ ngày càng trở nên cấp thiết, có tính sống cịn đối với phong
trào cách mạng miền Nam. Tiếp tế cho Nam Bộ vào thời điểm này, khơng cịn con
đường nào khác hơn là bằng đường biển.
❖ Q trình hình thành:
Đường Hồ Chí Minh trên biển là tên gọi của tuyến đường vận tải quân sự do Hải quân
nhân dân Việt Nam và Quân giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện bí mật trên
Biển Đơng, được thành lập ngày 23/10/1961, trong Chiến tranh Việt Nam, để vận
chuyển vũ khí từ miền Bắc Việt Nam vào chi viện cho Qn Giải phóng miền Nam.
Đó khơng chỉ là phương thức chi viện mới hết sức quan trọng, trực tiếp cho các chiến
trường ven biển miền Nam, mà còn là một sáng tạo chiến lược của Đảng về chiến
tranh nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh, đã góp phần to lớn làm nên Đại thắng mùa
Xuân năm 1975.
b) Quá trình hoạt động:
❖ Giai đoạn (1962-1965): Kịp thời và hiệu quả
- Đêm 12/10/1962, chiếc tàu “Phương Đông 1” gồm 10 thủy thủ dưới sự chỉ huy của
thuyền trưởng Lê Văn Một, chính trị viên Bơng Văn Dĩa chở hơn 30 tấn vũ khí rời bến
k15, Đồ Sơn (Hải Phịng) đi về phương Nam.
- Đến sáng ngày 19/10/1962, tàu vào tới Chùm Gọng (Vàm Lũng, Tân An) an toàn.
Tàu “Phương Đơng 1” đã đi vào lịch sử, chính thức khai thông tuyến vận tải quân sự
đường biển - Tuyến vận tải chiến lược - Sau chuyến đi thành công của tàu “Phương
Đông 1”, ba chiếc tàu khác cũng đã cập bến Cà Mau an toàn; cùng với các bến Trà
Vinh, Bến Tre, Bà Rịa hình thành các cụm bến đón nhận những chuyến hàng đầu tiên
của tuyến vận tải Đường Hồ Chí Minh trên biển.
- Trong thời gian này tuyến đường Trường Sơn trên bộ (được thành lập từ tháng 5 năm
1959), tuy đã rất khẩn trương tiến hành soi đường, gùi hàng, vũ khí vào chiến trường.
Nhưng những năm đầu do địa hình phía Đơng Trường Sơn q hiểm trở, mặt khác lại

bị địch đánh phá ngăn chặn quyết liệt, nên hoạt động đã gặp nhiều khó khăn...
- Trong khi đó tuyến vận tải trên biển đã nhanh chóng sớm phát huy được hiệu quả,
nên thời kỳ đầu (1962 - 1965), những con tàu không số đã kịp thời phát huy hiệu quả,

13


trở thành tuyến chi viện chiến lược chủ yếu cho chiến trường Nam Bộ và Nam Trung
Bộ.
Phát huy những kết quả giai đoạn 1962-1965, trong những năm tiếp theo, bộ đội ta đã
ln sáng tạo, hồn thành mọi mục tiêu đề ra.
❖ Giai đoạn (1965-1973):
- Thời kỳ (1965-1968): Từ sau Sự kiện Vũng Rơ, bị mất đi yếu tố bí mật, ta phải đi xa
bờ và chuyển sang hình thức “lừa miếng” - đi bằng phương pháp hàng hải thiên văn .
- Thời kỳ (1968-1969): Chuyển sang phương án vận chuyển gián tiếp.
- Thời kỳ (1969-1972): Tiếp tục phương án vận chuyển trực tiếp.
- Từ tháng 2/1965 đến tháng 1/1973 là giai đoạn khó khăn nhất nhưng hết sức hào
hùng của tuyến chi viện chiến lược trên biển. Sau sự kiện xảy ra với tàu C143 ở Vũng
Rô (Phú Yên), yếu tố bí mật của tuyến chi viện chiến lược trên biển của ta khơng cịn
nữa. Nhưng cơng việc tiếp tế cho miền Nam bằng đường biển vẫn phải tiếp tục, buộc
ta phải chuyển hướng vận chuyển từ phương thức trực tiếp sang phương thức gián tiếp.
Bằng phương pháp vận chuyển này, trong một năm (từ 01/11/1968 đến 31/10/1969),
lực lượng vận tải biển đã đưa vào cảng sông Gianh 21737 tấn vũ khí. Từ đây, số vũ khí
này được chuyển vào Nam theo đường bộ. Ngoài ra, trong giai đoạn này, cán bộ chiến
sĩ Đồn 125 cịn tham gia chiến dịch vận tải VT5 - Vận tải tranh thủ tụt thang (từ
tháng 11-1968 đến năm 1969), cùng các lực lượng trong và ngoài quân đội vận chuyển
hàng chục vạn tấn vũ khí, lương thực, xăng dầu… từ Hải Phịng vào các tỉnh Nam Khu
4, tạo chân hàng cho tuyến chi viện chiến lược trên bộ (Đoàn 559).
Đồng thời với việc đẩy mạnh đưa hàng vào cảng sông Gianh, Quân chủng Hải quân
chọn một số tàu và thủy thủ có kinh nghiệm tiếp tục vận chuyển vào Nam theo đường

Hồ Chí Minh trên biển.
❖ Giai đoạn (1973-1975):
Sau Hiệp định Paris, ta chuyển sang phương thức hoạt động công khai.
- Từ 1973 đến 1975, tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển đã dốc toàn bộ lực
lượng và phương tiện, sử dụng hàng ngàn lượt chuyến tàu chuyển vũ khí và vật chất
các loại vào các chiến trường.
- Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, ta đã sử dụng 140 lượt
chuyến tàu, vận chuyển 6282 tấn vũ khí và vật chất khác, cùng hàng ngàn lượt cán bộ
chiến sĩ vào tăng cường cho chiến trường Nam Bộ và Khu 5, cơ động bộ đội đặc công
chiến đấu giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, Cù Lao Thu, các đảo phía
Nam và Tây Nam của Tổ quốc.
c) Đánh giá:
Đường Hồ Chí Minh trên biển với Đồn 759 (Đoàn 125) đã hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ chi viện chiến trường bằng đường biển có những đóng góp cực kỳ quan
trọng vào việc xây dựng và tăng cường sức chiến đấu cho các lực lượng vũ trang ở
miền Nam, góp phần quan trọng cùng quân dân cả nước đánh bại cuộc chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mỹ, góp phần giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất
nước.

14


Đường Hồ Chí Minh trên biển là một mắt xích quan trọng trong tồn bộ cơng tác
chi viện từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam, một nét độc đáo, sáng tạo của chiến
tranh nhân dân trên chiến trường sông, biển do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo. Các tàu
của Đoàn 759 như những con thoi dũng cảm vượt qua phong ba, bão táp và sự phong
tỏa, ngăn chặn, đánh phá ác liệt của địch, dệt lên “chiếc cầu đặc biệt” nối liền tiền
tuyến lớn với hậu phương lớn, nối liền miền Bắc với miền Nam.
Đường Hồ Chí Minh trên biển là một kỳ tích trong bối cảnh so sánh lực lượng địch
mạnh hơn ta trên chiến trường. Tuyến vận chuyển chiến lược trên biển được xác định

là tuyến vận chuyển chiến lược lâu dài. Trên tuyến vận chuyển chiến lược này chúng
ta tổ chức hệ thống lãnh đạo, chỉ huy và tiến hành chặt chẽ từ Bộ tư lệnh quân chủng
hải quân đến các tàu vận chuyển, với nhiều hình thức phong phú, phương thức linh
hoạt, hiệp đồng khá nhịp nhàng giữa bến đi với lực lượng tàu và bến nhận; giữa các
lượng vận chuyển của hải quân với các lực lượng vận chuyển nhỏ lẻ của các qn khu,
các địa phương.
Ngồi ra cịn có sự phối hợp chặt chẽ của các lực lượng phối hợp trên bộ ở kho
chứa hàng, lực lượng vận chuyển tập kết, cất giấu vũ khí và tổ chức bảo vệ hàng, dẫn
dắt cán bộ, chiến sỹ, thủy thủ khi phải rời tàu lên bờ liên lạc với vùng giải phóng.
Ngồi ra, việc vận chuyển bằng đường biển cũng có những ưu điểm và những hạn chế
riêng. Về ưu điểm, dễ dàng vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực qua hệ thống
đường 16 biển (nhất là đối với những vùng ven biển miền Tây Nam Bộ).Vận tải bằng
đường biển rút ngắn thời gian vận chuyển, an toàn những loại "hàng đặc biệt”, đó là
những ngoại tệ mạnh, những loại máy móc thiết bị quý hiếm. Cũng như vận chuyển vũ
khí bằng hệ thống đường biển đạt hiệu quả cao, vấn đề va chạm ít khi xảy ra do đó tỷ
lệ tổn thất rất thấp.Và đặc biệt là vận chuyển bằng đường biển được khối lượng lớn mà
chi phí vận chuyển tương đối thấp. Song hành với những ưu điểm to lớn khi vận
chuyển, chi viện bằng đường biển, thì đường biển vẫn còn tại một số nhược điểm như
sau: Vận tải bằng đường biển phụ thuộc khá nhiều vào thời tiết, điều kiện tự nhiên, nếu
điều kiện tự nhiên không thuận lợi sẽ gặp nhiều khó khăn, gian nan. Đơi khi vận
chuyển khơng thể đến tận nơi, do kích thước lớn của các con tàu nên chỉ có thể vận
chuyển vũ khí, lương thực đến cảng sau đó sử dụng đường bộ để tiếp tục chi viện. Và
cuối cùng là, vận tải bằng đường biển đôi khi không thể tránh được sự phát hiện của
địch, vì vậy sẽ gặp nhiều nguy hiểm trong quá trình chi viện.
Trên con đường chi viện trên biển này, sự sáng tạo trong tổ chức và hoạt động của
nước ta được biểu hiện rõ qua nhiều khía cạnh:
Thứ nhất, là sự quán triệt đường lối quan điểm, tư tưởng chỉ đạo tác chiến của
Đảng; sáng tạo đề ra phương châm, phương thức vận chuyển linh hoạt, sáng tạo, phát
huy hiệu quả hoạt động vận chuyển chi viện chiến trường bằng đường biển. Từ thực tế
tổng kết qua các chuyến đi trinh sát của các tàu, Đảng ta rút ra nhận xét về cách thức,

15


bố trí lực lượng và hoạt động ngăn chặn trên biển của Mỹ- ngụy và chỉ ra: điểm mạnh
của địch: ưu thế về số lượng và chất lượng, vũ khí trang bị kĩ thuật, động cơ nhanh,
phạm vi kiểm soát rộng, phát hiện mục tiêu từ xa,…Điểm yếu của địch là: Chiến tranh
xâm lược phi nghĩa; lực lượng của địch tuy đơng, vũ khí trang bị kĩ thuật hiện đại
nhưng được huấn luyện cho tác chiến chính quy và hoạt động trên những tuyến nhất
định, trong những khoảng thời gian nhất định. Hơn nữa đại dương mênh mông, riêng
vùng ven biển có hàng nghìn, hàng vạn tàu thuyền của ngư dân ven biển làm ăn nên dù
địch có tăng cường lực lượng cũng khơng thể kiểm sốt hết được. Tìm ra được những
điểm mạnh, điểm yếu của địch để từ đó đề ra được những phương châm, phương thức
vận chuyển linh hoạt, sáng tạo.
Thứ hai, đó là biết dựa vào dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, các
địa phương, các ban, ngành đồng thời tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của bạn bè quốc
tế. Đó là thành công trong việc lựa chọn cán bộ, chiến sỹ người miền Nam kết hợp với
cán bộ miền Bắc được đào tạo cơ bản từ các trường chuyên ngành trong và ngoài quân
đội… nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, tạo sự gắn bó máu thịt, tình đồng chí, đồng đội
thân thiết, luôn chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau của đội ngũ cán bộ, chiến sỹ hai miền Nam,
Bắc, cùng chiến đấu vì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Và luôn
nhận được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế. Cụ thể: “Tính đến năm 1975, tổng số tàu vận
tải hải quân được nước bạn viện trợ là: Trung Quốc - 127 chiếc, Liên Xô - 21 chiếc”.
Thứ ba, đó là sự tích cực, khẩn trương xây dựng lực lượng, coi trọng công tác huấn
luyện đồng thời phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của mọi cán bộ, chiến sỹ làm
nhiệm 17 vụ vận chuyển, chi viện cho chiến trường miền Nam bằng đường biển.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước do địch luôn thay đổi các chiến thuật và
phương pháp bao vây, bám sát hoặc khiêu khích tàu ta nên đội ngũ cán bộ, chiến sỹ đã
luôn phát huy cao độ tinh thần chủ động, sáng tạo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi
viện cho chiến trường bằng đường biển.
Thứ tư, đó là sự tích cực trong nghiên cứu thiết kế, cải tiến, chế tạo các loại phương

tiện vận chuyển phù hợp với đặc điểm chiến trường miền Nam bằng đường biển. Từ
buổi đầu mò mẫm thiết kế loại thuyền gỗ với việc chưa tìm được kiểu tàu giống với
tàu thơng dụng của ngư dân ở miền Nam rồi tới tàu gỗ 35 tấn và sau đó là tàu vỏ sắt có
trọng tải từ 50- 100 tấn. Đó là một nỗ lực lớn của qn và dân ta - vì miền Nam giải
phóng, vì sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Thứ năm, là thành công trong tổ chức xây dựng lực lượng tinh gọn, việc chỉ huy
kiên quyết, linh hoạt và tuyệt đối giữ bí mật trong thực hiện việc chi viện. Trong chỉ
đạo xây dựng và phát triển lực lượng, Bộ tư lệnh hải quân chú trọng xây dựng và kiện
toàn hệ thống chỉ huy từ cấp quân chủng đến các đơn vị, các tàu đồng thời xây dựng
cơ quan, đơn vị gọn, mạnh, tinh nhuệ. Biết bố trí, xây dựng tổ chức biên chế một cách
khoa học, gọn mà tinh, giảm bớt khâu trung gian. Vấn đề bí mật chỉ huy vận chuyển
16


chi viện bằng đường biển có ý nghĩa sống cịn, từ ý định tổ chức lực lượng, hệ thống
chỉ huy, kế hoạch, phương thức vận chuyển, bí mật về lực lượng vận chuyển, bến, bãi,
hoạt động của tàu đều được giữ kín.
2.3. Đường ống xăng dầu:
Đường ống xăng dầu dài 1.700 km xuyên suốt chiều dài đất nước và mở rộng tới gần
5.000 km là một trong những yếu tố góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước. Bộ đội đường ống thực sự xứng đáng với đánh giá của Tư lệnh
Đồng Sỹ Nguyên: “Nếu đường Trường Sơn là huyền thoại thì đường ống xăng dầu là
huyền thoại trong huyền thoại đó”.
a) Hồn cảnh và q trình hình thành:
❖ Hồn cảnh:
Ban đầu việc vận chuyển xăng dầu được chiến trường miền Nam được vận chuyển
bằng xe nhưng vận chuyển bằng xe đến nơi thì xe chở đã tiêu thụ hết 2/3 số xăng chở
đi. Hơn nữa trên đường đi bằng xe còn bị máy bay Mỹ tập kích rất nhiều. Để khắc
phục tình trạng này, hậu phương đã phát huy mọi cách tìm mọi sáng kiến: làm đường
ống dẫn xăng bằng thân cây lồ ô, kiệu các phuy xăng qua trọng điểm, lót nilon vào

balo để gùi xăng… Tất cả các biện pháp đó đều khơng hiệu quả trái ngược lại cịn
mang tổn thất rất lớn.
❖ Quá trình hình thành:
Giữa năm 1967, trong một lần dự diễn tập của khối Warszawa, Chủ nhiệm Tổng
cục hậu cần Đinh Đức Thiện phát hiện quân đội Liên Xô trang bị cho cấp quân đoàn
bộ đường ống dã chiến loại có đường kính 100mm, mỗi bộ dài 100km và 12 trạm bơm
đẩy. Đồng chí đã đặt ngay vấn đề xin viện trợ và được bạn đồng ý.
Đường ống xăng dầu chia làm 2 ngả: một vượt đèo Ngụ Giai, sang Lào vươn tới Hạ
Lào, rồi vượt qua biên giới Lào và Campuchia tiến vào Nam Bộ. Ngả còn lại theo
đường Đông Trường Sơn đi tiếp qua Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, qua Tây Nguyên, vượt Kon Tum xuống Bình Phước. Hai hệ thống Đơng và Tây
Trường Sơn hội tụ trạm cuối ở Bù Gia Mập, thuộc tỉnh Phước Long, Đông Nam Bộ.
Bắt đầu tiến hành từ tháng 4/1968 với mật danh “Cơng trường Thuỷ lợi 01”, cơng
trình đường ống được khởi công từ Nghệ An, do trung tá Mai Trọng Phước, thuộc Cục
Xăng dầu, Tổng Cục Hậu Cần chỉ huy. Khi giao nhiệm vụ cho công trường 18 lãnh
đạo có một câu căn dặn nổi tiếng: “Nếu cần dát vàng để các đồng chí hồn thành
đường ống này thì lãnh đạo cũng khơng tiếc”.
Dưới bàn tay và khối óc của bộ đội và nhân dân ta, tuyến đường ống cứ vươn dần
về phía Nam, vượt qua vùng “ tam giác lửa” Vinh – Nam Đàn – Linh Cảm, vượt sông
La sông Lam để tới kho N1 tại Can Lộc, Hà Tĩnh. Từ Quảng Bình đường ống được
phân ra làm hai ngả: vượt Tây Trường Sơn và đi theo hướng Đơng Trường Sơn. Tính
đến năm 1972, hai đoạn đường ống Đông và Tây Trường Sơn đã lên tới 700 km với
kho dự trữ xăng dầu lên tới 12800m³.
Đường ống xăng dầu được xây dựng một cách tỉ mỉ để tránh được bom mìn đạn của
Mỹ. Những nơi đường ống qua sơng thì phải nằm chìm xuống đáy để mùa lũ không bị
cuốn trôi, bom ném không bị vỡ và quan trọng tránh được tầm nhìn của người Mỹ.

17



Những đường ống đi qua đất liền thì cho trâu cày thật sâu rồi đặt đường ống xuống rồi
cho dân trồng lúa lên. Tuy nhiên những nơi địa hình cao như đồi núi phải lắp đặt ống
lên đỉnh đèo, có những nơi độ cao lên đến 1000m lắp ống. Đây là độ cao mà trên thế
giới chưa từng có nước nào có đường ống dẫn dầu đạt đến độ cao này. Tuy nhiên khi
lắp đặt xong ống dầu chúng ta phải giải quyết vấn đề bơm dầu lên độ cao đó sao cho
đường ống khơng chịu áp suất q cao dẫn đến vỡ ống. Sau đó bộ đội ta đã lắp nhiều
ống bơm 35VNU 35/70 để bơm lên theo từng cấp.
b. Quá trình hoạt động:
❖ Giai đoạn 1968 - 1969:
Ngày 1-11-1968, ngay sau khi đế quốc Mỹ buộc phải ngừng ném bom miền Bắc,
Công trường 18 nhận nhiệm vụ xây dựng tuyến đường ống vượt Trường Sơn theo trục
đường 12 qua đèo Mụ Giạ (gọi là tuyến Hướng Tây) vào đến bản Ka Vát dài 80km.
Đúng Giao thừa Tết Kỷ Dậu (16-2-1969), xăng vào đến bản Na Tông trên đất Lào.
Đây là lần đầu tiên xăng đường ống vượt Trường Sơn và có mặt trên tuyến vận tải
chiến lược. Sau đó, tuyến này được nối thơng với Vinh, do Binh trạm 169 thuộc Tổng
cục Hậu cần.
Ngày 9-3-1969, lần đầu tiên 4 tiểu đoàn đường ống vận hành liên tuyến từ Vinh vào
tận Bản Sôi với tổng chiều dài 325km. Để rút ngắn quãng đường đưa xăng vào mặt
trận, ta chuyển hướng thi công tuyến vượt Trường Sơn sáng trục đường 18, sát với Vĩ
tuyến 17.
Ngày 22-12-1969, sau nhiều cuộc chiến đấu vô cùng gian khổ, ác liệt, xăng đến Bản
Cọ. Đây là sự kiện rất quan trọng vì nó đánh dấu sự hiện diện của xăng đường ống đến
Vĩ tuyến 17 sát chiến trường.
❖ Giai đoạn 1970 - 1973:
Năm 1970, Bộ Quốc phòng phê duyệt đề nghị của Bộ Tư lệnh Trường Sơn (trước
đây là bộ Tư lệnh 559) thành lập hai trung đoàn đường ống là Trung đoàn 592 do
Trung tá Mai Trọng Phước làm Trung đồn trưởng, Chính ủy là Trung tá Lê Đức và
trung đoàn 532 do Thiếu tá Nguyễn Tuấn làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Trần Ninh
Châu là chính ủy. Đây là hai lực lượng xây dựng đường ống xăng dầu đầu tiên của
Trường Sơn. Trên tồn bộ hệ thống này, đã có tới 316 trạm bơm đẩy, 101 kho với sức

chứa trên 300 nghìn m3.
Mùa khơ 1970-1971 và 1971-1972, Trung đồn 592, trung đồn đường ống đầu tiên
của Đồn 559 đảm nhiệm thi cơng, quản lý vận hành 135km tuyến, gồm tuyến dọc từ
điểm đầu tuyến 559 trên đường 18 đến nam sông Sê La - nông và tuyến ngang từ Bản
Cọ đến bản Na Lai trên trục đường 128. Nhờ hai tuyến này mà trong Chiến dịch
Đường 9 - Nam Lào, xăng được cấp phát đầy đủ cho cả chiến dịch và cho việc vận
chuyển vào Nam.
❖ Giai đoạn 1973 - 1975:
Tháng 2-1973, Trung đồn 532 đã thi cơng và vận hành tuyến ống 144km từ nam
Sê La - nông đến cách Sekong 24km. Nhờ tuyến ống mới phát triển của Trung đoàn
532, chúng ta đã hình thành được thế trận bảo đảm xăng dầu trên hai trục đường huyết
mạch của tuyến chi viện chiến lược là đường 128 và đường 22. Đặc biệt, xe của Binh
trạm 34 không phải vượt dốc “12 cua” hay dốc “Tử thần” để ra Mường Noòng lấy
xăng nữa.

18


Từ hai trung đoàn ban đầu, bộ đội Trường Sơn đã phát triển lên thành 4 trung đoàn
là các trung đoàn 671, 592, 532, 537 và một số phân đội độc lập. Có thể coi đây như
một binh chủng xăng dầu trong đội hình Binh chủng hợp thành trên chiến trường
Trường Sơn. Từ Quảng Trị có hai tuyến chạy dọc đông và tây Trường Sơn gặp nhau ở
bản Plei Khốc, ngã ba biên giới. Từ đây, đường ống chạy dọc theo biên giới Việt Nam
- Campuchia vào đến Bù Gia Mập trên đất Bình Phước. Nhờ xăng đường ống, chúng
ta đã bảo đảm cho hàng vạn xe vận tải và binh khí kỹ thuật mỗi ngày hành quân trên
đường Trường Sơn
Đến tháng 3-1975, trước các chiến dịch quyết định của cuộc kháng chiến, bộ đội
Trường Sơn đã xây dựng được 596 km đường ống kéo dài tới Bù Gia Mập (nay thuộc
Bình Phước), hình thành một hệ thống đường ống xăng dầu hồn chỉnh, liên hồn
Đơng và Tây Trường Sơn. Theo “Hồi ký Trường Sơn” của Đại tá Mai Trọng Phước,

sau là Cục trưởng Cục xăng dầu, Tổng Cục Hậu cần, thì hệ thống đường ống có tất cả
50 kho dã chiến liên hồn, có trữ lượng 27.050 m3 nhiên liệu, với 114 trạm bơm đẩy
với công suất bơm 600-800m3/ngày. Ngồi chiều dài tuyến dẫn dầu từ Bến Quang,
Quảng Bình vào tới Bù Gia Mập,Bình Phước có tổng chiều dài 1.445 km, thì tính tổng
hệ thống đường ống dẫn từ các ngả Lạng Sơn, Móng Cái vào Nhân Mục (Hà Nội) rồi
từ đây vào Quảng Bình với nhiều nhánh hợp lưu, nhánh phân chia, các đoạn song
song, đoạn nối ngang... tổng chiều dài của đường ống lên tới 5.000 km.
c) Đánh giá:
Ngành Đường ống xăng dầu Trường Sơn đã thực sự thỏa mãn kịp thời cho vận tải,
đảm bảo yêu cầu cơ động cao của các quân đoàn, các binh chủng với mọi quy mô, mọi
thời gian, mọi địa điểm, phục vụ đắc lực cho các chiến dịch… Đây được coi là “Huyền
thoại về đường ống xăng dầu xuyên Trường Sơn”.
Ưu điểm của đường ống nhiên liệu xăng dầu là nó có thể đương đầu với sự đánh
phá hủy diệt của không lực Hoa Kỳ. Thứ nhất, đường ống dã chiến là phương tiện vận
chuyển hiện đại, có khả năng vượt qua mọi địa hình, thời tiết phức tạp ở Trường Sơn.
Thứ hai, bộ đội có thể vác luồn lách trong rừng để thi cơng và giữ được bí mật do
đường ống có thể tháo lắp, với trọng lượng mỗi ống chỉ hơn 30kg. Thứ ba, nhờ ống
nhẹ, lắp ráp tiện lợi nên nếu không may bị bom đánh trúng thì vẫn có thể dễ dàng khắc
phục.
Hoạt động tổ chức trên con đường chi viện đường ống nhiên liệu xăng dầu tuy gặp
phải nhiều khó khăn từ sự cơng phá từ kẻ địch. Nhiều cán bộ, chiến sĩ hy sinh trong thi
cơng, khảo sát tuyến. Thêm vào đó là thời tiết khắc nghiệt, những trận mưa rừng, lũ
vây, sốt rét khiến quân số giảm đáng kể. Suốt ba tháng trời, tuyến ống khơng thể phát
triển được. Thêm vào đó, họ làm việc trong mơi trường xăng chì độc hại, nhiều người
trong họ sau này phải chịu những di chứng đau lòng. Hàng trăm cán bộ, chiến sĩ đã
ngã xuống trên tuyến đường ống khi khảo sát, thi công, khi vận hành, cứu tuyến.
Trong những tình thế vơ cùng hiểm nghèo đó, bộ đội đường ống Trường Sơn thắng
Mỹ khơng chỉ là sự ngoan cường, sẵn sàng hy sinh, mà còn là cuộc đấu trí vơ cùng
cam go của một binh chủng kỹ thuật với không lực Hoa Kỳ; họ đã có những điều
19



chỉnh kịp thời để thích ứng và khắc phục hồn cảnh khó khăn. Điều đó đã thể hiện ý
chí quyết tâm, tinh thần dũng cảm, mưu trí và đầy sáng tạo, góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc… Bộ đội đường ống thực sự xứng đáng với đánh
giá của Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên: “Nếu đường Trường Sơn là huyền thoại thì đường
ống xăng dầu là huyền thoại trong huyền thoại đó”.
2.4. Đường hàng khơng:
a) Hồn cảnh và q trình hình thành:
❖ Hồn cảnh:
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam
chuyển sang một giai đoạn mới. Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, khôi phục kinh tế,
đẩy mạnh sản xuất, xây dựng miền Bắc vững về mọi mặt làm chỗ dựa cho cuộc đấu
tranh chống Mỹ thống nhất hai miền Nam Bắc. Trong bối cảnh đó, việc ra đời một tổ
chức chính thức của ngành hàng khơng dân dụng của một Nhà nước độc lập và yêu
cầu xây dựng lực lượng không quân nhân dân để tăng cường khả năng bảo vệ tổ quốc
là một yêu cầu cấp thiết.
❖ Quá trình hình thành:
Với tầm nhìn chiến lược sâu rộng của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày
15/01/1956 Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký ban hành Nghị định số 666/TTG của
Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Cục Hàng khơng dân dụng thuộc Thủ tướng
Chính phủ, đặt nền móng cho sự ra đời, trưởng thành và phát triển bền vững của Hàng
không dân dụng Việt Nam.
Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh và dưới sự chỉ
đạo sáng suốt và đúng đắn của Quân ủy Trung ương và Bộ quốc phòng, sự nỗ lực phấn
đấu của Ban nghiên cứu sân bay, sự phối hợp hiệp đồng của các đơn vị quân đội, chính
quyền và nhân dân các địa phương, năm 1956 trên tồn miền Bắc khơi phục được 6
sân bay ở các tỉnh và thành phố như: Hà Nội, Hải Phịng, Vinh, Sơn La, Lai Châu,
Quảng Bình đã tạo ra một đầu mối giao thông quan trọng mà trung tâm là sân bay Gia
Lâm.

Tháng 2/1956, máy bay của Hàng không dân dụng Việt Nam đã bắt đầu thay thế
Hàng không Pháp để phục vụ Uỷ ban quốc tế giám sát việc thực hiện Hiệp định
Genève tại Việt Nam. Đặc biệt cùng thời gian này máy bay LI-2 số hiệu VN-198 đã
hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên cơ chở Bác Hồ và các cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà
nước và Quân đội đi công tác trong nước và các nhiệm vụ đặc biệt khác.
Trước yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, ngày 24/1/1959, Bộ Quốc phòng ban hành
Quyết định 319/QĐ thành lập Cục không quân trên cơ sở tổ chức và lực lượng của
Ban nghiên cứu sân bay và Cục Hàng không dân dụng. Ngày 1/5/1959 lực lượng Hàng
không dân dụng và Không quân vận tải đã được tăng cường và phát triển thành Trung
đồn Khơng qn vận tải 919 - đơn vị bay vận tải quân sự - hàng khơng dân dụng, tiền
thân của Đồn bay 919.

20


b) Q trình hoạt động:
Sau khi hồn thành kế hoạch khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh
(1955-1959), miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ cải tạo và thực hiện kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất và chi viện cho cho cách mạng miền Nam. Khi này, con đường chi viện
thứ tư của miền Bắc cho miền Nam là con đường hàng không, vừa tương đối an toàn,
hiệu quả cao, tốc độ nhanh. Nhiệm vụ vận chuyển do Đồn 919 đảm đương. Ban đầu,
hàng hóa được máy bay quân sự thả dù xuống Làng Ho, về sau, mở được sân bay ở Tà
Khống - tỉnh Sê Pơn Hạ Lào, hàng hóa, cán bộ, bộ đội được Đoàn 559, Đoàn 17
chuyển vào các chiến trường miền Trung, Nam Trung bộ và Nam Bộ…
Trong tình hình cả nước có chiến tranh, cán bộ, chiến sĩ khơng qn vận tải vừa làm
tròn nhiệm vụ quân sự, vừa làm nhiệm vụ bay dân dụng. Các tổ lái và máy bay mang
ký hiệu của Hàng không dân dụng Việt Nam nhưng thực chất lại là lực lượng quân
đội, nằm trong biên chế của Trung đồn Khơng qn vận tải 919 của Cục Khơng qn.
Trung đồn 919 đã tổ chức hàng ngàn chuyến bay vận tải phục vụ mở đường Trường
Sơn; vận chuyển vũ khí, khí tài phục vụ các đơn vị trong Qn chủng Phịng khơng Khơng qn và nhiệm vụ bay đột xuất theo yêu cầu của công tác sẵn sàng chiến đấu.

Đặc biệt trong thời gian này, Hàng không Việt Nam cùng với Liên Xô lập cầu hàng
không Liên Xô - Việt Nam - Lào để vận chuyển vũ khí đạn dược, lương thực, quân
trang, quân dụng, chuyển quân, bay trinh sát, liên lạc... làm nhiệm vụ quốc tế với cách
mạng Lào.
Trong ba năm từ 1960 -1962, trên chiến trường Lào, các máy bay của đoàn 919
phối hợp với phi công Liên Xô đã thực hiện 3.821 chuyến bay, vận chuyển 9.419 lượt
bộ đội và 743 tấn hàng hóa, thả 3.227 dù hàng và kiện hàng xuống 20 địa điểm khác
nhau trên đất Lào. Tuy nhiên tuyến vận tải máy bay quá cảnh sang Lào chỉ tồn tại đến
trước thời điểm Chính phủ Liên hiệp ba phái ở Lào bị xóa bỏ (1963). Ngày 14/2/1964,
bằng những máy bay thơ sơ như AN2, LI-2, IL-14, T-28 các chiến sĩ Không quân vận
tải đã làm bất ngờ kẻ thù bằng những chiến công hiển hách: hai phi công Nguyễn Văn
Ba và Lê Tiến Phước của Trung đồn Khơng qn vận tải 919 đã dùng máy bay T-28
thu được của địch bắn rơi máy bay C123 của Mỹ-Ngụy thả biệt kích trên bầu trời Tây
Bắc.
Từ năm 1965 không quân Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc nên không thể sử dụng
máy bay chở hàng vào Quảng Bình hoặc vượt lên tây Trường Sơn được nữa. Năm
1966 và 1967 Trung đoàn 919 đã bắn chìm 04 tàu biệt kích, bắn bị thương 03 tàu biệt
kích khác trên vùng biển Bắc bộ. Đây là chiến công trên mặt trận không đối biển.
Ngày 12/01/1968 đánh bom phá huỷ hoàn toàn trạm rađa chỉ huy máy bay Mỹ đánh
phá miền Bắc trên đồi Pa Thí (Lào). Đây là chiến công vang dội trên mặt trận không
đối đất.
Về bay chuyên cơ, Trung đoàn 919 thực hiện được 200 chuyến bay, đưa đón Bác
Hồ, các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Quân đội Việt Nam, thực hiện nghĩa vụ
quốc tế với các nước bạn Lào và Campuchia đảm bảo bí mật, an tồn tuyệt đối.
Trong chiến dịch Tết Mậu thân năm 1968, các chiến sĩ Không quân vận tải (Hàng
không dân dụng) đã dũng cảm, táo bạo vượt qua vĩ tuyến 17 chở vũ khí, lương thực
chi viện cho quân và dân ta anh dũng đánh địch ở mặt trận Trị - Thiên - Huế. Những
cánh bay với ý chí quyết tâm cao vì miền Nam ruột thịt đã bay trong đêm tối, sương
mù dày đặc rất khó tìm mục tiêu; nhiều tổ bay đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường.
21



Đến đầu năm 1973, sau khi ký hiệp kết Hiệp định Paris về Việt Nam, nhiều vùng
giải phóng hợp pháp đã hình thành ở miền Nam, hình thức vận chuyển hàng không
quân sự được sử dụng rộng rãi trở lại.
Từ năm 1960 đến tháng 4 năm 1975, Đoàn 919 đã chuyển xuống Đơng Bắc
Campuchia hơn 30.000 tấn vũ khí - hàng hóa quân sự, thuốc men, lương thực - thực
phẩm… và 60.000 lượt bộ đội, cán bộ. Con đường hàng khơng dân sự hồn tồn cơng
khai nhưng lại tuyệt đối bí mật, rất an tồn. Ta sử dụng hãng hàng không Cambodia và
France. Máy bay dân dụng từ Hà Nội đi Phnom Pênh và ngược lại hoặc từ Phnom
Pênh đi Quảng Châu, Hồng Kông và ngược lại. Tuyến đường này chuyên chở các cán
bộ cao cấp, thương binh nặng, phụ nữ, trẻ em và hàng hóa đặc biệt. Giấy tờ của hành
khách, hàng hóa đi lại đều giả nhưng rất tinh vi. Nhân viên hành nghề ở các sân bay
quá cảnh là người Hoa, Khơ Me, Lào, Ấn kiều, Pháp… có cảm tình với cách mạng
Việt Nam và là những người giỏi, có tín nhiệm của các hãng hàng khơng Cambodia và
France.
Ngày 15/5/1975, chiếc máy bay chuyên cơ của Hàng không dân dụng Việt Nam đã
bay từ Thủ đô Hà Nội vào thành phố Sài Gòn chở Chủ tịch nước Tơn Đức Thắng và
đồn đại biểu Đảng, Nhà nước ta vào dự lễ đại thắng giải phóng đất nước.
c) Đánh giá:
Về ưu điểm, con đường hàng không cùng các con đường Hồ Chí Minh huyền thoại
khác đã góp những cơng tích hết sức lớn lao vào sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Con đường thứ tư là con đường hàng khơng, bí mật trong cơng khai, đi từ
Phnom Pênh, bay qua lãnh thổ miền Nam Việt Nam, thậm chí bay qua chính Sài Gịn,
tới Hồng Kơng hoặc Quảng Châu rồi về Hà Nội. Sở dĩ, nói đây là con đường cơng
khai vì nó sử dụng một loại đường bay thương mại bình thường như mọi đường bay
khác. Nhưng cũng tuyệt mật vì trong đường bay bình thường đó là những “hành
khách” đặc biệt. Có thể nói, đây là một hành động vừa sáng tạo, vừa mạo hiểm trong
công cuộc chi viện miền Nam của nước ta.
Bên cạnh đó, về tổ chức, Cục Hàng không dân dụng Việt Nam thời kỳ này đã có sự

thay đổi quan trọng là việc hình thành các phịng đối ngoại, vận chuyển, tài chính thanh tốn quốc tế, ban quản trị hành chính, thương vụ, quản lý bay, kế hoạch, mặc dù
biên chế của Cục chỉ có 36 cán bộ, để nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công
cuộc xây dựng, trực tiếp chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải
quân của đế quốc Mỹ vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam, đấu tranh thống nhất
nước nhà. Trong hoàn cảnh chiến tranh, các cán bộ chiến sĩ Trung đoàn tập trung hoàn
thành xuất sắc hai nhiệm vụ vận chuyển đường không, trực tiếp tham gia chiến đấu,
lập cơng xuất sắc, có ý nghĩa lịch sử trong truyền thống của Không quân nhân dân và
hàng không dân dụng.
Về nhược điểm, khi đã mở con đường Trường Sơn Tây thì máy bay của trung đồn
919 bay thẳng sang Hạ Lào, ban đầu do chưa bố trí được sân bay thích hợp nên phải
dùng phương pháp thả dù hàng hóa xuống 1 số địa điểm quy định như: mường Phin,

22


mường 24 Phalan, thậm chí có những lúc khơng có dù để thả hàng thì các phi cơng
phải dùng phương pháp hạ thật thấp độ cao rồi thả thẳng hàng xuống mặt đất. Điều
này đã gây ra nhiều khó khăn cho q trình chi viện của ta.
2.5. Đường tài chính, chuyển ngân:
a) Hồn cảnh và q trình hình thành:
❖ Hồn cảnh :
Ngay từ năm 1955, sau khi bàn giao những khu vực địa bàn kháng chiến cho đối
phương và tổ chức tập kết phần lớn lực lượng ra Bắc, những cơ sở cịn lại ở Miền Nam
vẫn có nhu cầu thường xun về tài chính để duy trì hoạt động.
Trong thời gian này, đầu não kháng chiến còn lại ở Miền Nam là Xứ ủy Nam Bộ.
Trong đó Ban Tài chính Xứ ủy quản lý và thực hiện phân phối, điều động nguồn tài
chính này và do đồng chí Phạm Hữu Lầu - Phó Bí thư Xứ ủy kiêm Trưởng ban Tài
chính Xứ ủy trực tiếp chỉ đạo. Thời gian này, ban Tài chính Xứ ủy Nam Bộ đã chỉ
định một số đảng viên xây dựng cơ sở công khai làm tài chính cho Đảng từ nguồn
ngân quỹ này.

Nguồn tài chính cho kháng chiến được để lại và chi viện thời gian đầu như đã nói
trên. Đây được xem như nguồn vốn đầu tiên cho kháng chiến mà cũng từ đó nguồn
vốn này được duy trì, sinh lời phục vụ trang trải chi tiêu trong giai đoạn cách mạng
Miền Nam chưa phát triển mạnh.
Từ năm 1959, cục diện cách mạng Miền Nam chuyển biến lớn theo hướng tiến công
cách mạng, nhiều vùng căn cứ đã hình thành. Trước tình hình mới, để giải quyết bài
toán hậu cần tại chỗ, việc tăng cường chi viện tài chính cho miền Nam là nhu cầu bức
thiết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Trước thực tế này, lại một bài toán mới được đặt ra, Miền Bắc phải tăng nguồn thu
bằng ngoại tệ mạnh trong bối cảnh thực tế rất eo hẹp, thu không đủ trang trải cho nhập
khẩu và các nhu cầu chi đối ngoại khác. Nhiệm vụ mới được trao cho Cục Ngoại hối
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là tiến hành vận động bạn bè, các tổ chức quốc tế, thực
hiện đàm phán với Chính phủ các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa để có ngoại tệ
tự do chuyển đổi. Từ đó đổi sang tiền Sài Gịn tại ngân hàng nước ngoài chuyển về
Miền Bắc rồi bằng những con đường, phương tiện đặc biệt chi viện cho Miền Nam.
Ngân khoản từ các nguồn thu này dành riêng để chi viện cho Miền Nam.
❖ Quá trình hình thành :
Năm 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn khó khăn, đất nước ta
bị chia cắt làm hai. Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội và tập trung sức mạnh, sức mạnh
của chi viện cho miền Nam đánh giá Mỹ. Nam tiếp tục kháng chiến chống ngoại vi.
Tài chính chi cho yếu tố chiến lược kháng chiến làm viện dẫn miền Bắc hoặc làm các
tài trợ nước bạn. Nhưng việc vận chuyển tiền rất khó khăn, nếu theo chính thức
chuyển khoản thì khơng được vì domain Nam đang ở trong tay chính quyền Sài Gịn.
Để cơng tác hậu cần phục vụ kịp thời cho chiến trường, Bộ Chính trị quyết định
thành lập Quỹ Ngoại tệ đặc biệt với phiên hiệu B29. B29 tồn tại và hoạt động như
“ngân hàng ngoại hối đặc biệt”, phục vụ riêng việc chi viện cho chiến trường bằng

23



ngoại tệ gồm các loại tiền USD, tiền Sài Gòn, Riel Campuchia, Kip Lào và Bath Thái
Lan. Trụ sở của Phòng B29 được đặt tại trụ sở Ngân hàng Nhà nước.
Ban Tài chính đặc biệt trực thuộc Trung ương Cục miền Nam với bí số N2683. Đây
là đơn vị được Thường vụ Trung ương Cục miền Nam giao nhiệm vụ tiếp nhận chi
viện của Trung ương cho chiến trường miền Nam; đổi tiền, tổ chức cất giữ và vận
chuyển cho các khu và các tỉnh toàn miền Nam… Như vậy, tại miền Bắc, B29 là đơn
vị tổ chức tiếp nhận các nguồn giúp đỡ, hỗ trợ của các nước và chuyển cho N2683 tại
miền Nam để phục vụ kháng chiến.
b) Quá trình hoạt động:
Con đường đưa ngoại tệ vào chiến trường chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1: từ 1965-1973, vận chuyển bằng tiền mặt, mật danh gọi là AM. Ban
đầu, chỉ thực hiện vài chuyến qua đường hàng không Paris - Hà Nội - Phnom Penh.
Sau đó, do nhu cầu cần nhiều loại tiền, ngồi USD cịn cần cả tiền Sài Gòn, Riel
Campuchia, Bath Thái Lan, Kip Lào, việc cho tiền vào vali ngoại giao xách tay là
không thể. Vì thế phải dùng vali lớn đóng gói, ngụy trang thành nhiều kiện (có lúc
hàng trăm kg) chở bằng máy bay, tàu hỏa đưa ngoại tệ từ nước ngoài về Hà Nội, giao
C100 Tổng cục Hậu cần (Bộ Quốc phòng) cho vào hòm đạn và thùng sắt vận chuyển
vào chiến trường bằng ô tô, tàu thủy. Đến cuối năm 1972, ta đã móc được đường dây
trong nội đơ có thể chuyển đổi từ USD sang các loại tiền khác, từ đó việc vận chuyển
tiền mặt vào Nam đỡ cồng kềnh hơn.
Giai đoạn thứ 2: cuối năm 1973 đến 30-4-1975, giao dịch theo quy ước tay ba giữa
B29 với N2683 và thương gia Sài Gịn (nhận hàng trước, thanh tốn sau). Khi B29
nhận được điện mật từ N2683 gửi ra đã nhận đủ số tiền Sài Gòn từ thương gia, B29
điện cho ngân hàng ngoại thương có tài khoản tại nước ngồi, u cầu họ trích tài
khoản ghi có tài khoản của thương gia với số USD tương đương với số tiền mặt (theo
tỷ giá N2683 đã thỏa thuận) C130 đã nhận tại Sài Gòn. Một bên bán hàng thu USD ghi
có vào tài khoản ở nước ngồi (nơi nhập hàng); một bên bán USD ở nước ngoài lấy
tiền mặt tại Sài Gòn. Tiền mặt được lấy từ các tài khoản của thương gia tại ngân hàng
ở Sài Gòn, mật danh là FM, do tổ chức C130 và N2863 bảo quản, vận chuyển tới vùng
căn cứ địa cách mạng bằng nhiều phương thức ngụy trang đặc biệt để che mắt kẻ thù.


24


Sơ đồ chuyển tiền FM
Gian nan con đường đưa tiền vào chiến trường.
Hoạt động của B29 ở miền Bắc tuyệt đối bí mật, kịp thời nhanh chóng, chính xác và
phải theo dõi, giám sát được lộ trình của dịng tiền chi viện cho tiền phương. Khâu vận
chuyển tiền ở phạm vi phía Bắc với các nước bạn do B29 phụ trách thường sử dụng
các phương tiện như đường sắt, liên vận quốc tế, các hãng hàng không… và những cán
bộ chuyển ngân hoạt động như khách VIP đi công tác, các lộ trình đều tuyệt mật theo
nguyên tắc đơn tuyến.
Những cán bộ vận chuyển từ nước ngoài về Hà Nội thường được trang bị hộ chiếu
đỏ (hộ chiếu ngoại giao) mà các cán bộ khi đó gọi vui là “bùa hộ mệnh”, xách cặp
“diplomat”, ngồi ở phòng VIP trước khi lên máy bay.
Chuyển tiền vào miền Nam là hành trình tiếp theo bằng nhiều con đường khác
nhau.
- Trên đường bộ, việc đóng gói và vận chuyển do C100 - đơn vị vận tải của đoàn
559, Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc phòng phụ trách. Đến thời điểm hẹn C100 và
B29 tiến hành các thủ tục, giấy tờ giao nhận, đóng thùng đặc chủng chở đi. Tiền
được đóng trong hịm kẽm chống cháy, cho vào thùng gỗ ngụy trang chạy dọc theo
đường Trường Sơn vào các chiến khu.

25


×