1
MỤC LỤC
Trang
PHẦN A: MỞ ĐẦU………………………………………
1.
Lý
do
chọn
đề
tài
3
3
2.
Mục
đích,
nhiệm
vụ
nghiên
cứu
4
3.
Đối
tượng,
phạm
vi
nghiên
cứu
4
4.
Cơ
sở
lý
luận
và
phương
pháp
nghiên
cứu
4
5.
Ý
nghĩa
lý
luận
và
thực
tiễn
của
đề
tài
4
6.
Kết
cấu
của
tiểu
luận
5
6
PHẦN B: NỘI DUNG………………………………………
Chương 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM, TẦM QUAN TRỌNG, MỤC
ĐÍCH, CÁC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
6
CÔNG TÁC GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG…………………………………………
1.1. Các khái niệm liên quan……………………………………..
6
1.2. Khái niệm, tầm quan trọng, mục đích, các quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về công tác giám sát của Đảng…………...
6
Chương 2: PHÂN TÍCH NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG
CƠNG TÁC GIÁM SÁT HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP KHẮC
PHỤC………………………………………………………………………….
9
2.1. Phân tích những hạn chế, bất cập trong công tác giám sát hiện
nay……………………………………………………………………….
2.2. Những giải pháp ………………………………………….
9
12
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CÔNG TÁC GIÁM
SÁT TRONG ĐẢNG TẠI ĐẢNG BỘ HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH
SĨC TRĂNG HIỆN NAY…………………………………………………
3.1. Đặc điểm tình hình…………………….........................................
3.2. Kết quả công tác giám sát trong Đảng trong Đảng bộ huyện từ
16
16
năm 2020 đến nay…………………………………………………….
3.3. Giải pháp vận dụng……………………………………………
PHẦN C: KẾT LUẬN………………………………………….......
TÀI
LIỆU THAM KHẢO…………………………….
16
18
21
……………
21
PHẦN A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2
Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 30/7/2007, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng xác định“Kiểm tra, giám sát là nội dung rất quan trọng trong quá trình lãnh
đạo của Đảng, là chức năng lãnh đạo, nhiệm vụ thường xun của tồn Đảng…
Tăng cường cơng tác kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng, sự đoàn kết thống nhất và bảo đảm thực hiện dân chủ trong
Đảng, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng”; trong đó cùng với công tác kiểm tra,
công tác giám sát là nhiệm vụ quan trọng, qua giám sát chủ động nắm chắc tình
hình và đánh giá đúng hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi lãnh
đạo, quản lý; phát huy ưu điểm, phát hiện hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm, kịp thời
uốn nắn, chấn chỉnh, khắc phục; cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm của tổ
chức đảng, đảng viên từ khi còn manh nha nên đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ
chức thực hiện có hiệu quả cơng tác giám sát góp phần quan trọng trong việc giáo
dục và đấu tranh ngăn ngừa vi phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, hoàn
thành các nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, cơng tác giám sát phát hiện vi phạm
có nơi cịn bị động, nhận thức về cơng tác giám sát để phòng ngừa vi phạm đối với
tổ chức đảng chưa đồng đều ở các cấp, các ngành, nhiều vụ việc vi phạm chưa
được phát hiện kịp thời; việc lãnh đạo, tổ chức thực hiện công tác giám sát có nơi
chưa được quan tâm đúng mức. Do đó việc nâng cao nhận thức lý luận, phân tích
những hạn chế, bất cập trong công tác giám sát hiện nay và giải pháp khắc phục
trong thời gian tới là hết sức cần thiết và với lý do trên em xin hoàn thành tiểu luận
thay thế bài thi với chủ đề “Phân tích những hạn chế, bất cập trong cơng tác giám
sát hiện nay và giải pháp khắc phục” của môn Công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: nghiên cứu, phân tích những hạn chế, bất cập trong
cơng tác giám sát của Đảng hiện nay và giải pháp khắc phục, từ đó liên hệ thực tiễn
cơng tác giám sát trong Đảng tại Đảng bộ huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng hiện
nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: làm rõ các khái niệm liên quan, tầm quan trọng, mục
3
đích, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng tác giám sát của Đảng,
phân tích những hạn chế, bất cập, trong công tác giám sát của Đảng hiện nay và giải
pháp khắc phục; liên hệ thực tiễn công tác giám sát trong Đảng tại Đảng bộ huyện
Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng hiện nay từ đó đề ra giải pháp vận dụng phù hợp.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: phân tích những hạn chế, bất cập trong công tác giám
sát của Đảng hiện nay và giải pháp khắc phục.
Phạm vi nghiên cứu: dưới góc độ lý luận, quan điểm về công tác kiểm tra,
giám sát và kỷ luật trong Đảng, những hạn chế, bất cập trong công tác giám sát của
Đảng hiện nay và giải pháp khắc phục; thực trạng công tác giám sát trong Đảng của
Đảng bộ huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng từ năm 2020 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Tiểu luận nghiên cứu trên cơ sở quan điểm Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng về công tác kiểm
tra, giám sát và kỷ luật trong Đảng.
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân
tích.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận: Tiểu luận hệ thống hóa khái niệm, lý luận liên quan, phân
tích những hạn chế, bất cập trong công tác giám sát của Đảng hiện nay và giải
pháp khắc phục; nêu lên thực trạng, giải pháp công tác giám sát tại Đảng bộ huyện
Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng từ năm 2020 đến nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của tiểu luận góp phần làm cơ sở
tham khảo cho các cấp ủy, tổ chức Đảng trong huyện nhận thức đầy đủ hơn về
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng nói chung; những hạn chế, bất
cập trong công tác giám sát của Đảng hiện nay và giải pháp khắc phục nói riêng;
liên hệ thực trạng cơng tác giám sát trong Đảng tại Đảng bộ huyện từ đó đề ra các
giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
6. Kết cấu của tiểu luận
4
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận được
chia thành 3 Chương, 7 tiết.
PHẦN B. NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ KHÁI NIỆM, TẦM QUAN TRỌNG, MỤC
ĐÍCH, CÁC QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CÔNG
5
TÁC GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG
1.1. Các khái niệm liên quan
* Khái niệm kiểm tra của Đảng
Đến Đại hội XI của Đảng, lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra
khái niệm Kiểm tra của Đảng. Theo đó: Kiểm tra của Đảng là việc các tổ chức
đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của đối
tượng kiểm tra trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ
trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng: Kiểm tra của Đảng là việc các tổ
chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của
cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy
chế, kết luận của Đảng và pháp luật của Nhà nước
* Khái niệm Kỷ luật của Đảng:
Tại trang 156, sách Công tác Kiểm tra, giám sát và thi hành lỷ luật trong
Đảng (Tài liệu nghiệp vụ dùng cho cấp trên cơ sở) do Ủy Ban Kiểm Tra Trung
ương xuất bản 2017 có nêu khái niệm về kỷ luật Đảng như sau: Kỷ luật Đảng là
tổng thể những điều đã được quy định trong Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận, hướng dẫn của Đảng; những
quy định cụ thể trong Đảng, có tính chất bắt buột đối với hoạt động của mọi tổ
chức đảng và đảng viên nhằm bảo đảm sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ
chức trong Đảng.
1.2. Khái niệm, tầm quan trọng, mục đích, các quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về công tác giám sát của Đảng
1.2.1. Khái niệm giám sát của Đảng
Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng: Giám sát của Đảng là việc các tổ
chức đảng quan sát, theo dõi, nắm bắt, xem xét, đánh giá, kết luận hoạt động
nhằm kịp thời nhắc nhở để cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên được giám
6
sát chấp hành nghiêm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết,
chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước
và khắc phục, sửa chữa hạn chế, khuyết điểm, vi phạm (nếu có).
1.2.2.Tầm quan trọng, mục đích của cơng tác giám sát
Giám sát là một trong những chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Lãnh
đạo cũng có nghĩa là giám sát. Nếu bng lỏng việc giám sát thì cũng bằng
khơng, coi như khơng có lãnh đạo. Ngay từ Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ III (1960), Đảng ta đã xác định: phải tăng cường giám sát của Đảng đối với
cán bộ và cơ quan nhà nước, giữ gìn kỷ luật nghiêm minh, xử lý thích đáng đối
với những phần tử quan liêu gây tác hại nghiêm trọng cho Đảng và Nhà nước.
Trong xây dựng nội bộ đảng, cùng với công tác tư tưởng và công tác tổ chức,
cơng tác kiểm tra, cơng tác giám sát có vai trò và ý nghĩa to lớn. Giám sát được
tiến hành thường xuyên, đúng nguyên tắc sẽ góp phần bảo vệ Cương lĩnh chính
trị, đường lối, chiến lược, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng được xác định đúng,
quán triệt đầy đủ và được tổ chức thực hiện tốt. Giám sát vừa góp phần nâng cao
chất lượng lãnh đạo, vừa làm cho sự lãnh đạo của Đảng gắn với thực tiễn hơn;
đảm bảo tính thống nhất tuyệt đối giữa nghị quyết và sự chấp hành, giữa lời nói
và việc làm; giúp cho các cấp lãnh đạo của Đảng khắc phục có hiệu quả bệnh
quan liêu, chủ quan, duy ý chí, thiếu trách nhiệm ... Đồng thời, công tác giám sát
được tiến hành có nền nếp, đúng quy trình sẽ góp phần ngăn ngừa các biểu hiện
mất đồn kết, vơ kỷ luật; đảm bảo cho nguyên tắc tập trung dân chủ được thực
hiện nghiêm túc; khắc phục tình trạng suy thối về phẩm chất chính trị, đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Hiện nay Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền, nắm giữ vận mệnh của đất
nước, dân tộc. Nhưng ở trong Đảng và bộ máy nhà nước tình trạng suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm
trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực giải
quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng bị
vi phạm nghiêm trọng; tự phê bình và phê bình yếu kém, hình thức; quan hệ nội
7
bộ, có lúc bị đồng tiền và quyền lực chi phối.
Đảng lãnh đạo cả hệ thống chính trị nếu khơng được giám sát chặt chẽ rất
dễ lộng quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn tới làm suy yếu và tan rã Đảng. Vì vậy, tăng cường
cơng tác giám sát hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên hiện nay trở nên vô
cùng bức thiết. Sự cần thiết và cấp bách đó xuất phát từ địi hỏi khách quan của
cơng tác xây dựng Đảng và yêu cầu của nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới;
từ vị trí, vai trị của Đảng ta trước dân tộc và tiến bộ xã hội; từ vai trị, tầm quan
trọng của cơng tác giám sát; từ thực trạng các tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng
viên và công tác giám sát của Đảng hiện nay.
Công tác giám sát được tiến hành thường xuyên sẽ giúp cho tổ chức đảng
chủ động nắm chắc tình hình và đánh giá đúng hoạt động của tổ chức đảng, đảng
viên thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý; đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo,
chỉ đạo, tổ chức thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao; góp phần bổ
sung, sửa đổi các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước phù hợp với thực
tiễn. Công tác giám sát được tiến hành thường xuyên sẽ phát huy ưu điểm; phát
hiện hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm, kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, khắc phục;
cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên từ khi cịn
manh nha. Cơng tác giám sát được tiến hành thường xuyên sẽ góp phần nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật, bảo
đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các
tiêu cực khác. Từ sự phân tích trên có thể khẳng định: cơng tác giám sát là một
khâu quan trọng của quy trình lãnh đạo; là một chức năng, nội dung lãnh đạo chủ
yếu của Đảng; là một bộ phận quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Công tác
giám sát là một tất yếu khách quan, cần thiết đối với mọi tổ chức đảng.
Chương 2: PHÂN TÍCH NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG
CƠNG TÁC GIÁM SÁT HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
2.1. Phân tích những hạn chế, bất cập trong cơng tác giám sát hiện nay
8
Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 30/7/2007, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa X) Về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng xác định những hạn chế “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng chưa đạt yêu
cầu. Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều cấp, nhiều lĩnh vực khơng nghiêm. Sự đồn kết,
nhất trí ở khơng ít cấp uỷ chưa tốt. Quan hệ giữa Đảng và nhân dân có lúc, có nơi
chưa chặt chẽ. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội còn bị vi phạm. Nhiều tổ chức
cơ sở đảng không đủ năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh, thậm
chí có tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt. Cơng tác tư tưởng cịn thiếu sức thuyết phục.
Cơng tác tổ chức và cán bộ cịn nhiều mặt yếu kém. Tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên còn diễn ra nghiêm
trọng.
Chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra chưa cao, chưa phát huy được
sức mạnh tổng hợp của các ngành, các lĩnh vực trong cơng tác kiểm tra; chưa coi
trọng kiểm tra phịng ngừa, phát huy nhân tố tích cực; nhiều khuyết điểm, sai lầm
của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện và khắc phục. Công tác kiểm
tra của nhiều tổ chức đảng, nhất là ban cán sự đảng, đảng đồn cịn mang tính
hình thức, chất lượng, hiệu quả thấp; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ chính trị,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng chưa được quan tâm đúng mức. Năng lực, trình độ,
phong cách cơng tác của một bộ phận cán bộ kiểm tra chưa đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ” .
Thông báo kết luận số 156-TB/TW ngày 01/10/2019 của Bộ Chính trị về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khóa X “về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng” xác định những hạn
chế: “ so với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật của Ðảng vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Có nơi, có thời điểm
lãnh đạo công tác kiểm tra chưa chủ động, thường xuyên, ráo riết, thiếu quyết liệt;
vẫn cịn tình trạng nể nang, né tránh. Kết quả kiểm tra chưa đều, có chuyển biến
rõ ở cấp Trung ương, các cấp khác chưa thật rõ nét. Khơng ít địa phương kiểm
tra, giám sát cịn hình thức; chất lượng, hiệu quả còn thấp, chưa tạo được những
9
chuyển biến căn bản, đủ sức để giáo dục, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, tiêu cực
trong nội bộ Đảng. Kiểm tra, giám sát đối với cấp ủy viên cùng cấp, người đứng
đầu, người có chức vụ, quyền hạn và một số lĩnh vực tư tưởng, quản lý báo chí,
thanh tra, kiểm tốn, phịng, chống tham nhũng, tư pháp, tổ chức cán bộ… chưa
thật mạnh mẽ. Tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý vi phạm trong nội bộ vẫn là khâu
yếu; nhiều khuyết điểm, sai phạm của tổ chức đảng, đảng viên chậm được phát
hiện, xử lý kéo dài. Việc khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, vi phạm và thu hồi tài
sản thất thoát sau kiểm tra chưa triệt để”.
Đại hội XIII của Đảng đánh giá: "Công tác giám sát ở các cấp chưa thường
xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp, hiệu quả cảnh
báo, phòng ngừa vi phạm còn hạn chế".
Qua kết luận của Trung ương nhận thấy những hạn chế, yếu kém trên trước
hết là trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy chưa
nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác giám sát, chưa coi đây là
chức năng, nhiệm vụ rất quan trọng trong xây dựng Đảng và cơng tác lãnh đạo, chỉ
đạo. Vì vậy, chưa dành nhiều thời gian, công sức cần thiết cho việc thực hiện
nhiệm vụ này. Công tác tuyên truyền, quán triệt, học tập và triển khai thực hiện
một số văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, cấp ủy cấp trên về công tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng của một số cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là cấp cơ sở
chưa sâu rộng, chuyển biến về nhận thức trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm
vụ giám sát có mặt còn hạn chế. Một số cấp ủy, tổ chức đảng cơ sở, cán bộ, đảng
viên, kể cả cấp ủy viên vẫn cịn lúng túng trong thực hiện cơng tác giám sát trong
đảng, việc xây dựng chương trình nội dung, giám sát có nơi vẫn cịn tình trạng dàn
trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Uỷ ban Kiểm tra một số cấp ủy từng lúc chưa
tham mưu tốt cho cấp ủy nên việc triển khai công tác giám sát đạt kết quả chưa
tồn diện, chất lượng, có mặt cịn hạn chế, cịn lẫn lộn giữa kiểm tra và giám sát.
Một số cấp ủy vẫn cịn khốn trắng cho Uỷ ban Kiểm tra thực hiện nhiệm vụ giám
sát; một số nơi vẫn còn nhầm lẫn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát cấp ủy theo Điều 30
với nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của Uỷ ban Kiểm tra các cấp theo Điều 32, Điều lệ
Đảng, nhầm lẫn giám sát thường xuyên với giám sát chuyên đề; thực hiện giám sát
10
chuyên đề theo Điều 30, Điều lệ Đảng đối với đảng viên là cấp ủy viên cùng cấp
cịn ít; giám sát việc thực hiện các kết luận sau kiểm tra chưa được quan tâm đúng
mức.
Một số tổ chức đảng xem xét xử lý kỷ luật đảng chưa xác định đúng nội
dung vi phạm, chưa phân tích đánh giá đúng mức độ tác hại, nguyên nhân vi phạm
nên xử lý kỷ luật chưa chính xác, vẫn cịn có tình trạng nhẹ trên, nặng dưới, chưa
đồng bộ trong việc xử lý kỷ luật đảng với kỷ luật về chính quyền, đồn thể; tinh
thần phê bình và tự phê bình của một số tổ chức đảng, đảng viên chưa cao, cịn có
biểu hiện nể nang, ngại va chạm, né tránh, nhiều nơi cấp ủy, người đứng đầu cấp
ủy không chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, thiếu nghiên cứu, nắm
vững các quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước, nhất là các nguyên tắc trong
tổ chức và hoạt động của Đảng; buông lỏng công tác lãnh đạo, thiếu kiểm tra, giám
sát, còn nể nang, né tránh trong việc đấu tranh, chấn chỉnh hạn chế, khuyết điểm,
dẫn đến sai phạm kéo dài, có tính hệ thống và ngày càng nghiêm trọng; một bộ
phận đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, chấp nhận vi phạm để trục lợi cho bản
thân... việc giám sát nắm bắt tình hình, phát hiện dấu hiệu vi phạm đối với lĩnh
vực dễ xảy ra sai phạm như đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, cơng tác quản
lý vẫn cịn hạn chế…; cơng tác giám sát đối với cấp ủy viên cùng cấp, người đứng
đầu, người có chức vụ, quyền hạn và một số lĩnh vực tư tưởng, quản lý báo chí,
thanh tra, kiểm tốn, phòng, chống tham nhũng, tư pháp, tổ chức cán bộ… chưa
thật mạnh mẽ. Công tác giám sát thường xuyên, theo dõi, nắm tình hình, phát hiện
dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên còn chậm; một số vụ việc xảy ra
trong thời gian dài hoặc khi có đơn thư, báo chí phản ánh mới tiến hành kiểm tra;
cơng tác phối hợp giữa các ngành thực hiện nhiệm vụ giám sát chưa nhịp nhàng
Vẫn còn thiếu các quy định, quy chế của Đảng; thể chế, cơ chế, chính sách, pháp
luật trên một số lĩnh vực chưa đầy đủ, đồng bộ. Việc phát huy vai trò, trách nhiệm
của các tổ chức trong hệ thống chính trị và nhân dân đối với cơng tác giám sát của
Đảng cịn hạn chế. Tổ chức bộ máy ủy ban kiểm tra các cấp chưa thật mạnh; trình
độ, năng lực, bản lĩnh, kinh nghiệm và phương pháp công tác của một bộ phận cán
11
bộ kiểm tra chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ dan đến chất lượng hiệu quả chưa
cao...
2.2. Những giải pháp
Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 30/7/2007, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa X) xác định:
- Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp uỷ, tổ chức
đảng, uỷ ban kiểm tra, trước hết là người đứng đầu cấp uỷ về công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật của Đảng
Xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước phục
vụ công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
Đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng của cấp uỷ, tổ
chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp và chi bộ bảo đảm hiệu lực, hiệu quả
Hồn chỉnh quy trình, phương pháp kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng
- Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan uỷ ban kiểm tra và tăng cường cán bộ
kiểm tra các cấp bảo đảm tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được
giao
Tăng cường đầu tư, hiện đại hoá cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm
việc cho công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
- Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng
Thông báo kết luận số 156-TB/TW ngày 01/10/2019 của Bộ Chính trị về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khóa X, Bộ Chính trị u cầu thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:
- Tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về nhận thức và trách
nhiệm, quyết tâm chính trị của Đảng đối với cơng tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền, học tập, quán
triệt mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội Đảng, các nghị quyết Trung ương, các quy định của Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác kiểm tra, giám sát một cách thiết thực,
12
phù hợp với điều kiện, đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ của mình, chú trọng những
lĩnh vực, nội dung cịn hạn chế, yếu kém.
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, quyết tâm hành động của cấp ủy, tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên, nhất là ở cấp cơ sở. Người đứng đầu cấp ủy phải xác định
trách nhiệm của mình, trực tiếp, thường xuyên lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát.
- Đẩy mạnh công tác truyền thông, phát hiện, biểu dương những nhân tố
mới, cách làm hay, điển hình tốt, phát huy sự năng động, sáng tạo của tổ chức
đảng, đảng viên. Công khai kết quả kiểm tra, giám sát và xử lý kỷ luật đối với tổ
chức đảng, cán bộ, đảng viên có vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Gắn công tác kiểm tra, giám sát với thực hiện các nghị quyết của Trung ương; đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện
nhiệm vụ chính trị của từng cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị. Sau mỗi kỳ đại
hội đảng các cấp, thực hiện chế độ bồi dưỡng kiến thức về công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật đảng cho cấp ủy viên.
- Hoàn thiện hệ thống các quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước theo
hướng tăng cường trách nhiệm, đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Tập trung hoàn thiện cơ chế kiểm tra,
giám sát đối với công tác cán bộ, thực thi quyền lực của người có chức, có quyền,
chống chạy chức, chạy quyền, chạy khen thưởng; suy thối tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống; phịng, chống tham ơ, tham nhũng, lãng phí, "lợi ích nhóm". Khuyến
khích và bảo vệ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường phối hợp giữa kiểm tra,
giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử của Nhà nước.
Có cơ chế phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính trị - xã hội,
truyền thơng, báo chí và nhân dân đối với công tác kiểm tra, giám sát.
- Công tác kiểm tra, giám sát phải chủ động, tiến hành một cách thường
xun, tồn diện, khách quan, cơng khai, dân chủ, thận trọng và chặt chẽ; coi trọng
phòng ngừa, lấy xây là chính; kịp thời phát hiện, nhắc nhở, chấn chỉnh, ngăn chặn
hành vi vi phạm chủ trương, đường lối, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật
13
của Nhà nước. Kiên quyết xử lý nghiêm minh những tổ chức đảng, đảng viên cố
tình vi phạm, làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, sự phát triển của đất nước.
- Kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra dấu hiệu vi phạm,
đột xuất theo chuyên đề; tiến hành kiểm tra, giám sát từ trên xuống và từ dưới lên;
đề cao trách nhiệm tự kiểm tra, tự soi, tự uốn nắn, khắc phục thiếu sót, khuyết
điểm của tổ chức đảng và đảng viên. Tập trung kiểm tra, giám sát việc chấp hành
Cương lĩnh, Điều lệ, các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
cấp ủy viên các cấp, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức
đảng về trách nhiệm nêu gương, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, thực thi
nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
- Các cấp ủy, tổ chức đảng chủ động xây dựng phương hướng, nhiệm vụ,
chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát của nhiệm kỳ và hằng năm có trọng tâm,
trọng điểm, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương, đơn vị; phân công các
thành viên cấp ủy phụ trách và tiến hành kiểm tra, giám sát theo chức trách, nhiệm
vụ được giao. Cần xác định lĩnh vực, địa bàn trọng tâm, trọng điểm để tập trung
kiểm tra, giám sát; chú ý những khâu, các lĩnh vực dễ nảy sinh tiêu cực, như: Tổ
chức, cán bộ, làm nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, quản lý và sử dụng đất đai,
tài ngun, tài chính, tài sản cơng, dự án đầu tư… Trước mắt, cần tập trung lãnh
đạo giải quyết tốt những vụ việc tồn đọng, kéo dài, nổi cộm, bức xúc mà cán bộ,
đảng viên và nhân dân quan tâm trước khi tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến
tới Đại hội XIII của Đảng.
- Kiện toàn bộ máy tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công
tác kiểm tra; đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới. Tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra các cấp bảo đảm tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm cơng tác kiểm tra
có bản lĩnh, liêm chính, năng lực, uy tín và chun mơn giỏi; chú trọng xây dựng
đội ngũ cán bộ tham mưu chiến lược và chuyên gia về công tác kiểm tra, giám sát.
Tổng kết việc thực hiện luân chuyển cán bộ kiểm tra đến công tác ở các cấp, các
ngành. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu
về cơng tác kiểm tra, giám sát trong tồn Đảng.
14
* Để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật
đảng, Đại hội XIII đã bổ sung năm nhiệm vụ, giải pháp mới về công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật đảng sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định, quy chế nhằm giữ
nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm
tra, giám sát. Cải tiến, đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ năng công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật đảng bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống
nhất, thận trọng, chặt chẽ, khả thi, trong đó tập trung vào các cơ chế, biện pháp chủ
động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức
đảng và đảng viên; có chế tài để phòng ngừa, xử lý nghiêm minh các hành vi vi
phạm kỷ luật đảng.
Thứ hai, Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả lãnh
đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng;
công tác hướng dẫn, chỉ đạo của ủy ban kiểm tra cấp trên đối với cấp ủy, tổ chức
đảng, ủy ban kiểm tra cấp dưới trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ
luật đảng.
Thứ ba, triển khai quyết liệt, thường xuyên, toàn diện, đồng bộ công tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, phục vụ thực hiện nhiệm vụ chính trị, cơng tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ
chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có
nhiều bức xúc nổi cộm, dư luận quan tâm xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng
bộ, nghiêm minh các tổ chức đảng , đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm
tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp
để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm
nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát
của tổ chức đảng cấp trên đối với cấp dưới.
Thứ tư, kết hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng với giám sát, thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử
của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tăng cường phối hợp giữa giám sát, kiểm tra của
Đảng với giám sát, thanh tra của Nhà nước và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các
15
tổ chức chính trị-xã hội để tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả giám sát, kiểm tra, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí nguồn lực, không
hiệu quả.
Thứ năm, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu,
giúp việc cấp ủy trong việc thể chế hóa và thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng. Tăng cường kiểm
tra, giám sát cơng tác cán bộ, gắn với kiểm sốt quyền lực, chống chạy chức, chạy
quyền. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị-xã hội và nhân dân trong cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng”.
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CÔNG TÁC GIÁM SÁT
TRONG ĐẢNG TẠI ĐẢNG BỘ HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH SÓC
TRĂNG HIỆN NAY
3.1. Đặc điểm tình hình
Huyện châu Thành được thành lập theo Huyện Châu Thành là huyện mới
thành lập trên cơ sở điều chỉnh địa giới hành chính từ huyện Mỹ Tú theo Nghị định
02/NĐ-CP ngày 24/9/2008 của Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động kể từ
ngày 06/01/2009. Huyện có diện tích tự nhiên là 23.632,43 ha, trong đó đất nơng
nghiệp 21.240,97 ha, chiếm 89,88 % diện tích đất tự nhiên. Phía bắc giáp
huyện Kế Sách, phía đơng giáp thành phố Sóc Trăng và huyện Long Phú, phía tây
nam giáp huyện Mỹ Tú, phía tây bắc giáp huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Về
tổ chức hành chính: Tồn huyện có 7 xã và 1 thị trấn, gồm 56 ấp. Đảng bộ huyện
Châu Thành có 39 tổ chức đảng trực thuộc (trong đó, có 11 đảng bộ cơ sở và 28
chi bộ cơ sở); có 132 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở. Ban Chấp hành Đảng bộ
huyện nhiệm kỳ 2020-2025 có 38 đồng chí, trong đó, nữ 06 đồng chí, tỷ lệ
15,79%; trẻ (dưới 40 tuổi) 10 đồng chí, tỷ lệ 26,32%; dân tộc thiểu số 06 đồng chí,
tỷ lệ 15,79%. Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy nhiệm kỳ 2020-2025 có 11 đồng
chí (trong đó, dân tộc thiểu số 02 đồng chí, nữ 01 đồng chí).
3.2. Kết quả cơng tác giám sát trong Đảng trong Đảng bộ huyện từ năm
2020 đến nay:
* Ưu điểm
16
Cấp ủy, Uỷ ban kiểm tra các cấp đã chủ động xây dựng chương
trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát và tổ chức triển khai, thực hiện tồn diện,
có hiệu quả; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Trung ương và cấp ủy các
cấp; việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc của cấp
ủy, nhất là chỉ đạo kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XI, khóa XII) về xây dựng Đảng gắn với việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo được sự chuyển biến rõ nét
trong cơng tác xây dựng Đảng bộ; ngăn chặn tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, góp phần củng cố
thêm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo, điều hành của Đảng bộ. Kết
quả, Ban Thường vụ Huyện ủy thực hiện giám sát 05 lượt tổ chức; giám sát 09
đảng viên. Uỷ ban Kiểm tra Huyện ủy thực hiện 07 cuộc giám sát đối với tổ chức
đảng; giám sát 08 đảng viên. Cấp ủy và Uỷ ban Kiểm tra Đảng ủy cơ sở thực hiện
32 cuộc giám sát đối với các tổ chức đảng trực thuộc, giám sát 46 đảng viên. .
Đối với công tác giám sát thường xuyên và chuyên đề được thực hiện
nghiêm túc; công tác giám sát đối với tổ chức đảng, đảng viên đúng phương
hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục, quy trình; chất lượng các cuộc
giám sát tiếp tục được nâng lên. Qua giám sát giúp các tổ chức đảng, đảng
viên kịp thời nhìn nhận và sửa chữa khuyết điểm, hạn chế, cảnh báo, phòng
ngừa vi phạm; đồng thời, kiên quyết xử lý tổ chức đảng, các đảng viên cố tình vi
phạm, góp phần thúc đẩy kinh tế duy trì tăng trưởng khá; văn hóa - xã hội
có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội và đời sống của nhân dân tiếp tục cải thiện;
quốc phịng, an ninh ổn định; hệ thống chính trị tiếp tục được củng cố, kiện
toàn, hoạt động hiệu quả. Bộ máy, đội ngũ cán bộ kiểm tra trong toàn huyện
được quan tâm củng cố kiện tồn, có tinh thần trách nhiệm cao trong thực hiện
chức trách, nhiệm vụ được giao, khắc phục được tình trạng lúng túng trong thực
hiện nghiệp vụ.
* Hạn chế:
17
Một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp uỷ chưa coi trọng đúng
mức công tác giám sát, có lúc chưa kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo và trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ giám sát; việc xác định nội dung chương trình giám sát cịn dàn trải, chưa
thực sự tập trung vào lĩnh vực dễ nảy sinh tiêu cực; công tác giám sát chuyên đề
đối với đảng viên của ngành kiểm tra chuyển biến chậm, thực hiện rất ít. Việc chủ
động nắm tình hình và xử lý vi phạm ngay từ khi mới phát sinh vi phạm có nơi cịn
hạn chế, chưa đủ sức răn đe; cơng tác giáo dục chính trị, quản lý cán bộ đảng viên
có nơi thực hiện chưa tốt.
3.3. Giải pháp vận dụng
- Một là, tăng cường quán triệt, tuyên truyền, nâng cao trách nhiệm, ý chí
quyết tâm chính trị của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp, trước hết là đối với cấp uỷ,
người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng có nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trị, mục
đích, nguyên tắc, chủ thể, đối tượng, phương pháp… của công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật của Đảng nói chung, công tác giám sát đối với tổ chức đảng, cán bộ,
đảng viên nói riêng; thực hiện tốt phương châm “giám sát phải mở rộng, kiểm tra
phải có trọng tâm, trọng điểm” bằng việc thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt
và triển khai kịp thời Điều lệ Đảng, các nghị quyết, các chỉ thị, quy định, quyết
định của Đảng, của cấp uỷ về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong
Đảng trong đó có Nghị quyết Trung ương 5, khố X về tăng cường cơng tác kiểm
tra, giám sát của Đảng, Thông báo số 156-TB/TW ngày 01/10/2019 của Bộ Chính
trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X “về tăng cường cơng tác
kiểm tra, giám sát của Đảng”, Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban
Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng…
- Thứ hai, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát của các cấp uỷ, tổ chức đảng; vận dụng linh
hoạt các quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ và các quy định của Đảng, hướng dẫn
của ủy ban kiểm tra cấp trên vào việc xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát phù hợp với tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ
thực tế của địa phương.
18
+ Chú trọng giám sát đối với các tổ chức đảng cấp dưới hoạt động kém hiệu
quả và đảng viên giữ vị trí chủ chốt; tăng cường giám sát thường xuyên; thực hiện
giám sát chuyên đề ở các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, sai phạm như đầu tư xây
dựng cơ bản, quản lý sử dụng ngân sách, quản lý, sử dụng tài sản công, đất công.
+ Tập trung giám sát với việc thực hiện Kết luận 21-KL/TW, ngày
25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ,
đảng viên suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn
biến", "tự chuyển hoá"; Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính tri
về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về
đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Quy
định về những điều đảng viên không được làm ...
+ Quan tâm công tác giám sát việc khắc phục những tồn tại, hạn chế, khuyết
điểm sau kiểm tra, giám sát và việc thi hành kỷ luật của tổ chức đảng cấp dưới.
Kiên quyết kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với những đơn vị, cá nhân có liên
quan khơng thực hiện hoặc thực hiện không kịp thời, không đầy đủ các chủ trương
chỉ đạo và yêu cầu của cấp ủy, chi bộ và ủy ban kiểm tra cấp trên về khắc phục
những hạn chế, khuyết điểm, vi phạm qua kiểm tra, giám sát phát hiện và thi hành
kỷ luật đảng.
Thứ ba, gắn công tác giám sát với công tác kiểm tra, thi hành kỷ luật đảng;
công tác quản lý cán bộ, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, chất vấn trong đảng,
việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; giám sát phải thực hiện tốt từ Huyện ủy,
Ban Thường vụ Huyện ủy đến các chi bộ, đảng ủy trực thuộc khơng được bỏ sót
đối tượng, địa bàn để kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, khắc phục khuyết điểm, hạn
chế vi phạm, hạn chế thấp nhất tình trạng đảng viên vi phạm.
Phân công thành viên cấp ủy, ủy ban kiểm tra, cán bộ, đảng viên theo dõi,
phụ trách địa bàn để thực hiện tốt công tác giám sát thường xuyên. Đồng thời cử
đại diện lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng, thành viên ủy ban kiểm tra hoặc cán bộ
theo dõi lĩnh vực, địa bàn dự các cuộc họp, hội nghị của cấp uỷ, ban thường vụ cấp
uỷ, thường trực cấp uỷ và các tổ chức đảng cấp dưới theo quy định; lập các đoàn
19
giám sát để tiến hành các cuộc giám sát; nắm tình hình liên quan đến đối tượng
được giám sát.
Thứ tư, Ủy ban kiểm tra các cấp thực hiện tốt chức năng tham mưu cho cấp
ủy và nhiệm vụ cấp ủy giao. Chủ động trong cơng tác khảo sát, nắm tình hình để
kịp thời nắm bắt các nguồn thơng tin; phân tích, xử lý tốt các nguồn thơng tin để có
biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời; thực hiện tốt công tác phối hợp giữa các
ngành trong công tác giám sát; phát huy vai trò, trách nhiệm của quần chúng trong
cơ quan, tổ chức, đơn vị và nhân dân nơi cán bộ, đảng viên cư trú đối với công tác
kiểm tra, giám sát, nhất là trong việc tham gia giám sát cán bộ, đảng viên. Đồng
thời, cấp ủy, ủy ban kiểm tra cơ sở phải thường xuyên lắng nghe góp ý, phản ánh
của nhân dân về tình hình cán bộ, đảng viên và tổ chức Ðảng, trong đó có dấu hiệu
vi phạm để xem xét, giải quyết kịp thời.
Thứ năm, tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn đối với các chi bộ, đảng
bộ cơ sở và ủy ban kiểm tra cấp dưới, trong đó tập trung vào những nội dung thực
hiện chưa tốt hoặc còn lúng túng, để tạo sự thống nhất, đồng bộ trong công tác
giám sát, từng bước đưa công tác này đi vào nền nếp và có chất lượng, hiệu
quả. Thường xuyên đổi mới phương pháp, vận dụng đồng bộ, sáng tạo các hình
thức giám sát. Tổ chức các hội nghị trao đổi, học tập kinh nghiệm công tác theo
từng lĩnh vực hoặc thông qua kết quả giải quyết những vụ việc nghiêm trọng, điển
hình để giúp cấp ủy, chi bộ, ủy ban kiểm tra các cấp và cán bộ trực tiếp làm công
tác kiểm tra học tập kinh nghiệm, vận dụng trong thực tiễn công tác.
Thứ sáu, thường xuyên củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ kiểm tra từ huyện
đến cơ sở có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng,
giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; có năng lực, tham mưu cho cấp ủy thực hiện
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng ngày càng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
từng thời kỳ
20
PHẦN C. KẾT LUẬN
Trong lịch sử phát triển hơn 90 năm của Đảng ta đã chứng minh, công tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng luôn là một trong những chức năng lãnh đạo quan
trọng của Đảng. Trong đó cơng tác giám sát đã góp phần giúp cấp ủy, tổ chức
đảng, ủy ban kiểm tra các cấp chủ động nắm chắc tình hình và đánh giá đúng hoạt
động của tổ chức đảng, đảng viên thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý từ đó đề ra các
chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phù hợp với thực tiễn;
kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn thiếu sót, khuyết
điểm, vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên từ khi cịn manh nha. Góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật,
sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác. Bên
cạnh đó, cơng tác giám sát vẫn cịn nhiều nhiều hạn chế, bất cập cần phải nghiên
cứu, tập trung giải quyết.
Do đó việc nghiên cứu, học tập để nắm vững lý luận, phân tích những hạn
chế, bất cập trong cơng tác giám sát hiện nay và giải pháp khắc phục, từ đó liên hệ
vận dụng thực tiễn việc thực hiện cơng tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
Đảng tại tổ chức đảng, địa phương nơi công tác là hết sức quan trọng đối với mỗi
cán bộ, đảng viên, từ đó góp phần tích cực xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức đảng các cấp.
Với khả năng nhận thức có hạn, bản thân chưa thể luận giải hết được nội
dung mà Tiểu luận muốn nói đến, nên khơng tránh khỏi những thiếu sót, kính
mong thầy, cơ góp ý để tiểu luận hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, XIII, Văn
phịng Trung ương Đảng.
2. Giáo trình Cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng giai đoạn hiện nay
(Dành cho các lớp cao học): - NXB Chính trị quốc gia.
3. Hồ Chí Minh (2000): Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. C.Mac và Angghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002.
5. V.I. Lênin: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2005.
6. Nghị quyết Trung ương 5, khố X về tăng cường cơng tác kiểm tra, giám
sát của Đảng.
7. Thông báo kết luận số 226-TB/TW, ngày 3-3-2009 của Ban Bí thư về tăng
cường tuyên truyền, phổ biến công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
8. Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương
về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
9. Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ
luật đảng viên vi phạm.
9. Quy định số 07-QĐi/TW, ngày 28/8/2018 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ
luật tổ chức đảng vi phạm
10. Quy định số 109-QĐ/TW ngày 03/01/2018 của Ban Bí thư về cơng tác
kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên
11. Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
12. Thơng báo số 156-TB/TW ngày 01 - 10 - 2019 của Bộ Chính trị về tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa X “về tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng”.
13. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII).
14. Thơng báo số 312-TB/TW ngày 09/3/2010 của Ban Bí thư về luân chuyển cán
bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp về làm công tác kiểm tra, giám sát và luân chuyển
lãnh đạo Ủy ban kiểm tra các cấp sang công tác ở các ngành, các cấp.
22