Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận cao học chính sách công chu trình chính sách và chính sách quốc gia việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.9 KB, 21 trang )

PHẦN A: MỞ ĐẦU
Chính sách của nhà nước, tức chủ thể nắm quyền lực công, được gọi là
chính sách công.
Khoa học chính trị, hiểu một cách ngắn gọn nhất, là môn học nghiên
cứu về giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị (QLCT). Quyền lực chính trị
của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành nhà nước. Thông qua việc thực
hiện các chính sách của nhà nước, giai cấp cầm quyền tiến hành các biện pháp
nhằm đạt được các mục tiêu của mình trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã
hội.
Như vậy, chính sách công là một khái niệm chi phối sự hiểu biết của
chúng ta về việc thực thi quyền lực nhà nước. Việc hoạch đinh và thực thi có
hiệu quả các chính sách, xét cho cùng, là tiêu chí căn bản để đánh giá cả hệ
thống chính trị, chứ không phải là tiêu chí về đa nguyên đa đảng như một số
lý thuyết thường nhấn mạnh.
Tại Việt nam, các nghiên cứu về chính sách cũng đã được công bố
nhiều trong các sách, báo và các tạp chí chuyên nghành. Các nghiên cứu này
tập trung vào nội dung cụ thể của chính sách từ góc độ chuyên ngành hẹp, ít
khi xem xét nó từ góc độ chính trị học. Trong khi đó, việc nghiên cứu các
phương diện chính trị của một tiến trình chính sách nói chung, đặc biệt, vai
trò của quyền lực công trong việc hoạch định và triển khai các chính sách như
vậy, có ý nghĩa căn bản cho việc thiết kế cũng như triển khai chính sách một
cách có hiệu quả.
Trong tổng quát, chính sách phải đáp ứng được những đòi hỏi mang
tính hệ thống sau: những đòi hỏi mang tính giai cấp (chính sách đó phải phù
hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền), những đòi hỏi mang tính dân tộc
(phù hợp với đặc điểm văn hoá - tâm lý - thói quen dân tộc), đòi hỏi mang
tính nhân loại (phù hợp với các xu hướng phát triển tiến bộ của nhân loại).

1



Ngoài ra, một chính sách được hoạch định tốt còn phải thoả mãn các
đòi hỏi mang tính kỹ thuật khác như: tính khả thi kỹ thuật (đủ trình độ, kiến
thức chuyên ngành để thực hiện), tính khả thi tài chính (đủ nguồn vốn cho
việc thực hiện chính sách), tính tối ưu kinh tế (lợi nhuận nhiều nhất với chi
phí thấp nhất). Vì vậy, để tìm hiể rõ hơn về chu trình chính sách, em chọn đề
tài: “Chu trình chính sách và chính sách quốc gia Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay” làm tiểu luận cho môn học Chính sách công.

2


PHẦN B: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CHU TRÌNH CHÍNH SÁCH- NGỮNG VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN
Chính sách công cần được nhìn nhận như một quá trình từ hoạch định
đến thực hiện cho ra kết quả cuối cùng. Có nhiều cách thức để nhìn nhận các
giai đọan của một quá trình chính sách như vậy. Về tổng thể, chính sách công
có thể được coi là một chu trình gồm bốn giai đọan : 1) Xác lập nghị trình, 2)
Xây dựng và ban hành, 3) Triển khai thực hiện, và 4) Tổng kết và đánh giá tác
động.
1.1. Xác lập nghị trình
Xác lập nghị trình (chương trình nghị sự) chính là việc tìm kiếm sự
nhất trí về mục tiêu căn bản mà chính sách cần đạt. Sở dĩ phải tìm kiếm sự
nhất trí vì mỗi người, mỗi nhóm, mỗi tầng lớp có thể có cách nhìn nhận
nguyên nhân chính khác nhau của mỗi hiện tượng, tức vấn đề mà chính sách
muốn giải quyết. Việc nhìn nhận nguyên nhân (hay các nguyên nhân) chính
sẽ ảnh hưởng quan trọng đến nội dung và cách thức triển khai của chính sách.
1.1.1. Căn cứ lý luận
Căn cứ lý luận chính của việc xác định vấn đề nào cần có chính sách
công là lý luận về sự kém hiệu quả của cơ chế thị trường (tức thuật ngữ “sự

thất bại của thị trường” – Market failure). Lý luận này về căn bản chỉ ra các
trường hợp ở đó các động cơ về lợi nhuận và cơ chế cạnh tranh tự do sẽ
không mang lại kết quả tốt nhất cho các cá nhân, tức không đạt được kết quả
tối ưu như trong bài tóan kinh điển về “sự nan giải của những tù nhân”.
Trong thực tế, những hàng hóa và dịch vụ có hai tính chất:
i) Không loại trừ : tức một người không thể loại trừ sự tiêu dùng của
người khác trong việc sử dụng hàng hóa đó

3


ii) Không cạnh tranh: Tức sự tiêu dùng của một người không làm giảm
sự tiêu dùng của người khác
được gọi là hàng hóa và dịch vụ công cộng (như sóng radio, TV, hải
đăng, không khí trong sạch, an ninh quốc phòng...). Đối với các hàng hóa
này, sự cưỡng chế (trong đóng góp nguồn lực để sản xuất) là cần thiết để đạt
được kết quả tối ưu vì ai cũng có động cơ chờ người khác sản xuất, để trở
thành “kẻ ăn theo” - không đóng góp nhưng vẫn hưởng thụ. Do sự cần thiết
này mà nhà nước cần có chính sách công, tức có tính cưỡng chế trong việc đạt
được kết quả tối ưu. Các hàng hóa, dịch vụ có hiệu ứng ngoại sinh (như giáo
dục, môi trường) cũng như có tính độc quyền tự nhiên (như giao thông, trục
cáp điện và điện thoại) đều cần có chính sách công, tức cần nhà nước và ý chí
chung.
Tổng quát hơn, định lý về “kẻ ăn theo” kết luận rằng, trong những
trường hợp khi người ta có thể đóng góp ít hơn mà vẫn được hưởng lợi nhiều
thì người ta có khuynh hướng không muốn đóng góp và đợi ăn theo các kết
quả của người khác.
Như vậy, lập luận chính ở đây là: trong những trường hợp nhất định,
chính sách của nhà nước sẽ mang lại hiệu quả tối ưu trong việc giải quyết các
vấn đề xã hội. Đây là tiêu chí quan trọng trong việc xác định một vấn đề có

cần chính sách công cũng như nguyên nhân chính của vấn đề đó.
1.1.2. Căn cứ thực tế
Sự thất bại của thị trường dường như là lý do đủ để nhà nước đảm nhận
trách nhiệm giải quyết và đưa ra các chính sách công. Tuy nhiên, khoa học
cũng chỉ ra rằng, dù thị trường không hiệu quả, nhưng nhà nước cũng có thể
không hiệu quả. Nhà nước cũng có thể thất bại do nhiều lý do, trong đó có các
lý do về quan liêu, tham nhũng, kém năng lực... tức các chi phí và kém hiệu
quả của việc ra quyết định tập thể, tức các quyết định của chính phủ. Ngay cả
trong các chính thể dân chủ, việc bỏ phiếu theo số đông cũng có thể không hiệu
quả (Đây là hệ quả của định lý cử tri trung dung trong chính trị học).
4


Như vậy, một trong các căn cứ thực tiễn quan trọng nhất đó là tình
trạng và năng lực hiện thời của bản thân nhà nước. Ví dụ nổi bật là các chính
sách về giáo dục, y tế, an sinh xã hội hay thậm chí các chính sách thúc đẩy thị
trường và thương hiệu quốc gia. Nếu năng lực nhà nước chưa đủ (ngân sách
còn hạn chế, cán bộ yếu kém và tham nhũng, các chức năng chồng chéo, bộ
máy cồng kềnh...), việc thực hiện các chính sách này có thể cần bị đình hoãn,
có thể giao cho khu vực tư nhân, hoặc chỉ tập trung cho những dịch vụ và
hàng hóa cơ bản nhất (chăm sóc sức khỏe ban đầu, giáo dục phổ thông...), tức
có tác động xã hội rộng lớn nhất.
Các căn cứ thực tiễn như vậy có thể quy về các điểm chính sau:
1) Nhà nước có làm tốt hơn thị trường trong thực tiễn của đất nước đó
không?
2) Vấn đề chính sách đó có tác động rộng lớn đến đa số dân chúng
không?
3) Vấn đề đó có thực sự nằm trong những ưu tiên chính trị không?
1.1.3. Điều kiện cụ thể
Việc phát hiện vấn đề, đưa vào chương trình để thảo luận - tức là xác

lập nghị trình - là điểm khởi đầu của mọi chính sách. Giai đoạn này rất quan
trọng, vì một trong những cách lẩn trốn trách nhiệm tốt nhất chính là giấu vấn
đề cần giải quyết trong phạm vi trách nhiệm.
Trong thực tiễn, mọi vấn đề chính sách đều nảy sinh từ dữ kiện thực tế,
thông qua 3 nguồn quan trọng nhất: số liệu thống kê, các sự kiện, và các nhận
định.
Các số liệu thống kê luôn là nguồn thông tin quan trọng nhất do tính
khách quan cao của chúng cũng như tính hệ thống trong việc thu thập. Việc
sử dụng số liệu thống kê một cách khoa học cho phép chúng ta vượt qua được
chủ nghĩa kinh nghiệm cũng như nhìn nhận vấn đề chính sách một cách toàn
diện hơn. Đặc biệt đối với các vấn đề chính sách trong những lĩnh vực rộng,
một cá nhân hay một nhóm cá nhân khó có thể bao quát được thông qua các
5


quan sát hay các kinh nghiệm trực tiếp, và vì vậy sẽ dễ trở nên phiến diện nếu
không xem xét đầy đủ các số liệu thống kê liên quan. Như vậy, việc thu thập
số liệu thống kê và xử lý chúng là một điều kiện tiên quyết để có các chính
sách hữu hiệu và có cơ sở khoa học. Việc tổ chức và quan tâm đến chất
lượng của số liệu thống kê, tuy chưa nói được hết cũng cho thấy phần nào
chất lượng của quá trình hoạch đinh chính sách.
Các số liệu thống kê, tuy nhiên, không thể phản ánh được mọi vấn đề
thực tiễn, đặc biệt trong các phát triển mới của đất nước hay tình hình quốc tế.
Vì vậy, các sự kiện cũng là nguồn thông tin quan trọng về các vấn đề mới nảy
sinh. Những sự kiện lớn, như thiên tai, khủng bố... bản thân chúng cũng đặt
ra các vấn đề chính sách mới, thậm chí có thể dẫn đến những thay đổi cả về
đường lối, chiến lược.
Các nhận định, suy luận chủ quan trên cơ sở nhận thức được qui luật
phát triển, cũng là một nguồn quan trọng trong việc xác định vấn đề chính
sách. Dù xét cho cùng cũng phải dựa trên các số liệu và sự kiện, các nhận

định này thông thường thể hiện tầm nhìn xa cũng như định hướng giá trị của
các nhà lãnh đạo. Bởi có tầm nhìn xa, ý kiến của người lãnh đạo (đặc biệt
trong những tình huống không bình thường), lúc đầu, luôn là thiểu số. Mặt
khác, với tư cách đại diện cho nhân dân, ý kiến của họ lại phải đại diện cho đa
số. Đây cũng là một trong những mâu thuẫn cơ bản được Chính trị học
nghiên cứu lâu nay, và chỉ có thể giải quyết được thông qua quá trình phát
triển thực tế. Việc xác định được cơ chế để phát huy tính sáng tạo, nhưng
cũng ngăn ngừa được sự chủ quan độc đoán của người lãnh đạo và hoạch định
chính sách luôn là một trong những vấn đề được quan tâm cả trong khoa học
lẫn hoạt động thực tiễn.
Để có thể xác định đúng vấn đề chính sách, cán bộ lãnh đạo cũng cần
nắm được nguyện vọng nhân dân, tận dụng được sự ủng hộ của thông tin đại
chúng, và kiểm soát được nghị trình chính thức của chính quyền. Điều này

6


càng quan trọng trong điều kiện nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, và vì dân.
Trong vô số các vấn đề chính sách, để được đưa vào nghị trình và bàn
luận thực sự, một vấn đề cần thỏa mãn 3 yêu cầu căn bản: tầm quan trọng của
vấn đề, hoàn cảnh chính trị thích hợp, và sự ủng hộ chính trị.
Từ ba điều kiện căn bản trên có thể thấy 3 nguyên nhân nguyên nhân
chính khiến một vấn đề không được đưa ra bàn luận và do vậy cũng sẽ không
được giải quyết.
Trước hết, vấn đề đó có thể chưa mang tính khái quát cao, và không
căn bản, tức không có tầm quan trọng đối với cấp chính quyền cụ thể. Điều
này phụ thuộc một phần quan trọng vào tầm nhìn, động cơ của người đề
xướng vấn đề chính sách, cũng như quan điểm của người lãnh đạo vì họ là
người kiểm soát chương trình nghị sự.

Thứ hai, vấn đề chưa thích hợp với hoàn cảnh chính trị. Một số vấn đề
chính sách có thể chưa được đem ra xem xét (công khai) không phải vì chúng
không quan trọng, mà do tính nhậy cảm văn hóa, lịch sử dân tộc, hoặc quan
hệ quốc tế, bản thân việc đưa ra xem xét đã có thể có những tác động chính trị
không lường trước. Điều này đặc biệt đúng khi vấn đề chính sách liên quan
đến quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc hay nhóm dân tộc, hay liên quan đến
các giá trị, niềm tin truyền thống...
Cuối cùng, nếu vấn đề không được các nhân vật chính trị quan trọng
hoặc các tổ chức liên quan ủng hộ, thì cũng dễ bị gạt ra ngoài chương trình
nghị sự. Bản thân điều này hàm chứa sự phức tạp và mâu thuẫn biện chứng
của cái chủ quan và khách quan trong khoa học chính trị. Về mặt khách quan,
các vấn đề chính sách quan trọng, có ảnh hưởng đến đa số người dân cuối
cùng tất yếu sẽ phải được xem xét và giải quyết (đặc biệt nếu nhìn cả chiều
dài lịch sử). Tuy nhiên, trong những giai đoạn nhất định, thời điểm nhất định,
vai trò của cá nhân người lãnh đạo lại nổi lên với tư cách là yếu tố quyết định
trong việc có xem xét chúng hay không, hay lúc nào sẽ xem xét. Tính biện
7


chứng của mâu thuẫn này cũng tương tự như mâu thuẫn biện chứng của
nguyên tắc tập trung dân chủ. Sự phân tích trên cho thấy việc xác định cho
đúng nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ là rất quan trọng ngay cả
trong giai đoạn này của chính sách.
1.2. Xây dựng và ban hành chính sách
Kết quả của việc thảo luận các vấn đề đưa ra trong chương trình nghị
sự chính là sự nhất trí về việc cần thiết phải có các chương trình giải quyết
các vấn đề chính sách.

Trong thực tế, sự nhất trí đó phải được cụ thể hoá


bằng các kế hoạch hành động, bằng văn bản pháp quy, tức các quyết định
chính sách. Đây chính là khuôn khổ pháp lý căn bản cho các chương trình
hành động cụ thể của các cơ quan liên quan. Đây không chỉ là kế hoạch có
tính kỹ thuật mà còn là cơ sở pháp lý cho việc sử dụng quyền lực công trong
thực hiện, và khi cần thiết, cưỡng chế thi hành chính sách.
Khoa học chính trị phân tích giai đọan này theo hai phần, cũng là hai
quá trình có những đặc điểm khác nhau cả về mặt kỹ thuật chuyên môn cũng
như các khía cạnh chính trị: i) xây dựng [nội dung] chính sách và ii) thông
qua, ban hành [văn bản] chính sách
Cần phải thấy hai phương diện - tổ chức và nội dung - của giai đoạn
này. Nhận thức về nội dung chính trị của giai đoạn này sẽ qui định việc thiết
kế cách tổ chức xây dựng và thông qua chính sách) tức các qui định pháp lý
về quá trình xây dựng chính sách).
Khác với khoa học pháp lý, khoa học chính trị lấy các quá trình vận
động chính trị, hành vi chính trị thực tế làm trung tâm nghiên cứu, để từ đó có
các kết luận về sự thích hợp của các qui định pháp lý. Nói cách khác, các qui
định pháp lý không thể làm thay đổi các mâu thuẫn chính trị khách quan, chỉ
làm thay đổi hình thức biểu hiện chúng. Chính trị học, do đó, sẽ phải làm rõ
được nội dung chính trị của giai đoạn này, từ đó đưa ra các nhìn nhận về sự
thích hợp của cách tổ chức. Sự hiểu biết các nội dung chính trị là cần thiết

8


cho người lãnh đạo chính trị để có thể áp dụng vào các môi trường, hoàn
cảnh, và con người cụ thể.
Việc phân biệt hai quá trình xây dựng và thông qua chính sách chính là
xuất phát từ sự khác biệt trong nội dung chính trị của chúng, mặc dù về mặt tổ
chức, khó có thể tách biệt được hai quá trình này. Bản thân những người xây
dựng chính sách bị ảnh hưởng phần nào bởi nhu cầu và nguyện vọng của họ

về việc chính sách sẽ được chấp nhận (thông qua). Điều này có thể cắt nghĩa
cho các thoả hiệp tiềm ẩn ngay trong một tổ chức (tiểu ban xây dựng chính
sách) và thậm chí một con người, trong giai đoạn xây dựng chính sách.
Từ khía cạnh nội dung, xây dựng chính sách mang tính kỹ thuật chuyên
môn hơn bởi vì nó bao gồm thu thập, phân tích các thông tin, phát triển các
phương án giải quyết vấn đề. Vấn đề trung tâm của việc xây dựng chính sách
là vấn đề so sánh chi phí và kết quả. Kỹ năng chủ yếu ở đây là Phân tích Chi
phi – Lợi ích, từ đó xây dựng các phưong án với các lộ trình và tác động khác
nhau.
Những người tham gia chính ở đây là các chuyên gia, các nhà tư vấn,
các viên chức có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên môn tương
ứng. Các tổ chức đóng vai trò chính có thể bao gồm các uỷ ban chuyên môn
của quốc hội, các ban chuyên môn của Đảng, các cơ quan nghiên cứu (trường
đại học, viện nghiên cứu), các bộ liên quan, các tổ chức tư vấn phi chính phủ,
và đặc biệt là tiểu ban chuẩn bị chính sách, được thành lập trên cơ sở liên
ngành và bao gồm các cá nhân có kiến thức, kinh nghiệm, các quan hệ chính
trị v.v.. Về căn bản, quy trình này cần có các bước sau:
1) Xác định các đối tượng chính sách
2) Xác định các kết quả cần đạt đối với các đối tượng này
3) Xác định các chi phí dự tính
4) Xác định các phương án chính khả thi
5) Xác định các tác động phụ, các hiẹu ứng lan tỏa khác

9


6) So sánh kỹ thuật giữa các phương án này theo các tiêu chí được định
lượng rõ ràng.
Trên cơ sở các thông tin có tính kỹ thuật này, việc thông qua (phê
chuẩn) chính sách cuối cùng sẽ mang nhiều tính chính trị hơn bởi vì vấn đề

trung tâm ở đây là giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích. Vai trò của “các
nhân tố chủ quan” như hệ tư tưỏng, quan điểm, các chuẩn mực giá trị là rất
quan trọng trong việc quyết định phương án nào sẽ được lựa chọn.
Ngoài ra, tại nhiều nước trên thế giới, việc đưa ra công chúng lấy ý
kiến từ nhóm người và các tổ chức liên quan thường là một quy định có tính
bắt buộc trong các chính sách lớn. Việc lấy ý kiến như vậy, có hai ý nghĩa:
1- Loại trừ tính cục bộ của các nhà hoạch định, tăng tính khoa học, bổ
sung các khía cạnh mà chỉ có những người liên quan nhìn thấy rõ nhất, và
2 – Tạo sự đồng thuận, từ đó, giảm các chi phí cưỡng chế trong quá
trình thực hiện.
Như vậy, có hai hoạt động để ra quyết định một chính sách: Thứ nhất,
các tư tưởng chủ đạo của một chính sách phải được phát triển, đồng thời các
loại (hoặc hình thức) hành động cũng phải được quyết định (xây dựng các
phương án chính sách) và trên cơ sở đó các dự thảo chính sách được đưa ra.
Thứ hai, sau khi đã xác định được các vấn đề trên, chúng phải được cụ thể
hoá trong các hình thức văn bản luật, nghị định, qui định hành chính, v..v và
phải được phê chuẩn bởi các cơ quan có thẩm quyền (tức "thông qua chính
sách").
Hai quá trình này hoà quyện và tương tác chặt chẽ trên thực tế. Tính
hoà quyện và tương tác được thể hiện ở ngay trong quá trình xin ý kiến, thăm
dò dư luận, điều chỉnh nội dung trước khi lập tờ trình chính thức.

Sự thoả

hiệp trong việc xây dựng và thông qua chính sách, đặc biệt các chính sách
phức tạp và có ảnh hưởng rộng rãi trong xã hội, là dễ thấy không chỉ bởi
không thể tính được hết chi phí và lợi ích, mà còn vì sự đông thuận chính trị,
vốn hết sức quan trọng và có ý nghĩa sống còn đối với tính khả thi của một
10



chính sách bất kỳ. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này đã chỉ ra rằng đáng ra,
người ta phải thuyết phục để kiếm được sự nhất trí cho chính sách (được sọan
thảo khoa học), thì đôi lúc, các nhà làm chính sách lại đi tìm một chính sách
có khả năng đảm bảo sự nhất trí.
Về mặt tổ chức, các quốc gia khác nhau, và tuỳ thuộc vào vấn đề chính
sách, cách tổ chức cũng có thể khác nhau. Thông thường, sau khi đã xác định
rõ mục tiêu, chính phủ sẽ thành lập tiểu ban soạn thảo chính sách. Tiểu ban
này bao gồm các công chức, chuyên gia trong lĩnh vực liên quan. Thành viên
của tiểu ban này phải dáp ứng được các yêu cầu về chuyên môn (nắm vững
các kiến thức, thông tin liên quan), về kinh nghiệm (đã theo dõi các vấn đề
chính sách tương tự), và cả về tính đại diện (đảm bảo sự hài hoà về lợi ích của
các ngành, bộ, nhóm dân cư v.v. bị ảnh hưởng bởi chính sách). Tiểu ban này
có trách nhiệm xây dựng các phương án (chương trình) chính sách trên cơ sở
khoa học, và thực tế có tham khảo ý kiến các đối tượng liên quan (kể cả lấy ý
kiến nhân dân, nếu chính sách đó có phạm vi rộng và có ảnh hưởng quan
trọng đến cuộc sống của đa số nhân dân). Sau các tiếp thu ý kiến và chỉnh lý
cần thiết, các phương án chính sách sẽ được trình cho các cấp có thẩm quyền
để thông qua như bộ, ngành, chính phủ hay quốc hội, tuỳ thuộc vào luật và
các qui định pháp lý cụ thể.
Khoa học chính trị đang hướng tới cung cấp các kiến giải để cho việc
thiết kế tổ chức này ngày càng khoa học hơn.

Do vậy, việc phân tích nội

dung của quá trình hoạch định chính sách phải lấy giai đoạn xây dựng và
thông qua chính sách là giai đoạn trung tâm.
1.3. Triển khai chính sách
Thông thường, việc triển khai một chính sách sẽ được qui định bởi văn
bản pháp lý của chính phủ. Các văn bản này, ngoài các qui định có tính kỹ

thuật còn làm rõ hai vấn đề chính: 1) Chủ thể triển khai: tức ai hoặc cơ quan
nào được ủy quyền của chính phủ, và do vậy có sự độc lập nhất didnhj trong
triển khai; 2) Khuôn khổ triển khai: tức làm rõ sự ràng buộc của cơ quan triển
11


khai. Sự ràng buộc như vậy không chỉ hạn chế việc sử dụng quyền lực được
ủy nhiệm một cách tùy tiện, mà còn ràng buộc cả về ngân sách, nhân lực và
đôi khi cả cung cách triển khai.
Như vậy, bản thân giai đoạn triển khai cũng bao gồm việc ban hành các
văn bản cụ thể hơn có tính pháp lý, qui định trách nhiệm, quyền hạn cũng như
việc thực thi các hành động và biện pháp cụ thể.
Các chủ thể triển khai quan trọng nhất là các cơ quan hành chính cùng
với các viên chức của mình. Các viên chức ở ngành lập pháp và tư pháp cũng
có những vai trò quan trọng, đặc biệt trong việc triển khai các chính sách có
liên quan đến các hoạt động tranh tụng, như các chính sách về phá sản, chống
độc quyền, v.v
Để triển khai có hiệu quả, cần đảm bảo 3 điều kiện tối thiểu sau:
1) Cơ quan được giao nhiệm vụ triển khai phải có đủ nguồn tài chính nhân lực - vật lực cho việc triển khai đó;
2) Cơ quan này phải có đủ thẩm quyền kỹ thuật chuyên môn để biến
các mục tiêu thành các chương trình hành động cụ thể thích hợp;
3) Cơ quan này cũng phải chịu trách nhiệm giải trình về các hoạt động
triển khai đó. Việc chịu trách nhiệm giải trình, hay đúng hơn tính khả quy
trách nhiệm có hàm ý rằng việc triển khai chính sach đòi hỏi việc quy định rõ
trách nhiệm cho từng công việc. Tính khả quy trách nhiệm khác với tinh thần
trách nhiệm ở chỗ đó là đòi hỏi khách quan của việc cưỡng chế có hiệu lực
(đặc điểm của chính sách công) chứ không phải là đòi hỏi về mặt đạo đức như
“tinh thần trách nhiệm” hàm ý. Tính khả quy trách nhiệm là đòi hỏi tối thiểu,
trong khi tinh thần trách nhiệm là đòi hỏi tối đa, có tính lý tường cần vươn tới
mà trong thực tế không dễ thỏa mãn.

Các cơ quan triển khai chính sách thông thường cũng có tính độc lập
nhất định trong việc cụ thể hóa nội dung chính sách . Sự tham gia "vượt
quyền" này đôi lúc là rất cần thiết, bởi vì xuất hiện nhiều vấn đề thực tế không
thể lường được trong giai đoạn hoạch định, cần giải quyết sáng tạo kịp thời.
12


Tuy nhiên, không thể không có các cơ quan theo dõi kiểm tra sự triển khai
trong thực tế.
Kinh nghiệm trên thế giới luôn nhấn mạnh vào các cơ chế, tổ chức để
giám sát quá trình triển khai. Một trong những cơ chế hiệu quả và ít tốn kém
được gọi là cơ chế “chuông cứu hỏa”. Cơ chế này huy đọng và khuýen khích
các nhóm dân cư chịu ảnh hưởng của chính sách tham gia vào việc giám sát
chính sách. Vì là quyền lợi thiết thân, các nhóm dân cư này sẵn sàng chia sẻ
chi phí cho việc giám sát. Một khi có các dấu hiệu chệch hướng với mục tiêu
và văn bản pháp lý, các nhóm này sẽ là những người đầu tiên có phản hồi và
ngăn chặn các diễn biến theo hướng tồi tệ hơn. Cơ chế như vậy không chỉ tiết
kiệm đưộc cac chi phí của ngân sách mà còn khiến người dân tự nhận thấy
trách nhiệm xã hội của mình. Cơ chế này cũng xuất phát một cách tự nhiên từ
lịch sử vì bản thân các nhóm dân chúng liên quan, ngay cả khi không được ủy
quyền, đã luôn có động cơ giám sát.
Tuy nhiên, bản thân việc giám sát cũng là một dịch vụ công (Vì những
người không giám sát cũng tự động đựơc hưởng lợi từ sự giám sát của những
người khác). Đây là kết quả nghiên cứu quan trọng của khoa học chính sách
vì nó cho thấy rằng, việc giám sát chính sach công cũng cần quyền lực công,
tức vai trò của nhà nước. Với các xã hội phát triển, trình độ nhận thức và ý
thức trách nhiệm xã hội cao, việc giám sát như vậy có thể để cho các tổ chức
phi chính phủ đảm nhiệm. Công việc của chính phủ lúc đó chỉ đơn thuận là
tạo hành lang pháp lý và cung cấp thông tin sẵn có chứ không nhất thiết phải
cung cấp tài chính hay nhân lực.

1.4. Đánh giá chính sách
Đánh giá chính sách ngày càng được coi trọng trong chu trình chính
sách, bởi vì đây là khâu thường bị quên lãng, hoặc không được tiến hành một
cách nghiêm túc.
Giai đoạn đánh giá bao gồm đánh giá kết quả thực tê của việc triển khai
chính sách cũng như việc đánh giá bản thân quá trình xây dựng và triển khai
13


để tổng kết các kinh nghiệm. Tuy nhiên, để đánh giá được một cách khoa học
thì khả năng đo lường được chính xác các chi phí và kết quả, cũng như khả
năng quy được trách nhiệm là rất quan trọng. Và đây cũng là hai vấn đề trung
tâm của nhiều cải cách hành chính hiện nay trên thế giới cũng như tại nước ta.
Việc đánh giá chính sách được tiến hành ngay cả trước khi triển khai,
trong quá trình xây dựng chính sách, và có ảnh hưởng sống còn với chính
sách. Đánh giá chính sách không đơn thuần là các đòi hỏi kỹ thuật khách
quan để hiểu thấu đáo tác động của chính sách đó, mà còn mang tính chính trị
ngay từ khởi đầu và trong suốt mọi khâu từ thông qua kế hoạch, xác định hệ
tiêu chí, kết luận đánh giá về một chính sách giữa các chủ thể chính trị có liên
quan.
Theo tính chất và mức độ khái quát có thể chia ra ba loại đánh giá
chính sách chính: Đánh giá chính trị; đánh giá kỹ thuật; và đánh giá toàn diện.
a. Đánh giá chính trị
Kiểu đánh giá này xem xét khía cạnh khả thi chính trị của một chính
sách, đặc biệt trong những giai đoạn đầu của quá trình, khi chính sách chưa
được thông qua, mới đang trong giai đọan hính thành những ý tưởng căn bản.
Những người xây dựng chính sách, không những chỉ quan tâm đến nội dung
cụ thể của một chính sách mà trước hết là tính khả thi về mặt chính trị của nó.
Đánh giá tính khả thi chính trị bao gồm cả đánh giá về cơ chế hành chính và
các mâu thuẫn về lợi ích trong triển khai, tức cung cách xây dựng và triển

khai một chính sách.
Các chính sách mang tính tiệm tiến luôn có lợi thế nếu đánh giá từ góc
độ này bởi vì những gì đã quen thuộc dễ nhận được sự ủng hộ và ít rủi ro
chính trị hơn. Ngoài ra, các cơ chế, thủ tục hiện có cũng chưa cần phải thay
đổi nhiều để đáp ứng chính sách.
b. Đánh giá kỹ thuật
Kiểu đánh giá này tập trung vào đánh giá các kết quả theo các tiêu chí
đặt ra ban đầu. Trong đó chủ yếu là đánh giá các tác động trực tiếp, các chi
14


phí và lợi nhuận trực tiếp của chính sách. Các đánh giá như vậy có thể cho
thấy là chính sách đã được triển khai theo đúng ý định chưa, có hiệu quả nhất
chưa, các nguồn lực được phân bổ cho chính sách đã thích hợp chưa, các tiêu
chí định lượng đã đạt được ở mức độ nào....
Các đánh giá trên mang phạm vi khá hẹp và thường không cho chúng ta
thấy được hết các tác động gián tiếp lên toàn bộ xã hội, do đó cũng chưa đưa
ra được kết luận về việc liệu mục tiêu tổng thể của chính sách đó đã đạt được
chưa. Tuy nhiên, trong những điều kiện hạn hẹp (về ngân sách, thời gian
v.v.) việc đánh giá kỹ thuật như vậy vẫn là nội dung chính, đồng thời là cơ sở
quan trọng cho sự đánh giá tòan diện. Có nhiều hình thức đánh giá tùy thuộc
vào các chính sách cũng như mục tiêu của đánh giá: như đánh giá nhanh (chỉ
xem xét các tiêu chí căn bản nhất, nhằm phát hiện các vấn đề đẻ có điều
chỉnh, hoặc do điều kiện tài chính và thời gian hạn hẹp), đánh giá chi phí (chỉ
xem xét các chi phí mà không xem xét cụ thể các lợi ích. Thích hợp cho các
chính sách xã hội, trong đó các tác động của chính sách là rất rộng và chắc
chắn có lợi cho tòan bộ xã hội nhưng khó có thể lượng hóa), đánh giá lợi ích
(không xem xét chi phí. Kiểu này ít được áp dụng hơn và thường được dùng
trong giai đọan đầu, đánh giá sơ bộ) v.v.
c. Đánh giá toàn diện

Kiểu đánh giá này đòi hỏi sự khảo sát toàn diện, có hệ thống, khách
quan, và nghiêm ngặt nhằm đưa ra đánh giá về sự thành công trong mục tiêu
tổng thể của chính sách. Nó cũng làm sáng tỏ các tác động gián tiếp khác (về
xã hội, môi trường, cũng như các tác động chính trị khác không thể qui ra
tiền) và vì vậy có thể so sánh được chi phí - lợi ích một cách thuyết phục hơn.
Trên cơ sở đó, các đánh giá về tính tối ưu được đưa ra. Quá trình đánh giá
này là kênh phản hồi chính sách chủ đạo. Khuynh hướng hiên nay ở các nước
trên thế giới cho thấy càng ngày người ta càng chú trọng vào kiểu đánh giá
này. Trong nhiều nước, các uỷ ban độc lập được lập ra để đánh giá các chính

15


sách. Các cơ quan chính phủ cũng thành lập các bộ phận chuyên đánh giá
toàn diện ngày càng nhiều.
Kỹ thuật chủ yếu được dùng ở đây là Phân tích chi phí – lợi ích xã hội.
Kỹ thuật phân tích như vậy sẽ bao gồm cả các hiệu ứng khác mà trong đánh
giá trực tiếp không có đièu kiện tiến hành. Các chính sách lớn như về năng
lượng, môi trường, giáo dục v.v. thông thường đều đòi hỏi sự đánh giá toàn
diện vì một chính sách như giáo dục chẳng hạn, ngoài việc có lợi cho những
người thụ hưởng cũng có thể có lợi về mặt xã hội (văn minh hơn, ổn định
hơn), mặt kinh tế (ví dụ : thu hút nhiều khách du lịch hơn), an ninh quốc
phòng hay quan hệ quốc tế.
Phân tích chi phí – lợi ích xã hội cũng đòi hỏi các phương pháp luận
khoa học và các khóa đào tạo căn bản và có tính đặc thù rất khác so với phân
tích chi phí lợi ích thông thường của cá nhân hay một tổ chức. Bài này sẽ
không đề cập sâu vì không phải là tâm điểm chuyên môn.

16



CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH QUỐC GIA VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐỌAN HIỆN NAY
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kể từ năm
1986, chúng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới, mà quan trọng nhất là đổi mới
tư duy của chúng ta về nội dung cũng như các bước đi của thời kỳ quá độ này.
Tư tưởng chủ đạo của hệ thống chính sách trong thời kỳ này là bỏ qua việc
xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học, công nghệ, với trọng tâm
là phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Cụ thể
là các chính sách đưa ra sẽ phải nhằm mục tiêu đẩy mạnh tốc độ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp.
Sự đổi mới tư duy đó được thể hiện qua các thay đổi quan trọng trong
các chính sách lớn, mà trước hết là chính sách kinh tế. Trên cơ sở đổi mới
trong lĩnh vực kinh tế chúng ta cũng có những đổi mới thích hợp trong các
lĩnh vực khác như lĩnh vực xã hội, và hệ thống chính trị. Tất nhiên, đổi mới
trong lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lương sản xuất, chiếm ưu tiên hàng đầu
và đây cũng là đột phá căn bản của Việt Nam trong các chính sách đối nội.
Chính vì vậy trong giai đoạn hiện nay, việc phân tích các chính sách có thể
xuất phát từ các đặc điểm của thời kỳ chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp
sang nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, để có thể nắm
được các tác động chính trị của các chính sách lớn.
Đây tất nhiên là một nội dung tương đối mới, rộng còn đang được
nghiên cứu và thảo luận để làm sáng tỏ chi tiết.

Chính vì vậy phần này sẽ

chủ yếu nêu ra một số vấn đề mang tính định hướng của Đảng.

Có thể còn nhiều điều phải thảo luận nhưng thuật ngữ "nền kinh tế thị
trường với định hướng xã hội chủ nghĩa" dứt khoát thể hiện mục tiêu tiến tới
17


các giá trị của chủ nghĩa xã hội thông qua các công cụ của nền kinh tế thị
trường, mà thực tế của Việt nam cho thấy là, mặc dù còn nhiều khiếm khuyết,
đã chứng tỏ tính hiệu quả cao hơn.

Mặt khác, chấp nhận nền kinh tế thị

trường, chúng ta cũng phải chấp nhận sự cạnh tranh khốc liệt và kèm theo nó
là sự phóng đại các bất bình đẳng trong xã hội. Đây cũng chính là điều chúng
ta chưa giải quyết tốt: các chỉ số về bất bình đẳng vãn tăng, khoảng cách giữa
những hộ giàu nhất so với hộ nghèo nhất ngày càng giãn cách. Như vậy, trong
khi thu nhập bình quân trên đầu người tăng lên đáng kể thì khoảng cách giàu
nghèo, nông thôn - thành thị đã không giảm đi mà lại còn tăng lên một cách
đáng lo ngại.
Như vậy, các chính sách của chúng ta sẽ phải giải quyết được mối mâu
thuẫn giữa tính hiệu quả kinh tế và sự công bằng xã hội. Đây là nguyên tắc
quan trọng trong quá trình hoạch định mọi chính sách trong thời kỳ này. Vì
nếu không giải quyết thoả đáng mâu thuẫn này, không những nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa sẽ ngày càng lớn, mà bản thân nguy cơ về các bất ổn
xã hội - chính trị cũng tăng đáng kể, và từ đó xói mòn uy tín lãnh đạo của
Đảng.
Mặt khác, thực tế hiện nay cũng cho thấy vẫn tồn tại những yếu kém
của khu vực quốc doanh, cũng như sự yếu kém của nhà nước trong việc điều
hành nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên, sự định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ dễ
dàng bị biến mất nếu Đảng và nhà nước đánh mất vai trò lãnh đạo của mình.
Như vậy, bài toán lớn thứ hai phải giải quyết đó là vai trò, hình thức, và mức

độ điều tiết của Đảng và nhà nước trong lĩnh vực kinh tế. Vấn đề này liên
quan đến việc phát triển nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng, và từ đó liên quan tới việc thiết kế qui trình hoạch định chính
sách: dân chủ, khoa học, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa đã được
chúng ta lựa chọn một cách có ý thức, có trách nhiệm với tương lai toàn dân
tộc.

18


Hai bài toán trên, tất nhiên cũng là những bài toán của các nước khác
trên thế giới, kể cả nước phát triển nhất, tuy nhiên ở nước ta, do bối cảnh lịch
sử và các điều kiện xã hội cụ thể, đã trở nên đặc biệt quan trọng. Đây cũng là
hai khía cạnh chính được dùng như hệ toạ độ để chúng ta xem xét hệ thống
chính sách của Việt Nam và phát triển của nó trong giai đoạn hiện nay. Trong
bối cảnh này, các tác phẩm của Lê-nin bàn về các nhiệm vụ và bước đi của
chính quyền Xô viết thời kỳ NEP có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong việc
phát triển tư bản nhà nước và kinh tế hợp tác.
Xem xét cụ thể bộ máy hoạch định và triển khai chính sách của nước ta
hiện nay cho thấy hai đặc điểm quan trọng nhất của bộ máy đó là: cơ chế song
trùng trực thuộc và sự phân định chức năng quản lý - lãnh đạo. Nguyên tắc
chính trị quan trọng nhất của bộ máy chính sách đó là phải đảm bảo được sự
lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ hệ thống chính trị. Tuy nhiên, các hình
thức lãnh đạo của Đảng ngày càng được làm rõ và cụ thể hơn qua từng thời
kỳ.

19


PHẦN C: KẾT LUẬN

Hiện nay, quan hệ giữa các cấp (trung ương, tỉnh, huyện, xã) cũng như
giữa các cơ quan Đảng và nhà nước vẫn rất phức tạp và chồng chéo. Vai trò
và sự phân công, phân quyền giữa các ngành lập pháp, tư pháp và hành pháp
vẫn chưa rõ ràng. Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp vẫn chưa đủ năng
lực và cơ sở vật chất để hoàn thành trách nhiệm ngày càng cao. Các đổi mới
về chức năng như vậy đòi hỏi phải thay đổi tổ chức và thể chế tương ứng
cũng như việc quản lý ngân sách nhà nước ngày càng phải bám sát các thay
đổi này theo hướng phân quyền và tự chủ tài chính.
Ngoài ra, thực tế nước ta cho thấy sự cần thiết phải xây dựng quá trình
ra chính sách một cách khoa học, huy động được trí tuệ tập thể, thoả mãn
được các nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, khắc phục sự phiến diện và áp
đặt tiềm ẩn của cơ quan ra chính sách hiện nay. Việc huy động và tham khảo
ý kiến của đông đảo cán bộ, nhân dân, việc tuyên truyền giải thích chính sách
đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi các chính sách theo đúng như dự
kiến.
Như vậy, có thể khái quát hoá sự đổi mới của bộ máy chính sách của
nước ta diễn ra trong 3 lĩnh vực chính: chức năng (sự chuyển giao, sắp xếp
và phân định lại theo chiều ngang Đảng-nhà nước, cũng như chiều dọc trung
ương-địa phương), thiết chế (cải cách bộ máy hành chính và bộ máy của
Đảng), và Quá trình (sự tham gia của các cơ quan tham mưu, đảng viên và
nhân dân). Đây là những vấn đề mang tính cấp bách trong hoạch định chính
sách của nước ta, nhận được ưu tiên xem xét của Đảng và nhà nước trong suốt
thời gian gần đây.

20


MỤC LỤC
1.1. Xác lập nghị trình....................................................................................................3
1.1.1. Căn cứ lý luận...................................................................................................3

1.1.2. Căn cứ thực tế...................................................................................................4
1.1.3. Điều kiện cụ thể................................................................................................5
1.2. Xây dựng và ban hành chính sách...........................................................................8
1.3. Triển khai chính sách............................................................................................11
1.4. Đánh giá chính sách..............................................................................................13
a. Đánh giá chính trị.................................................................................................14
b. Đánh giá kỹ thuật.................................................................................................14
c. Đánh giá toàn diện................................................................................................15
CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH QUỐC GIA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐỌAN HIỆN
NAY.................................................................................................................................17



×