Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Phá giá đồng tiền tệ và những ảnh hưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.89 KB, 6 trang )

PHÁ GIÁ TIỀN TỆ: LỢI BẤT CẬP HẠI
Posted on 22/12/2010 by Civillawinfor

TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG – Trường Cao đẳng Nguyễn Tất Thành
Cơ sở lý luận của phá giá tiền tệ
Xét về mặt lý thuyết, biện pháp phá giá tiền tệ thường được thực hiện để tăng sức cạnh tranh
của hàng hóa nội địa nhằm cải thiện cán cân thanh tốn vãng lai. Tuy nhiên, điểm yếu của phá
giá là sẽ làm tăng giá hàng hóa trong nước, ảnh hưởng lên lạm phát. Do đó, để hạn chế lạm
phát, các biện pháp thường được sử dụng là đồng thời phải giảm thâm hụt ngân sách và thực
hiện chính sách tiền tệ thắt chặt.
Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với tài khoản vãng lai
Mục tiêu của phá giá tiền tệ là làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa và từ đó cải thiện
cán cân thanh tốn vãng lai. Khi đồng nội tệ giảm giá sẽ làm tăng tỷ giá danh nghĩa, kéo theo tỷ
giá thực tăng sẽ kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân thương mại. Khi
tỷ giá tăng (phá giá), giá xuất khẩu rẻ đi khi tính bằng ngoại tệ, giá nhập khẩu tính theo đồng nội tệ tăng được gọi là
hiệu ứng giá cả. Khi tỷ giá giảm làm giá hàng xuất khẩu rẻ hơn đã làm tăng khối lượng xuất khẩu trong khi hạn chế
khối lượng nhập khẩu. Hiện tượng này gọi là hiệu ứng khối lượng.
Tuy nhiên, việc cán cân thương mại xấu đi hay được cải thiện tùy thuộc vào hiệu ứng giá cả và hiệu ứng số lượng cái
nào trội hơn.
- Trong ngắn hạn, khi tỷ giá tăng trong lúc giá cả và tiền lương trong nước tương đối cứng nhắc sẽ làm giá hàng hóa
xuất khẩu rẻ hơn, nhập khẩu trở nên đắt hơn: các hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết với tỷ giá cũ, các doanh
nghiệp trong nước chưa huy động đủ nguồn lực để sẵn sàng tiến hành sản xuất nhiều hơn trước nhằm đáp ứng nhu
cầu xuất khẩu tăng lên, cũng như nhu cầu trong nước tăng lên. Ngoài ra, trong ngắn hạn, cầu hàng nhập khẩu khơng
nhanh chóng giảm còn do tâm lý người tiêu dùng. Khi phá giá, giá hàng nhập khẩu tăng lên, tuy nhiên, người tiêu
dùng có thể lo ngại về chất lượng hàng nội chưa có hàng thay thế xứng đáng hàng nhập làm cho cầu hàng nhập
khẩu chưa thể giảm ngay. Do đó, số lượng hàng xuất khẩu trong ngắn hạn không tăng lên nhanh chóng và số lượng
hàng nhập cũng khơng giảm mạnh. Vì vậy, trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả thường có tính trội hơn hiệu ứng số lượng
làm cho cán cân thương mại xấu đi.
- Trong dài hạn, giá hàng nội địa giảm đã kích thích sản xuất trong nước và người tiêu dùng trong nước cũng đủ thời
gian tiếp cận và so sánh chất lượng hàng trong nước với hàng nhập. Mặt khác, trong dài hạn, doanh nghiệp có thời
gian tập hợp đủ các nguồn lực để tăng khối lượng sản xuất. Lúc này sản lượng bắt đầu co giãn, hiệu ứng số lượng


có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện.
Một số nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tác động lên cán cân thương mại sau khi phá giá bao gồm:
- Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu: Đối với các nền kinh tế đang phát triển (Việt Nam thuộc nhóm
nước này), có một số hàng hóa các nền kinh tế này khơng thể sản xuất được hay có sản xuất được đi nữa thì
chất lượng khơng tốt bằng hoặc giá cả có thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng
cũng không thể lựa chọn hàng trong nước. Điều này làm kéo dài thời gian của hiệu ứng giá cả.
- Tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu: Đối với các nước đang phát triển, yêu cầu về chuẩn hàng hóa tham gia
thương mại quốc tế cao, cho nên một sự phá giá tiền tệ làm cho khối lượng xuất khẩu tăng chậm hơn. Điều này làm
cho hiệu ứng khối lượng ít có tác động đến cán cân thương mại hơn ở các nước đang phát triển. Vì vậy, tác động
cải thiện cán cân thương mại của phá giá ở các nước phát triển thường mạnh hơn ở các nước đang phát triển.
- Tỷ trọng hàng nhập khẩu trong giá thành hàng sản xuất trong nước: Nếu tỷ trọng này cao, giá thành sản xuất của
hàng hóa trong nước sẽ tăng lên khi hàng nhập khẩu tăng giá. Điều này làm triệt tiêu lợi thế giá rẻ của hàng xuất
khẩu khi phá giá. Cho nên, phá giá tiền tệ chưa hẳn đã làm tăng khối lượng hàng xuất khẩu.
- Mức độ linh hoạt của tiền lương: Động thái phá giá tiền tệ thường làm chỉ số giá hàng tiêu dùng tăng lên. Nếu tiền
lương linh hoạt, nó sẽ tăng theo chỉ số giá. Điều này làm tăng chi phí sản xuất, từ đó làm cho giá hàng trong nước
giảm bớt lợi thế có được từ phá giá tiền tệ.


- Tâm lý người tiêu dùng và thương hiệu quốc gia của hàng hóa trong nước: Nếu người tiêu dùng trong nước có tâm
lý sùng hàng ngoại, thì một sự đắt lên của hàng nhập và sự rẻ đi của hàng trong nước có tác động đến hành vi tiêu
dùng của họ, họ sẽ tiếp tục sử dụng hàng nhập mặc dù giá có đắt hơn. Tiếp theo, mức độ gia tăng số lượng hàng
xuất khẩu phụ thuộc vào sự tin tưởng và ưa chuộng hàng hóa xuất khẩu của người tiêu dùng nước ngoài.
Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với lạm phát
Do giá cả nhập khẩu tăng, nên giá cả nội địa cũng thường tăng lên sau khi thực hiện phá giá tiền tệ. Ảnh hưởng này
sẽ càng lớn nếu nhập khẩu chiếm một tỉ trọng lớn trong tiêu dùng nội địa và nếu nhà xuất khẩu đặt giá nội địa cao
bằng với giá xuất khẩu sang nước ngoài. Việc tăng giá hàng nội địa sẽ làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giá cả –
lương. Nếu lương được điều chỉnh theo mức độ lạm phát thì trong trường hợp này lương sẽ tăng. Như vậy, sẽ dẫn
tới hiện tượng lạm phát leo thang gây ảnh xấu đến tiết kiệm, đầu tư, phát triển kinh tế, phân bổ thu nhập cũng như ổn
định chính trị. Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ gây nên lạm phát có thể kiểm sốt được bằng cách giảm tín dụng kinh
tế và giảm thâm hụt ngân sách.

Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đối với sản xuất
Trong ngắn hạn, việc tăng giá sẽ làm giảm tiền lương thực tế (trước khi lương danh nghĩa được điều chỉnh),
đồng thời giảm tài sản của người dân đang được cất giữ dưới dạng đồng tiền nội địa, tài khoản ngân hàng và
trái phiếu nội địa. Tài sản của người dân sẽ không bị ảnh hưởng nhiều nếu họ cất giữ dưới phương thức tài
sản nước ngoài. Giảm thu nhập thực tế sẽ hạn chế người dân tiêu dùng dẫn tới giảm mức chi tiêu của quốc
gia. Do vậy, thơng thường sẽ có sự tái phân bổ thu nhập và tài sản sau khi phá giá tiền tệ. Tuy nhiên, nếu việc
tái phân bổ này được thực hiện ở nhóm dân số có mức tiêu dùng thấp thì vẫn dẫn tới việc giảm chi tiêu của
quốc gia. Việc giảm chi tiêu có thể cải thiện tài khoản vãng lai, nhưng đồng thời cũng làm giảm cầu đối với
hàng hóa nội địa, từ đó gây ra thất nghiệp trong một số ngành kinh tế. Qui mô sản xuất sẽ tăng hoặc giảm phụ
thuộc vào mức độ chi tiêu chính phủ và tốc độ ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đến việc sản xuất hàng xuất khẩu
và hàng thay thế hàng nhập khẩu.
Ảnh hưởng của phá giá tiền tệ đến ngân sách
Phá giá tiền tệ có thể có những ảnh hưởng gián tiếp đến ngân sách, có thể cải thiện hay làm thâm hụt ngân sách.
Điều này phụ thuộc vào tầm quan trọng của các khoản thu và chi chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ giá hối đoái.
- Xét về nguồn thu ngân sách bao gồm các khoản như thuế xuất nhập khẩu và viện trợ nước ngồi. Phá giá có xu
hướng làm tăng thuế thu đối với giao dịch thương mại nước ngoài. Mức độ ảnh hưởng của chính sách này phụ
thuộc vào tương quan so sánh giữa thuế thu từ xuất nhập khẩu và tổng thuế thu được, độ co giãn về thuế, độ co
giãn theo giá của xuất nhập khẩu. Nếu đất nước nhận được một lượng lớn viện trợ nước ngoài, thì khoản thu này
cũng sẽ tăng theo tỉ lệ của phá giá tiền tệ.
- Xét về nguồn chi ngân sách gồm những khoản bù trừ nguồn thu. Trước hết, nếu đất nước đang có một khoản nợ
nước ngồi lớn, thì việc phá giá tiền tệ sẽ làm cho họ phải trả khoản lãi suất lớn. Thứ hai, khoản chi của chính
phủ cho mua xăng dầu, máy tính, thiết bị quân sự từ nước ngoài sẽ tăng lên.
Phá giá tiền tệ: những điểm bổ sung
Khi xem xét có nên giá tiền tệ hay khơng, các nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc cẩn trọng các yếu tố có ảnh
hưởng đến hiệu quả của phá giá tiền tệ:
- Xuất khẩu sản phẩm có nhiều nguồn gốc nhập khẩu: Một số lĩnh vực sản xuất tại một quốc gia, cần thiết phải nhập
nguyên liệu thô hoặc sản phẩm sơ chế làm đầu vào cho sản xuất xuất khẩu. Trong trường hợp này, phá giá tiền tệ
làm tăng giá thành sản xuất hàng xuất khẩu, và làm hạn chế cơ hội có giá cả cạnh tranh hơn so với những hàng xuất
khẩu mà đầu vào chỉ bao gồm hàng hóa trong nước. Do đó phá giá tiền tệ đặc biệt thuận lợi cho các ngành sản xuất
mà nguyên liệu đầu vào là các hàng hóa nội địa – ví dụ khống sản và nơng nghiệp.

- Chi phí sản phẩm thiết yếu: Các nước đang phát triển đặc biệt phụ thuộc vào một số sản phẩm nhập khẩu, đầu tư,
năng lượng và sản phẩm y tế. Phá giá tiền tệ làm giá thành các sản phẩm này tương đối đắt đỏ và có thể có tác
động tiêu cực đến tăng trưởng và đời sống nhân dân.
- Nợ nước ngồi: Một số nước nghèo ln ở trong tình trạng vay nợ nước ngồi nhiều. Việc phá giá danh nghĩa đồng
tiền nội địa làm tăng nợ nước ngồi tính bằng đồng nội địa. Điều này đặt ra nhiều vấn đề cho ngân sách nhà nước,
do phải trả lãi, và các khoản trả góp nước ngồi cao do đồng ngoại tệ tăng giá. Trong những trường hợp này, cần
thay


đổi thuế và chi tiêu chính phủ. Các cơng ty tư nhân có nợ nước ngồi cũng có thể bị ảnh hưởng lớn đặc biệt nếu sản
phẩm của các công ty này hướng vào thị trường nội địa.
- Vấn đề cơ cấu chính sách: Khi có tác động của những chính sách như trợ giá, kiểm sốt giá hoặc hạn ngạch xuất
khẩu, sẽ làm cản trở sự cân bằng các nhân tố bên ngoài theo qui luật kinh tế. Những vấn đề này cần được xử lý ngay
nếu không phá giá tiền tệ sẽ khơng có ý nghĩa.
Phá giá tiền tệ không chỉ tác động đến những vấn đề kinh tế mà còn ảnh hưởng đến những vấn đề mang tính chính
trị, xã hội. Vì thế, để thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ, các nước đều phải xem xét và cân nhắc một cách
kỹ lưỡng các mặt lợi và hại của biện pháp này dựa trên tất cả các khía cạnh của nền kinh tế.
Phá giá tiền tệ trong điều kiện kinh tế Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của phá giá đến cán cân vãng lai
Mục tiêu của phá giá là để cải thiện cán cân vãng lai, có nghĩa là góp phần vào làm giảm sự mất cân bằng giữa tiết
kiệm vào đầu tư. Nhưng đối với Việt Nam, liệu biện pháp phá giá có cải thiện được cán cân thương mại hay không khi
hầu hết các mặt hàng sản xuất trong nước đều phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu (90% tổng giá trị hàng nhập
là nhập nguyên vật liệu sản xuất), ngay cả hàng xuất khẩu cũng đến 70% là giá trị hàng nhập. Bên cạnh đó, năng lực
sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu và hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu ở Việt Nam đều còn hạn chế.
Thâm hụt cán cân thương mại đã trở thành một hiện tượng thường nhật trong cán cân thanh toán tổng thể của Việt
Nam trong nhiều năm gần đây. Thực trạng này bắt nguồn sâu xa từ chính sự mất cân đối trong cơ cấu xuất nhập
khẩu.
- Cơ cấu xuất khẩu (Xem bảng 1)
Bảng 1Tỷ trọng một số mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu giai đoạn 2005- T9/2010


2005
Thủy sản 8.42%
Gạo
1.58%
Dầu thô 21.01%
Cao su 3.60%
Gỗ và
sản phẩm
5.05%
gỗ
Dệt, may 16.16%
Giày dép 10.77%
Điện tử,
máy tính 4.71%

2006
8.57%
1.23%
16.97%
2.83%

2007
7.66%
0.47%
18.83%
3.64%

2008
7.35%
3.67%

11.22%
2.45%

2009
7.08%
2.93%
7.79%
3.60%

2010
7.38%
4.26%
6.07%
3.98%

5.29% 4.89%
13.43% 15.96%
10.00% 8.30%

5.10%
16.73%
9.18%

5.78%
16.13%
8.63%

4.59%
17.21%
6.23%


5.43%

4.49%

4.76%

5.08%

4.89%

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Nhìn vào cơ cấu xuất khẩu, danh mục hàng xuất khẩu cịn chậm đa dạng hóa, tỷ trọng kim ngạch 8 mặt hàng chiếm
tỷ trọng lớn trong xuất khẩu, tuy giảm từ 71,3% năm 2008 xuống 54,8% trong 9 tháng đầu năm 2010, nhưng phần
lớn là do xuất khẩu dầu thơ giảm mạnh. Cùng lúc đó, một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như gỗ và
sản phẩm gỗ, dệt may và giày dép vẫn phụ thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu nên giá trị gia tăng thấp.
- Cơ cấu nhập khẩu (Xem bảng 2)
Bảng 2
Tỷ trọng một số mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu giai đoạn 2005- T9/2010

Vải
6.97%
Nguyên PL2005
Xăng
dầu 12.58%
dệt, may,
6.67%
giày
dép
Chất dẻo 3.52%

Sắt thép 7.30%
Điện tử,
máy tính
4.85%
và LK

7.00%
2006
11.30%
4.50%
4.38%
6.93%

5.87% 6.11%
2007
2008
13.22% 8.33%
3.33% 3.19%
3.33%
4.17%
8.40% 9.07%

5.41%
2009
7.37%
2.58%
3.71%
6.82%

9t

đầu
6.01%
2010
6.35%
3.08%
4.84%
6.88%

5.25%

4.76%

5.96%

6.57%

5.93%


Ơ tơ
Máy móc,
thiết bị,
DC, PT
khác
Hóa chất
Sản phẩm
hố chất

2.73%


2.00%

5.54%

3.50%

15.15% 16.25% 15.87% 22.22%
2.27% 2.25% 2.38% 2.04%

19.62%
2.08%

15.38%
2.59%

2.42%

2.46%

2.52%

2.25%

3.22%

1.98%

2.35%

2.13%


(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Tỷ trọng 10 mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn không thay đổi nhiều từ năm 2005 (64,5%) đến nay (58%). Nhóm hàng
tư liệu sản xuất vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Cơ cấu này cho thấy nhập khẩu của ta chủ yếu là để phục vụ sản xuất nên
những biện pháp kiềm chế nhập khẩu hiện nay tập trung vào các nhóm hàng hóa tiêu dùng đặc biệt như ơ tơ, xa xỉ
phẩm… sẽ chỉ có thể có những tác động nhỏ đến tình trạng nhập siêu hiện nay. Hơn thế nữa, tỷ lệ nhập khẩu trong
sản phẩm xuất khẩu của nước ta ở mức cao (theo một số tính tốn là khoảng 70%) dẫn tới thực tế là muốn tăng
xuất khẩu thì nhất thiết phải tăng nhập khẩu, làm hạn chế khả năng gia tăng xuất khẩu nhanh hơn so với nhập khẩu.
- Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu
Việt Nam là một nền kinh tế đang phát triển, mà đối với một nền kinh tế đang phát triển, có một số hàng hóa mà các
nền kinh tế này khơng thể sản xuất được hay có sản xuất được đi nữa thì chất lượng khơng tốt bằng hoặc giá cả có
thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng cũng khơng chắc sẽ lựa chọn hàng trong
nước. Như vậy, nếu thực hiện phá giá, nền kinh tế Việt Nam với năng lực sản xuất hàng thay thế cho hàng nhập
khẩu còn hạn chế, có thực sự hạn chế được nhập khẩu để cải thiện cán cân thương mại hay không?
- Năng lực sản xuất hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu
Đa phần các doanh nghiệp Việt Nam vẫn là sản xuất nhỏ lẻ và có năng suất thấp. Chất lượng hàng hóa, kể cả
những mặt hàng chiến lược là gạo, cà phê, hạt tiêu, thủy, hải sản chế biến là những mặt hàng Việt Nam chiếm vị trí
nhất nhì trên thế giới thì chất lượng sản phẩm của chúng ta cịn kém so với các nước có cùng mặt hàng trong châu
lục vì thế tỷ lệ hàng xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ và châu Âu cịn nhỏ. Thêm vào đó, cơ sở hạ tầng cho sản xuất
các mặt hàng xuất khẩu và xuất khẩu lớn còn rất manh mún và chưa đủ sức để thúc đẩy sản xuất đại trà. Nếu các
doanh nghiệp trong nước khơng có năng lực sản xuất hàng xuất khẩu (cung cấp không đủ lượng, chất theo nhu cầu
của đối tác) hoặc khơng tìm được thị trường xuất khẩu cho mình thì khi Chính phủ thực hiện phá giá, những cơ hội
kinh doanh tốt mà Chính phủ hướng tới thông qua phá giá sẽ bị bỏ lỡ, hoạt động xuất khẩu và cán cân thương mại
không chắc chắn có thể được cải thiện.
Luồng vốn vào – ra trong nền kinh tế
Dòng vốn vào là một nguồn quan trọng, bù đắp lại thâm hụt thương mại cho nước ta trong những năm gần đây. Dòng
chu chuyển vốn (qua các kênh FDI, FII và vay nợ) nhìn chung tăng qua các năm, đặc biệt tăng mạnh từ năm 2007
sang năm 2008 – đạt mức cao kỷ lục vào năm 2008. (Xem biểu 1)
Biểu 1



Như vậy, nếu thực hiện phá giá mạnh sẽ có thể gây ra tâm lý lo ngại về các bất ổn, yếu kém trong nền kinh tế Việt Nam cho các nhà đầu tư, có thể khi
Ảnh hưởng của phá giá đến lạm phát
Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng CPI cho thấy nhìn chung, CPI từ năm 2001 đến 2008 tăng khá mạnh, đặc biệt là hai năm 2007 và 2008 (12,6% và 19,89%)

Khi thực hiện phá giá, do giá cả nhập khẩu tăng nên giá cả nội địa cũng thường tăng lên, gây áp lực lên lạm phát.
Điều này đã từng xảy ra ở Trung Quốc, khi Trung Quốc phá giá CNY 50% năm 1994, Trung Quốc đã phải đối mặt với
lạm phát tăng cao, năm 1994 là 24,24%, tăng hơn 66,25% so với mức lạm phát năm 1993. Xét trên khía cạnh này thì
trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, khi mà phá giá có cải thiện cán cân thương mại hay khơng cịn chưa chắc
chắn (như đã phân tích ở trên) thì lạm phát đã tăng. Trong khi đó, Việt Nam với thực trạng kinh tế như hiện nay khó
có thể chấp nhận trước tình trạng tái lạm phát trở lại.
Một điểm khác hết sức quan trọng là hiện nay Chính phủ đang kêu gọi hạ lãi suất. Trong khi đó, thơng thường, nếu
NHNN phá giá nội tệ, để có thể kiềm chế lạm phát, biện pháp thường được sử dụng theo lý thuyết là thắt chặt tiền tệ,
nghĩa là phải tăng lãi suất. Như vậy, việc phá giá nội tệ sẽ có thể trở thành mâu thuẫn với chủ trương giảm lãi suất
của Chính phủ.
Tình trạng đơ la hóa trong nền kinh tế Việt Nam


Việt Nam là nền kinh tế đơ la hóa, trong suốt thời kỳ cải cách, mức độ đơla hóa tính theo tiêu chí của IMF có giảm
dần, song so với các nước trên thế giới Việt Nam vẫn là nước bị đơla hóa. Tâm lý đầu cơ và găm giữ ngoại tệ rất phổ
biến trong nền kinh tế. Nhận biết được điều này, Chính phủ và đặc biệt là NHNN Việt Nam đã và đang hết sức nỗ lực
để hạn chế tình trạng đơ la hóa. Nếu phá giá VND vào lúc này mà khơng có biện pháp đi cùng để ngăn chặn tâm lý kỳ
vọng vốn đang tồn tại khá mạnh trên thị trường tiền tệ Việt Nam, khi hệ quả của dư âm về lạm phát năm 2008 vẫn
cịn, sẽ khiến người dân và doanh nghiệp tích cực dự trữ ngoại tệ, làm cho cung ngoại tệ không những khơng được
cải thiện mà cịn đẩy cầu ngoại tệ lên cao; ảnh hưởng không tốt tới nỗ lực hạn chế đơ la hóa của các nhà điều hành.
Thậm chí, trong trường hợp các giải pháp khơng tạo được lịng tin, thì mục đích ngăn chặn những bất ổn trong nền
kinh tế trong việc phá giá VND không những không giải quyết được, mà có thể cịn đẩy nền kinh tế tới chỗ bất ổn
hơn.
Ảnh hưởng của phá giá đến ngân sách


Phá giá tiền tệ có thể cải thiện hoặc làm thâm hụt ngân sách còn phụ thuộc rất nhiều vào việc các nguồn thu, chi ngân sách có chịu ảnh hướng trực tiếp bởi tỷ giá hay khô
Xem xét cơ cấu thu ngân sách của Việt Nam thì tỷ lệ thu ngân sách từ dầu thô và xuất nhập khẩu chiếm tỷ trọng khá cao, khoảng gần 40% trong tổng nguồn thu của ngân
Xét về cơ cấu chi, thì khoản chi lớn nhất mà chịu tác động lớn của tỷ giá là các khoản vay để bù đắp thâm hụt ngân sách bằng ngoại tệ.
Xem xét vấn đề nợ nước ngoài (Xem bảng 3)

Bảng 3
Tổng số dư nợ nước ngồi so với GDP (%)

2005
31.2

2006
31.4

2007
32.5

2008
29.8

2009
39.0

Nguồn: Bộ Tài chính
Xem xét tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam, nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP bằng 39%, thuộc diện quốc
gia có nợ nước ngồi vừa phải, nếu xét theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới. Hiện nay, nợ nước ngồi của
Chính phủ Việt Nam tập trung chủ yếu vào các loại tiền JPY, USD, EUR, SDR. Cụ thể, lớn nhất là các khoản vay
bằng đồng Yên, chiếm 41,96%; SDR chiếm 27,39%; vay theo đồng USD chiếm 16,61%; vay bằng đồng Euro chiếm
10,68%; còn lại là các đồng tiền khác chiếm 3,37% tổng dư nợ nước ngồi Chính phủ. Mặc dù cơ cấu đồng tiền vay
trong tổng dư nợ nước ngồi Chính phủ cũng khá đa dạng, được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp lực

lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ nhưng khơng thể phủ nhận thực tế những dao động của tỷ giá sẽ có
ảnh hưởng nhất định đến giá trị của các khoản nợ khi quy đổi ra nội tệ.
Tóm lại, để thực hiện chính sách phá giá đồng nội tệ, phá giá phải được xem xét và cân nhắc một cách kỹ lưỡng các
mặt lợi và hại dựa trên tất cả các khía cạnh của nền kinh tế; phải đảm bảo nền kinh tế đã có đủ các điều kiện để có
thể phát huy tốt mặt tích cực và hạn chế được những mặt tiêu cực của việc phá giá. Thêm vào đó, mức độ phá giá là
bao nhiêu cũng phải được cân nhắc cẩn thận, dựa trên tình hình cụ thể.
Nếu có quyết định phá giá, cũng phải phá giá có lộ trình. Để tránh việc phá giá sẽ dẫn đến lạm phát tăng cao và từ đó
dẫn đến bất ổn định vĩ mơ, đi kèm với phá giá cần phải có một sự phối hợp chặt chẽ giữa các chính sách kinh tế vĩ
mơ mà trong đó quan trọng nhất là sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách tài khóa với hiệu quả
đầu tư cao. Thêm nữa, có lẽ cần có một quỹ dự trữ ngoại hối đủ mạnh để can thiệp trong thời gian đầu sau khi tiến
hành phá giá.



×