Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận môn chính sách công khái quát chung về chính sách công và các chủ thể của quá trình chính sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.79 KB, 18 trang )

0
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU………………………………..…………………………..… 1
NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH CƠNG…….....2
1.1. Khái niệm chính sách cơng………………………………….….....2
1.2 Các đặc trưng cơ bản của chính sách cơng…….……………….....5
Chương 2: CÁC CHỦ THỂ CỦA Q TRÌNH CHÍNH SÁCH……10
2.1. Nhóm chủ thể chính sách theo chức năng…………….…….…..10
2.2. Nhóm chủ thể chính thức và khơng chính thức …………………...12
KẾT LUẬN…………………………………………………………….16
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………….17


1
MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò là hạt nhân của hệ thống chính trị
nước ta, đồng thời là chủ thể lãnh đạo toàn diện hệ thống ấy. Sự lãnh đạo biểu
hiện rõ nhất ở việc Đảng lãnh đạo Nhà nước hiện thực hóa các quan điểm,
đường lối, quyết sách chính trị thơng qua hệ thống chính sách quốc gia, trong
đó có chính sách cơng - cơng cụ quan trọng của Nhà nước trong quản lý vĩ
mơ.
Chính sách cơng là những hành động ứng xử có chủ đích mang tính
quyền lực của Nhà nước, được ban hành theo những trình tự thủ tục nhất
định, nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn cuộc sống
người dân và tồn xã hội bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm cải thiện đời
sống người dân và thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng đó. Về bản chất
chính sách cơng thuộc về chính trị, do đó q trình ra quyết định chính sách
được xác định là một q trình chính trị. Có thể thấy chính sách công được
xem là công cụ hữu hiệu chủ yếu nhất giúp cho nhà nước thực hiện các chức


năng và nhiệm vụ của mình trong việc tạo lập và duy trì sự tồn tại, phát triển
của nền kinh tế xã hội.
Trong tình hình hiện nay, khi đất nước đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ
công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày
càng sâu rộng, nhiều cơ chế, chính sách cơng ra đời để giải quyết các vấn đề
phát sinh trong thực tiễn cuộc sống, việc nghiên cứu những vấn đề chung về
chính sách cơng là việc làm cần thiết cả về lý luận và thực tiễn để có một cách
nhìn tổng qt về q trình ra đời của một chính sách, tiếp tục bổ sung kiến
thức, nhận thức một cách hoàn thiện đường lối, quan điểm, các cơ chế, chính
sách trong cơng cuộc đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đưa sự nghiệp cách mạng
nước ta tiến lên giành những thắng lợi mới. Từ những lý do trên, tôi chọn đề
tài “Khái quát chung về chính sách cơng và các chủ thể của q trình
chính sách” để nghiên cứu viết bài thu hoạch học phần hoạch định và thực thi
chính sách cơng.


2
CHƯƠNG 1
KHÁI QT CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH CƠNG
1.1. Khái niệm chính sách cơng
Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách
cơng vẫn là một chủ đề sơi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Sau đây
là một số định nghĩa chính sách cơng khá tiêu biểu của các học giả nước
ngồi và trong nước.
William Jenkin cho rằng: "Chính sách cơng là một tập hợp các quyết
định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị
gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục
tiêu đó"(William Jenkin, 1978).
Định nghĩa này nhấn mạnh các mặt sau:
- Chính sách cơng khơng phải là một quyết định đơn lẻ nào đó, mà là

một tập hợp các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một
khoảng thời gian dài.
- Chính sách cơng do các nhà chính trị trong bộ máy nhà nước ban
hành. Nói cách khác, các cơ quan nhà nước là chủ thể ban hành chính sách
cơng.
- Chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong
muốn của Nhà nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã lựa
chọn.
Thomas R. Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách cơng,
song định nghĩa này lại được nhiều học giả tán thành. Theo ơng, "Chính sách
cơng là cái mà nhà nước lựa chọn làm hay không làm"(Thomas R. Dye,
1984). Bốn mặt quan trọng của định nghĩa này là:
Thứ nhất, không giống như các định nghĩa khác, nó khơng bàn luận về
"mục tiêu" hay "mục đích" của chính sách. Các chính sách là các chương trình
hành động riêng biệt; việc áp dụng các chính sách khơng có nghĩa là tất cả
những ai đồng tình với chính sách sẽ có cùng một mục đích như nhau. Trên
thực tế, một số chính sách ra đời khơng phải vì sự nhất trí về mục tiêu, mà bởi


3
vì nhiều nhóm người khác nhau đồng tình với chính sách đó với nhiều nguyên
do khác nhau (tuy nhiên, theo chúng tơi, dù các nhóm khác nhau có những
mục tiêu khác nhau, song bản thân mỗi chính sách vẫn phản ánh những mục
tiêu nhất định của nhà nước).
Thứ hai, định nghĩa của Dye thừa nhận rằng, các chính sách phản ánh
sự lựa chọn làm hay không làm. Việc quyết định khơng làm có thể cũng quan
trọng như việc quyết định làm. Điều này hoàn toàn hợp lý trong trường hợp
nhà nước ra quyết định không can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp
nhà nước.
Thứ ba, theo cách tiếp cận này thì các hoạt động mà chính quyền làm

hoặc khơng làm phải có tác động, ảnh hưởng lâu dài và sâu sắc đến nhân dân
thì mới là chính sách cơng. Như vậy khơng phải tất cả những việc mà chính
quyền làm hoặc khơng làm đều là chính sách cơng.
Thứ tư, một điểm được nhấn mạnh ở đây là các chính sách không chỉ là
những đề xuất của nhà nước về một vấn đề nào đó, mà cịn là cái được thực
hiện trên thực tế. Nói cách khác, định nghĩa của Dye về những cái mà nhà
nước làm hoặc không làm, chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế
hoạch để làm.
Theo Charles O. Jones (1984), chính sách công là một tập hợp các yếu
tố, bao gồm:
Dự định (intentions): Trình bày những mong muốn của chính quyền;
Mục tiêu (goals): Trình bày những dự định được tuyên bố một cách cụ
thể hoặc cụ thể hóa những dự định bằng các mục tiêu về số lượng;
Đề xuất (proposals): Trình bày các cách thức để đạt được mục tiêu;
Chương trình (program): Xác định các phương tiện hợp pháp để theo
đuổi mục tiêu ;
Các quyết định hay các lựa chọn (decisions or choices): Trình bày
những quyết định hoặc những phương hướng cần lựa chọn;


4
Hiệu lực (effects): Trình bày những hiệu lực của chính sách, các hiệu
ứng mà chính sách tác động vào xã hội, khơng kể là có chủ định hay khơng có
chủ định.
B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "Chính sách cơng là tồn bộ các hoạt
động của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của
mọi công dân". Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính
sách cơng là nhà nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách cơng
đến đời sống của người dân với tư cách là một cộng đồng (B. Guy Peters,
1999).

Chính sách cơng là một kết hợp phức tạp những sự lựa chọn liên quan
lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà
nước hay các quan chức nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992).
Ở Việt Nam, có quan điểm cho rằng chính sách được hiểu là đường lối
cụ thể của chủ thể quyền lực công về một lĩnh vực nhất định trong một giai
đoạn xác định cùng các biện pháp, kế hoạch thực hiện đường lối ấy.
Theo định nghĩa này, một chính sách thường gồm ba bộ phận cấu
thành: đường lối cụ thể về một lĩnh vực nhất định trong một thời gian xác
định; biện pháp thực hiện; kế hoạch thực hiện đường lối ấy.
Ví dụ: Nghị quyết 36 ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị BCH Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam là đường lối của Đảng về công tác đối với
người Việt Nam ở nước ngoài, được thực hiện từ sau ngày ban hành Nghị
quyết. Đường lối đó là một bộ phận của đường lối chung “đại đoàn kết, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” mà Đại hội Đảng
đã đề ra.
Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị gồm bốn phần: (I) Tình hình và cơng
tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài thời gian qua; (II) Chủ trương và
phương hướng công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài thời gian tới;
(III) Nhiệm vụ chủ yếu; (IV) Tổ chức thực hiện. Có thể thấy phần II là phần
trình bày nội dung chính sách, phần (III) - biện pháp thực hiện, còn phần (IV)
là kế hoạch thực hiện.


5
Tuy có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về chính sách cơng như đã
nêu trên, song điều đó khơng có nghĩa là chính sách cơng mang những bản
chất khác nhau. Thực ra, tùy theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định
nghĩa đưa ra nhấn mạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng khác của chính sách
cơng. Những đặc trưng này phản ánh chính sách cơng từ các góc độ khác
nhau, song chúng đều hàm chứa những nét đặc thù thể hiện bản chất của

chính sách cơng.
Từ những phân tích trên, thuật ngữ chính sách có thể hiểu như sau:
"Chính sách cơng là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt
động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong đời
sống kinh tế – xã hội theo mục tiêu xác định".
1.2 Các đặc trưng cơ bản của chính sách cơng
1.2.1 Chính sách cơng tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra
trong đời sống kinh tế – xã hội theo những mục tiêu xác định.
Chính sách cơng là một quá trình hành động nhằm giải quyết một vấn
đề nhất định. Khác với các loại công cụ quản lý khác như chiến lược, kế
hoạch của Nhà nước là những chương trình hành động tổng quát bao quát một
hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế – xã hội, đặc điểm của chính sách công là chúng
được đề ra và được thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề liên
quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống xã hội. Chính sách cơng chỉ xuất
hiện trước khi đó đã tồn tại hoặc có nguy cơ chắc chắn xuất hiện một vấn đề
cần giải quyết. Vấn đề chính sách được hiểu là một mâu thuẫn hoặc một nhu
cầu thay đổi hiện trạng xuất hiện trong đời sống kinh tế – xă hội đđ̣ịi hỏi nhà
nước sử dụng quyền lực cơng để giải quyết. Có thể nói, vấn đề chính sách là
hạt nhân xun suốt tồn bộ quy trình chính sách (bao gồm các giai đoạn lựa
chọn vấn dề chính sách, hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách). Việc
giải quyết những vấn đề nói trên nhằm vào những mục tiêu mà nhà nước
mong muốn đạt được.


6
1.2.2 Chủ thể hoạch định chính sách cũng là chủ thể nắm quyền lực
cơng – đó là nhà nước, và vì vậy chính sách cơng được đảm bảo thực thi bởi
khả năng và cơng cụ cưỡng chế hợp pháp.
Chính sách cơng vừa mang tính chính trị lại vừa mang tính pháp lý.
Tính chính trị của chính sách liên quan đến việc lựa chọn phương án hành

động hoặc không hành động, đến việc phân bổ các giá trị xã hội của nhà
nước, đến những quyết định chính trị động chạm tới lợi ích của nhiều người;
cịn tính pháp lý lại thể hiện ở những văn bản pháp luật chứa đựng nội dung
chính sách, ở tính bắt buộc phải tuân thủ những quy định pháp luật nhằm đảm
bảo hiệu lực thực thi trên thực tế của chính sách.
Là cơng cụ của nhà nước để quản lý và định hướng cho sự phát triển
của xã hội, chính sách cơng khơng chỉ thể hiện ý định của chủ thể hoạch định
chính sách về một vấn đề nào đó, mà cịn bao gồm những ý chí và hành động
thực hiện các dự định qua giải pháp và cơng cụ chính sách. Để chính sách
cơng được thực thi trên thực tế thì nó địi hỏi phải cần đến bộ máy thực thi
cũng như các công cụ cưỡng chế hợp pháp mà chỉ có nhà nước mới được sử
dụng để vượt qua sự chống đối trong thực thi chính sách. Nói cách khác,
chính sách cơng phải được thực hiện dựa trên pháp luật và những thẩm quyền
hợp pháp của cơ quan nhà nước. Việc vi phạm chính sách cơng sẽ phải đối
mặt với hình phạt cụ thể. Ví dụ, chỉ có nhà nước mới được ban hành Luật về
thuế và cũng chỉ có nhà nước mới có quyền phạt những người khơng chịu nộp
thuế. Nếu chính sách về thuế không được đảm bảo bởi các biện pháp cưỡng
chế hợp pháp thì nhiều người sẽ tìm mọi cách để trốn thuế, từ đó gây thiệt hại
cho lợi ích chung của nhà nước và xã hội.
Ở Việt Nam, trên sách báo, chúng ta thường gặp cụm từ "chính sách
của Đảng và Nhà nước", vì vậy có ý kiến cho rằng, Đảng cũng là chủ thể ban
hành chính sách cơng. Điều này có thể giải thích bằng thực tế đặc thù của
nước ta. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo
Nhà nước, lãnh đạo xă hội. Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua việc vạch ra
cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách – đó chính là những căn cứ


7
chỉ đạo để Nhà nước ban hành các chính sách cơng. Như vậy, về thực chất,
các chính sách cơng là do Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

(chủ yếu là Nhà nước đề ra). Các chính sách này là sự cụ thể hóa đường lối,
chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm
phục vụ lợi ích của nhân dân ta. Do vậy, Đảng cộng sản Việt Nam cũng là chủ
thể của chính sách cơng.
1.2.3 Chính sách cơng khơng phải các quyết định nhất thời (mang tính
tình thế) của nhà nước, mà là chương trình hoạt động được suy tính một cách
khoa học, liên quan với nhau một cách hữu cơ và nhằm những mục đích
tương đối cụ thể.
Chính sách cơng nhằm giải quyết các vấn đề xã hội phức tạp, bức thiết,
liên quan đến nhiều người, đến những định hướng phát triển quan trọng nên
nó cần phải có sự chuẩn bị, nghiên cứu một cách thận trọng trước khi ban
hành. Sự chuẩn bị này nhanh hay chậm phụ thuộc nhiều vào tính phức tạp của
vấn đề chính sách, vào những kết quả nghiên cứu, những hoạt động khảo sát
nhằm làm rõ bản chất của vấn đề, các phương án được lựa chọn và các giải
pháp được đưa ra cũng như trình độ của những người nghiên cứu, soạn thảo
và ý chí, hành động chính trị của chủ thể thơng qua chính sách.
Chính sách cơng phản ánh các hành vi được thực hiện trên cơ sở các
mục tiêu rõ ràng. Nó ngụ ý rằng, chính sách cơng khơng phản ánh hành vi xảy
ra đột ngột hoặc bất ngờ. Chẳng hạn, chính sách cơng tập trung /hướng đến
mục tiêu xóa đói giảm nghèo, nhưng không phản ánh hành vi cứu trợ của
người dân bị động đất xảy ra một cách đột ngột. Chính sách công thường
được thiết kế để giải quyết một vấn đề cụ thể.
Chính sách cơng bao gồm nhiều quyết định chính trị liên tục có liên
quan lẫn nhau để giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra (không nên đồng nhất
với các quyết định hành chính đơn thuần), mà khái niệm quyết định chính trị
ở đây là sự lựa chọn của nhà nước, bao gồm việc sử dụng các cơng cụ, nguồn
lực cần thiết cho các giải pháp chính sách. Các quyết định chính trị bao gồm


8

cả luật, các văn bản dưới luật, thậm chí cả chương trình, dự án là các giải
pháp cho vấn đề chính sách.
Chính sách cơng khơng đồng nghĩa với một luật riêng biệt hay một văn
bản chỉ thị hay quyết định nào đó khơng có mục tiêu chính trị. Các văn bản
quy phạm pháp luật đều có mục tiêu giải quyết vấn đề, đó chính là mục tiêu
chính sách. Như vậy, chính sách cơng phải là một tập hợp các quyết định
chính trị cùng hướng vào việc giải quyết một vấn đề xã hội, do một hay nhiều
cấp khác nhau trong bộ máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời
gian dài. Chính sách cơng được thể hiện chính thức thành văn bản pháp luật
(cịn gọi là chính sách, pháp luật) mang tính pháp lý cho việc thực thi, cũng
bao gồm những hành động khơng mang tính pháp lý, mà có tính định hướng,
kích thích phát triển.
Chính sách cơng bao gồm một chuỗi các hành động của cơ quan có
thẩm quyền.Một quyết định đơn lẻ của cơ quan có thẩm quyền khơng phải là
chính sách cơng. Chẳng hạn, chính sách không chỉ bao gồm quyết định ban
hành đạo luật về một chủ đề nào đó, mà cịn là những quyết định tiếp theo liên
quan đến việc thực hiện hay cưỡng chế thực hiện nó.
Trên thực tế, một chính sách thực sự của nhà nước được kết nối lại từ
vô số các quyết định và các hành động riêng biệt. Chẳng hạn, chính sách cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ những nỗ lực cải
cách các doanh nghiệp nhà nước, nó được chính thức đề cập đến trong Quyết
định 217/HĐBT (14/11/1987) và được tiếp nối bằng một loạt các quyết định
của Nhà nước và các cấp, các ngành về vấn đề này. Nghị định 44/CP của
Chính phủ ngày 29/6/1998 và việc thực thi Nghị định đó đã mở ra một chặng
đường mới của chính sách cổ phần hóa ở nước ta. Chúng ta có thể thấy, chính
sách này sẽ cịn tiếp diễn lâu dài trong tương lai.
1.2.4 Chính sách cơng bao gồm những gì được thực sự thi hành chứ
không phải chỉ là những tuyên bố.
Chính sách cơng khơng phải là những ý tưởng của các nhà lãnh đạo thể
hiện trong lời nói và hành động của họ. Chính sách cơng trước hết thể hiện dự



9
định của các nhà hoạch định chính sách nhằm làm thay đổi hoặc duy trì một
hiện trạng nào đó. Song, nếu chính sách chỉ là những dự định, dù được ghi
thành văn bản thì nó vẫn chưa phải là một chính sách. Chính sách cơng cịn
phải bao gồm các hành vi thực hiện những dự định nói trên và đưa lại những
kết quả thực tế.
Chẳng hạn, các dự định của nhà nước có thể khơng được chuyển đổi
trong thực tế. Ví dụ: Mặc dù có một luật tiền lương tối thiểu, nhưng khơng có
sự thay đổi xảy ra trong hành vi kinh tế, nó khơng thể là một chính sách nếu
nó khơng được thực hiện.
Nhiều người thường hiểu chính sách công một cách đơn giản là những
chủ trương do Nhà nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu khơng
có việc thực thi chính sách để đạt được những kết quả nhất định thì những chủ
trương đó chỉ là những khẩu hiệu mà thơi, và mục tiêu của chính sách cũng
khơng bao giờ đạt được. Hơn nữa, một chính sách nếu chỉ dừng lại ở những
lời tuyên bố, ở những cam kết không được thực hiện hoặc được thực hiện
khơng kịp thời thì sẽ gây hậu quả khơn lường, đó là vấn đề chính sách khơng
được giải quyết hiệu quả trên thực tế, lòng tin của người dân đối với nhà nước
lung lay, tính hiệu quả trong quản lý, điều hành xã hội của nhà nước bị suy
giảm.

CHƯƠNG II


10

CÁC CHỦ THỂ CỦA Q TRÌNH CHÍNH SÁCH
2.1. Nhóm chủ thể chính sách theo chức năng

2.1.1.Nhóm chủ thể tham gia hoạch định chính sách
Hoạch định chính sách là giai đoạn khởi đầu của q trình chính sách,
nó được tính từ khi các sáng kiến chính sách được hình thành cho đến lúc nội
dung chính sách được thơng qua và có hiệu lực pháp lý chính thức.
Nhóm chủ thể tham gia hoạch định chính sách là những tổ chức, nhóm
xã hội hoặc cá nhân mà những hành động cụ thể của họ trong giai đoạn hoạch
định chính sách ảnh hưởng quan trọng đến nội dung cũng như kết quả cuối
cùng của chính sách.
Nhóm tham gia hoạch định chính sách có thể chia làm 5 loại cơ bản:
- Nhóm sáng kiến chính sách là những chủ thể đề xuất ý tưởng về chính
sách, liên quan đến những vấn đề cần ban hành, sửa đổi, bổ sung về chính
sách. Ngồi ra nhóm sáng kiến chính sách cịn bao gồm cả các chủ thể tìm
mọi cách ngăn chặn một ý tưởng chính sách nào đó mà họ nghi rằng sẽ bất lợi
cho họ khi chính sách được thơng qua. Trên thực tế, rất nhiều nhóm lợi ích đã
tìm mọi cách cản trở để một vấn đề nào đó khơng được đưa vào nghị trình
chính sách (hay cịn gọi là chương trình nghị sự).
- Nhóm các nhà xây dựng chính sách là các tổ chức, cá nhân tham gia
trực tiếp vào quá trình nghiên cứ u, soạn thảo, thiết kế nội dung chính sách.
Đó có thể là:Các nghị sỹ, các Ủy ban của Quốc hội và bộ máy giúp việc;
Chính phủ (các bộ, ngành, các cơ quan tham mưu của chính phủ); Các Thinktank (viện nghiên cứu chính sách, các trường đại học, các cơ quan tư vấn
chính sách, v.v..);Các nhóm chun gia
- Nhóm các nhà phân tích chính sách là những tổ chức hay cá nhân có
kiến thức chun mơn, am hiểu sâu về vấn đề chính sách nói chung, về lĩnh
vực mà chính sách điều chỉnh nói riêng, chủ động tiến hành xem xét đánh giá
nội dung chính sách, các q trình chính sách, từ đó chỉ ra bản chất thực sự
của vấn đề chính sách, những mối quan hệ mang tính qui luật giữa các yếu tố


11
cấu thành trong hoạt động chính sách, tính hiệu lực, hiệu quả mà chính sách

có thể đem lại cũng như các kết quả cụ thể của việc thực thi chính sách.
- Nhóm ảnh hưởng đến các quyết định chính sách gồm các chủ thể có
quyền lợi liên quan (trực tiếp hoặc gián tiếp) đến việc ban hành hay không
ban hành chính sách. Họ có thể là nhân dân của một địa phương, một tổ chức,
thành viên của các phong trào xã hội, hoặc cá nhân.
- Nhóm các nhà quyết định chính sách là nhóm các chủ thể chính trị mà
vị trí và hành động của họ có ý nghĩa quyết định tính hiệu lực của chính sách.
2.1.2.Nhóm chủ thể thực hiện chính sách
Thực hiện chính sách là q trình triển khai chính sách đã có hiệu lực
vào đời sống thực tế nhằm theo đuổi mục tiêu mà chính sách hướng đến. Do
vậy các nghiên cứu về thực thi chính sách thường quan tâm đến việc xem xét
điều gì xảy ra đối với chính sách sau khi nó được thơng qua và có hiệu lực
pháp lý, hành vi của các chủ thể thực thi chính sách nên như thế nào để đạt
được mục tiêu mà chính sách đề ra.
Nhóm thực hiện chính sách bao gồm nhiều chủ thể khác nhau, có vị trí,
vai trị cũng như sử dụng những cơng cụ, phương tiện khác nhau trong q
trình thực hiện chính sách. Lực lượng này bao gồm: Các cơ quan nhà nước;
các tổ chức CT-XH, các đoàn thể quần chúng; Nhân dân hoặc các đối tượng
mà chính sách hướng đến.
Trong các chủ thể thực hiện chính sách, chủ thể triển khai trước hết và
quan trọng nhất bao giờ cũng là các cơ quan hành chính cùng với đội ngũ
cơng chức, bởi đây là bộ phận có chức năng thực thi chính sách, pháp luật, có
thẩm quyền hợp pháp trong việc sử dụng các nguồn lực cần thiết cũng như
các công cụ cưỡng chế hợp pháp để đảm bảo cho chính sách được thực hiện
một cách thơng suốt và thống nhất.
2.1.3.Nhóm hưởng lợi và nhóm chịu thiệt hại từ chính sách
Chính sách cơng thường liên quan đến việc phân bổ các lợi ích/giá trị
xã hội, do vậy mà nó động chạm đến quyền lợi của rất nhiều nhóm, bộ phận
khác nhau. Trên thực tế, khó có một chính sách nào có thể giải quyết thỏa



12
đáng mọi loại xung đột lợi ích và đem lại lợi ích cho mọi đối tượng chính
sách. Chính vì vậy, trong q trình hoạch định chính sách cơng, bao giờ cũng
tồn tại những bộ phận được hưởng lợi từ chính sách và những bộ phận chịu
thiệt hại từ chính sách.
Nhóm hưởng lợi từ chính sách là những tổ chức và cá nhân mà lợi ích
của họ được đáp ứng, thỏa mãn khi chính sách được triển khai. Những nhóm
này ln ủng hộ nhà nước trong việc thực thi chính sách trên thực tế. Do đó,
chính sách nào mà nhận được sự ủng hộ của đơng đảo nhân dân thì việc triển
khai chính sách đó gặp nhiều thuận lợi. Người dân sẽ tích cực thực hiện chính
sách nếu họ thấy được những lợi ích mà chính sách đem đến cho họ. Chi phí
cho việc tổ chức triển khai hay cưỡng chế sẽ được giảm đi rất nhiều.
Nhóm chịu thiệt từ chính sách đó là những cá nhân, tổ chức mà lợi ích
của họ bị giảm bớt hoặc mất đi khi chính sách được triển khai. Khi lợi ích của
họ bị sụt giảm nghiêm trọng, nhóm này thường tìm mọi cách gây cản trở việc
thực thi chính sách, làm thay đổi chính sách theo hướng tốt hơn cho họ. Chính
thái độ chống đối của nhóm này đã gây tốn kém về nguồn lực, thời gian cũng
như chi phí cho việc triển khai chính sách.
2.2. Nhóm chủ thể chính thức và khơng chính thức
2.2.1. Các chủ thể chính thức:
Đây là những chủ thể mà sự tham gia của họ vào q trình chính sách
gắn liền với thẩm quyền và trách nhiệm được quy định đầy đủ và rõ ràng bởi
Hiến pháp, đạo luật, bởi vậy mà họ có quyền lực chính thức trong việc hoạch
định và thực thi chính sách. Hơn nữa, các chủ thể chính thức thường là những
chủ thể giữ vai trị then chốt trong việc hình thành chính sách, ảnh hưởng trực
tiếp đến “vận mệnh” của một chính sách.
Trong các nghiên cứu về Chính trị học nói chung, chính sách cơng nói
riêng của các học giả phương Tây, 3 chủ thể chính thức được coi là giữ vai trị
then chốt, chi phối phần lớn mọi loại chính sách của nhà nước đó là cơ quan

lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
2.2.2. Các chủ thể phi chính thức:


13
- Các cử tri:
Các nghị sĩ, đại biểu quốc hội với tư cách là những người đại diện,
thường được bầu ra từ các đơn vị bầu cử cụ thể nào đó. Để duy trì sự ủng hộ
của cử tri, các nghị sĩ sẽ phải tiếp xúc, lắng nghe tiếng nói, những phản ứng,
đề đạt của người dân trước những vấn để của cuộc sống. Trong khả năng của
mình, các nghị sĩ có thể sẽ đề xuất những chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi
của những cử tri mà họ đại diện. Thông qua kênh tiếp xúc này, các cử tri đã
tác động vào q trình hoạch định chính sách quốc gia.
- Các nhóm áp lực và nhóm lợi ích
Nhóm áp lực là một tập thể mà các thành viên của nó muốn gây sức ép
tác động đến các chính sách, các đạo luật của nhà nước. Cịn nhóm lợi ích
(interest group) là các tổ chức của công dân, những người có chung mục tiêu
và muốn gây ảnh hưởng đến chính sách công.
- Các phong trào xã hội
Phong trào xã hội là một nhóm người trên diện rộng tập hợp lại cùng
nhau đấu tranh hoặc nhấn mạnh các mục tiêu chính trị hay chính sách. Một
phong trào xã hội rộng lớn hơn nhiều so với một nhóm lợi ích, bởi nó thường
bao gồm nhiều nhóm và những người khơng nằm trong một tổ chức mang
tính chính trị nào, nhưng họ có mối quan tâm chung về một vấn đề nhất định.
- Các đảng phái chính trị
+ Các đảng phái chính trị giữ vai trò định hướng cho các cử tri trong
quá trình bầu cử. Chẳng hạn, cử tri biết đảng Cộng hịa ở Mỹ có khuynh
hướng xã hội bảo thủ và khơng tin tưởng vào mơ hình “Chính phủ lớn” hơn
đảng Dân chủ, trong khi đảng Dân chủ lại thường ủng hộ các chương trình
Chính phủ nhằm tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả mọi người, từ đó cử tri thể

hiện quyết định của mình nên bỏ phiếu cho đảng nào. Việc bỏ phiếu cho các
đảng cũng đồng nghĩa với việc cử tri ủng hộ cho các định hướng chính sách
mà đảng chính trị đó theo đuổi.
+ Các đảng chính trị là nền tảng cho hoạt động của chính phủ, quốc hội
có thể thực hiện được trên thực tế.


14
+ Các đảng chính trị giúp quan chức được bầu và những người ủng hộ
của họ tạo ra các gói ý tưởng chính sách có thể được sử dụng để thu hút cử tri
và sau đó định hình thành luật pháp.
+ Các đảng chính trị giúp định hướng và hỗ trợ công luận.
- Giới chuyên gia
Giới chuyên gia là những người am hiểu sâu về vấn đề chính sách, có
kiến thức uyên thâm, hiểu biết nhất định những nội dung cơ bản liên quan đến
vấn đề chính sách thuộc chuyên mơn của họ. Trong q trình hoạch định
chính sách, giới chun gia đóng một vai trị quan trọng. Với tư cách là những
người trực tiếp soạn thảo, họ là linh hồn của các chính sách.
Giới chuyên gia thường là những người làm việc tại các vụ, cục của các
bộ; các cán bộ làm việc tại các tiểu ban, uỷ ban của quốc hội; các nhà nghiên
cứu tại các cơ quan nghiên cứu của chính phủ hoặc quốc hội. Họ hầu hết là
những người có kinh nghiệm trong việc thiết kế và thi hành chính sách. Họ
tập hợp thành một cộng đồng chun mơn mà bất kỳ chính sách nào cũng
phải dựa vào.
- Các tổ chức xã hội dân sự
+ Xã hội dân sự là đối tượng tiếp nhận chính sách: Dân chúng là bộ phận
của xã hội dân sự, là những người tiếp nhận chính sách của nhà nước.
+ Xã hội dân sự đóng vai trị phản biện chính sách: Là đối tượng chịu tác
động trực tiếp của chính sách, xã hội dân sự nhận rõ những điểm mạnh và
điểm yếu rất cụ thể của chính sách.

+ Xã hội dân sự góp phần điều chỉnh chính sách: Trực tiếp tiếp nhận
chính sách, xã hội dân sự sẽ có điều kiện để đề xuất những sang kiến điều
chỉnh chính sách.
+ Xã hội dân sự là một kênh đề xuất những sáng kiến chính sách: xã
hội dân sự có đặc điểm là một cộng đồng nằm ngoài hệ thống quyền lực, là
đối tượng chịu sự tác động của chính sách.
- Các phương tiện truyền thông đại chúng


15
Ngày nay, các phương tiện truyền thông không chỉ bao gồm các các
phương tiện truyền thống như báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình mà cịn mở
rộng ra các phương tiện truyền thông xã hội khác như các trang thông tin điện
tử (web sites, blogs, mạng xã hội, v.v..). Điều này đã thay đổi cách thức mà tin
tức được xác định, thu thập, viết, phân tích và xử lý. Tất cả các phương tiện
truyền thông này đều tham gia, bằng cách này hay cách khác, vào việc cung
cấp cho công chúng thơng tin liên quan đến chính sách và chính trị.
- Các viện nghiên cứu chính sách tư nhân (think- tank)
Theo cách hiểu chung nhất, think-tank là cơ quan, tổ chức chủ yếu làm
cơng tác nghiên cứu chính sách, tư vấn chính sách, trực tiếp hoặc gián tiếp
tham gia vào q trình chính sách.

KẾT LUẬN
Chính sách cơng có tính khoa học hay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
thiết thực. Tính khoa học thể hiện ở tính khách quan, công bằng tiến bộ và sát


16
với thực tiễn. Nếu chính sách cơng mang tính chủ quan duy ý chí của nhà
nước sẽ trở thành rào cản kìm hãm sự phát triển của xã hội. Điều này cũng có

nghĩa là việc ban hành chính sách cơng của nhà nước bất thành, sẽ ảnh hưởng
đến uy tín và vai trị của nhà nước. Nếu chính sách cơng nhà nước ban hành
đảm bảo các yếu tố khách quan, cơng bằng và tiến bộ, phù hợp với lịng dân
và xã hội, phù hợp với ý chí, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân thì sẽ được người dân và xã hội ủng hộ, chính sách đó sẽ được thực
hiện trong cuộc sống một cách nhanh chóng, hiệu quả uy tín và vai trị của
nhà nước được đề cao tính khoa học của chính sách cịn thể hiện ở ý nghĩa
thực tiễn và tính thiết thực của chính sách, yêu cầu khi nhà nước ban hành
chính sách phải phù hợp với diều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất
nước, thực tại khách quan của chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước.
Điều này cũng có nghĩa là khi ban hành chính sách cơng cần phải tính
đến các điều kiện các nguồn lực để duy trì chính sách, các yếu tố ảnh hưởng
đến việc tổ chức thực hiện chính sách vào thực tiễn cuộc sống. Để đảm bảo ý
nghĩa thực tiễn hay tính sát thực, chính sách cơng khơng thể cao hơn hay thấp
hơn trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trình độ phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước đến đâu thì đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, cơng
cụ của chính sách cơng đến đó./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Văn Quảng (2013), Các quá trình chính trị, trong “Tập bài giảng
dành cho chương trình cao học chính trị học”, Hà Nội.


17
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011): Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.




×