Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.38 KB, 88 trang )

Khoá luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU

Trong khoảng hai mươi năm trở lại đây, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở
thành xu thế tất yếu của thời đại và diễn ra ngày càng sâu về nội dung, ngày càng
rộng về quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, Việt Nam cũng đã và đang
thực hiện giai đoạn đầu tiên của quá trình hội nhập quốc tế. Việt Nam đã gia
nhập khối ASEAN; tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); ký
hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ; đặc biệt mới đây nhất là
Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại Thế giới
(WTO) và tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế quốc tế cũng như ký kết các hiệp
định thúc đẩy quan hệ thương mại song phương khác.
Hệ thống NHTM Việt Nam cũng không nằm ngoài bối cảnh này. Không thể có
một nền kinh tế khoẻ mạnh nếu có một hệ thống NHTM còn nhiều vấn đề. Xã
hội càng phát triển thì vai trò của NHTM đối với nền kinh tế ngày càng lớn.
NHTM với vai trò là “kênh truyền dẫn vốn trong nền kinh tế”, đảm bảo cho nền
kinh tế vận động nhịp nhàng và có hiệu quả.
Trong các hoạt động thường xuyên và cơ bản, tín dụng được xem là hoạt động
quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói
chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và
cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Do vậy, làm thế nào để củng cố và
nâng cao chất lượng tín dụng là điều luôn được các nhà quản lý ngân hàng, các
nhà chính sách và các nhà nghiên cứu quan tâm. Trong quá trình thực tập tại Chi
nhánh NHCT Đống Đa em đã có những hiểu biết nhất định về tầm quan trọng
của hoạt động tín dụng. Xuất phát từ thực tiễn đó em đã chọn đề tài “Nâng cao
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
11
Khoá luận tốt nghiệp
chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh NHCT Đống Đa” làm khoá luận cho
mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm có 3 chương:


Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại Chi nhánh NHCT Đống Đa
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Chi
nhánh NHCT Đống Đa
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, PGS.TS Nguyễn Hữu Tài, các bác, các
anh chị trong phòng khách hàng số 1 Chi nhánh NHCT Đống Đa đã giúp đỡ em
hoàn thành chuyên đề này. Do trình độ lý luận và hiểu biết thực tế còn hạn chế
nên chuyên đề của em khó tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận
được sự góp ý của thầy giáo hướng dẫn – PGS.TS Nguyễn Hữu Tài, các thầy cô
giáo khoa Ngân hàng – Tài chính và các bác, các anh chị phòng khách hàng số 1
Chi nhánh NHCT Đống Đa để khoá luận của em được hoàn thiện hơn.
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
22
Khoá luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về NHTM
1.1.1 Khái niệm về NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh
tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng
lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Vậy mà vẫn có
sự nhầm lẫn trong việc định nghĩa ngân hàng là gì?
Theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
“ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Các ngân hàng cũng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc
vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên

đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính – bao gồm cả
các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương
hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của
ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh ( các tổ
chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp về bất động
sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ
tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ môi giới khác. Cách tiếp cận thận trọng nhất
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
33
Khoá luận tốt nghiệp
là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng
cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ
tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế.
1.1.2 Hoạt động chủ yếu của NHTM
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM, nó đóng vai trò quan
trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng huy động
vốn từ các nguồn chủ yếu:
 Vốn chủ sở hữu: Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho
phép) chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định.
+ Nguồn vốn hình thành ban đầu: Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà
nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu
Nhà nước, ngân sách Nhà nước cấp ( vốn của Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ
phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng
liên doanh do các bên liên doanh góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư
nhân.
+ Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động,
ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào

điều kiện cụ thể:
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện nguồn thu nhập ròng lớn hơn không, chủ
ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu
nhập ròng thành vốn đầu tư.
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
44
Khoá luận tốt nghiệp
Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở rộng
quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu gia
tăng vốn của chủ do ngân hàng Nhà nước quy định…
+ Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ: Quỹ dự phòng tổn thất, quỹ bảo toàn vốn,
quỹ thặng dư, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng… mỗi quỹ có mục đích riêng.
Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng.
+ Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Các khoản vay trung và dài
hạn của NHTM có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là
một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng do nguồn này có một số đặc điểm như sử
dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi
đến hạn.
 Nguồn tiền gửi: Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng
nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng.
+ Tiền gửi thanh toán: Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân
hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các
nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Nhìn
chung lãi suất của khoản tiền này rất thấp ( hoặc bằng không), thay vào đó chủ
tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp.
+ Tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Nhiều khoản thu
bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời
gian xác định. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa
ra hình thức tiền gửi có kì hạn. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình
thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ

theo độ dài của kì hạn.
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
55
Khoá luận tốt nghiệp
+ Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập
tạm thời chưa sử dụng. Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ
đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với
các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn.
+ Tiền gửi của các ngân hàng khác: Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một
số mục đích khác, NHTM này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên quy
mô này thường không lớn.
 Nguồn đi vay: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM, tuy nhiên,
khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm.
+ Vay NHNN: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả
của NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thường vay NHNN. Hình
thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu ( hoặc tái cấp vốn).
+ Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn
nhau và vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn vay
mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và
trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ
NHNN.
+ Vay trên thị trường vốn: Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng
cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ ( kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu)
trên thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn.
1.1.2.2 Hoạt động tín dụng và đầu tư
 Hoạt động tín dụng: Hoạt động chủ yếu của NHTM là tài trợ cho khách
hàng trên cơ sở tín nhiệm ( tín dụng). Hình thức tín dụng truyền thống của
NHTM là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách hàng mua hàng
hoá, nguyên nhiên vật liệu; sau đó mở rộng thành nhiều hình thức khác nhau như
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A

66
Khoá luận tốt nghiệp
cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng khoán, giấy tờ có giá…
hoặc không cần thế chấp. Các NHTM lớn hiện nay thực hiện đa dạng các hình
thức tín dụng từ cho vay ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách (để khách
hàng có thể phát hành các chứng khoán huy động vốn, mua hàng mà chưa cần trả
tiền ngay, hoặc vay của người thứ ba…), mua các tài sản để cho thuê… Các hình
thức tín dụng này, một mặt mang lại thu nhập, mặt khác chứa đựng rủi ro cho
ngân hàng.
 Hoạt động đầu tư: NHTM được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp
vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước
theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, NHTM còn được góp vốn, mua cổ phần
và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh
Bên cạnh đó, NHTM được tham gia thị trường tiền tệ, theo quy định của
NHNN, thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ.
1.1.2.3 Hoạt động dịch vụ khác
 Hoạt động thanh toán và ngân quỹ: Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân
quỹ của NHTM bao gồm các hoạt động sau:
+ Cung cấp các phương tiện thanh toán.
+ Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng.
+ Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ.
+ Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN
+ Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép.
+ Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
+ Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên
ngân hàng trong nước.
+ Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép.
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
77
Khoá luận tốt nghiệp

 Kinh doanh ngoại hối: NHTM được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành
lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong
nước và thị trường quốc tế.
 Uỷ thác và nhận uỷ thác: NHTM được uỷ thác, nhận uỷ thác làm đại lý
trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản,
vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác, đại
lý.
 Cung ứng dịch vụ bảo hiểm: NHTM được cung ứng dịch vụ bảo hiểm,
được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo
quy định của pháp luật.
 Tư vấn tài chính: NHTM được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền
tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn
trực thuộc ngân hàng.
 Bảo quản vật có giá: NHTM được thực hiện các dịch vụ bảo quản vật quý,
giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên quan theo quy
định của pháp luật.
1.2 Tổng quan về tín dụng Ngân hàng
1.2.1 Khái niệm và các nguyên tắc tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản
ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Có thể hiểu rằng: “ Tín dụng ngân hàng
là quan hệ tín dụng giữa một bên là Ngân hàng, còn bên kia là các pháp nhân và
thể nhân khác trong nền kinh tế theo nguyên tắc hoàn trả”. Việc hoàn trả được nợ
gốc trong tín dụng có nghĩa là việc thực hiện được giá trị hàng hoá trên thị
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
88
Khoá luận tốt nghiệp
trường, còn việc hoàn trả được lãi vay trong tín dụng là việc thực hiện được giá
trị thặng dư trên thị trường.
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM. Chính
vì vậy, hoạt động tín dụng của NHTM phải dựa trên một số nguyên tắc nhất định

nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời.
+ Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn ( gốc) và lãi với thời gian xác định:
Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi
của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu
người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân
hàng tồn tại và phát triển.
+ Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận
với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định khác
của ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các ngân
hàng. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động
riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng
không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và việc tài trợ đó là phù hợp với
cương lĩnh của ngân hàng.
+ Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án ( hoặc dự án) có hiệu quả. Thực hiện
nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt
động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi vốn đầu tư và
có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với
việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn,
ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay.
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
99
Khoá luận tốt nghiệp
1.2.2 Phân loại tín dụng ngân hàng
Có rất nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách
hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại:
1.2.2.1 Phân loại theo thời gian
Theo thời gian , tín dụng được phân chia thành:
+ Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống. Tín dụng ngắn hạn nhằm tài trợ
cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của Nhà nước, doanh

nghiệp, hộ sản xuất.
+ Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm, được sử dụng khi doanh
nghiệp có nhu cầu mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới kĩ thuật, mở rộng sản
xuất, xây dựng các dự án có quy mô nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh
+ Tín dụng dài hạn : Trên 5 năm, chủ yếu được sử dụng để cấp vốn cho xây
dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ
tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn.
Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho
vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia tín dụng theo thời
gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến
tính an toàn và sinh lợi của tài sản.
1.2.2.2 Phân loại theo hình thức
Theo hình thức tài trợ tín dụng chia thành:
+ Chiết khấu : Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho
khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân
hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ)
+ Cho vay : Là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
1010
Khoá luận tốt nghiệp
+ Bảo lãnh : Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho
khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
+ Cho thuê : Là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc
lẫn lãi cho ngân hàng.
1.2.2.3 Phân loại theo tài sản đảm bảo
Theo hình thức này, tín dụng được chia thành:
+ Tín dụng có tài sản đảm bảo : Là loại tín dụng dựa trên cơ sở các bảo đảm

như đảm bảo bằng uy tín người thứ ba, đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
Tài sản đảm bảo cho phép ngân hàng có nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các
tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ.
+ Tín dụng không cần tài sản đảm bảo : Là loại tín dụng không có tài sản cầm
cố, thế chấp, hoặc không có sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cấp tín dụng chỉ
dựa vào uy tín của bản thân khách hàng. Hình thức này áp dụng với các khách
hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài
chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối
nhỏ so với vốn của người vay.
1.2.2.4 Phân loại theo cách thức cho vay
Theo cách phân loại trên, tín dụng được chia thành:
+ Cho vay thấu chi : Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép
khách hàng được chi trội ( vượt ) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến
một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Thấu chi là hình thức
tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
1111
Khoá luận tốt nghiệp
doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả
lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng…
+ Cho vay trực tiếp từng lần : Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không
có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng,
ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân
hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả.
+ Cho vay theo hạn mức : Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả
thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho
cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức được cấp trên
cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách
hàng. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không xác định trước kì hạn nợ và thời

hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ.
+ Cho vay luân chuyển : Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng
hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để
mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Theo hình thức này, giá trị
hàng hoá mua vào ( có hoá đơn hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng ) đều là đối
tượng được ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguốn để chi trả cho
ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng và
chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và hàng hoá trong
kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay.
+ Cho vay trả góp : Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả
góp thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố
định hoặc hàng lâu bền. Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
1212
Khoá luận tốt nghiệp
chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng thu nợ phụ thuộc vào thu nhập đều
đặn của người vay. Do rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất
trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp : Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên
cạnh đó ngân hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình
thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian như nhóm sản xuất, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ… Cho vay gián tiếp áp dụng với thị trường
có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng.
1.2.3 Vai trò của tín dụng Ngân hàng
1.2.3.1 Đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng là công cụ, đòn bẩy mạnh mẽ, góp phần thực hiện các
chính sách kinh tế của Chính phủ, điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi
các mục tiêu xã hội.
Tăng trưởng kinh tế gắn với mức vốn đầu tư tương ứng bằng các nguồn vốn

tích luỹ trong nước, vốn từ nước ngoài. Tín dụng ngân hàng góp phần giảm hệ số
tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong tất cả các thành phần kinh
tế thông qua đi vay để cho vay. Đồng thời tín dụng ngân hàng cũng là đòn bẩy
kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế.
Việc điều chỉnh nền kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô của nhà nước được thực
hiện bằng nhiều công cụ, trong đó công cụ tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan
trọng. Bởi vì thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, sẽ làm biến đổi điều kiện
sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các chủ thể kinh tế theo hướng tối ưu, góp phần
làm cho chu kỳ vận động của tiền tệ rút ngắn về thời gian, nâng cao vòng quay
của tiền tệ.
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
1313
Khoá luận tốt nghiệp
Tín dụng là động lực mạnh mẽ đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhà nước có thể tập trung vốn
tín dụng thông qua ngân hàng để đầu tư phát triển nông nghiệp và các ngành
kinh tế mũi nhọn nhằm tạo cơ cấu kinh tế hợp lý.
1.2.3.2 Đối với khách hàng
Với chức năng chính là “đi vay để cho vay”, ngân hàng đứng ra huy động
tiền gửi từ dân cư và các doanh nghiệp. Mỗi cá nhân và tổ chức, khi có nguồn
vốn nhàn rỗi tạm thời, có thể gửi vào ngân hàng như một sự lựa chọn an toàn và
là quyết định đầu tư ít rủi ro. Ngân hàng dùng số vốn tạm thời này để cung cấp
cho các cá nhân và các doanh nghiệp khác đang có nhu cầu về vốn. Do có ngân
hàng đứng ra làm trung gian cho quá trình luân chuyển vốn, làm cầu nối giữa tiết
kiệm và đầu tư, tín dụng trở thành động lực kích thích các tổ chức kinh tế, các
doanh nghiệp và dân cư trong các thành phần kinh tế thực hiện tiết kiệm, thúc
đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, phân tán thành
nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đồng thời, tín dụng ngân hàng kích thích và buộc các doanh nghiệp sử dụng
vốn có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên

vốn chủ sở hữu và vốn vay. Một trong những nguồn đi vay là từ ngân hàng. Đây
là nguồn tài trợ hiệu quả vì nó thoả mãn nhu cầu vốn về cả số lượng và thời hạn.
Hơn nữa, để có thể vay vốn được từ ngân hàng, các doanh nghiệp buộc phải
nâng cao uy tín của mình để đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng. Nó đòi hỏi
các doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường, khai thác thông tin, định lượng hoạt
động kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả. Điều đó làm tăng hiệu quả của
các dự án và phương án.
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
1414
Khoá luận tốt nghiệp
Mặt khác, thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm
thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp cho khách
hàng có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mới từ những nguồn khác với
chi phí thấp hơn.
1.2.3.3 Đối với Ngân hàng
Như đã nói ở trên, tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng
nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung. Tín dụng là loại tài sản
chiếm tỷ trọng lớn nhất (quá nửa giá trị tổng tài sản) ở phần lớn các NHTM,
phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Tín dụng tạo thu nhập từ lãi lớn
nhất, từ 1/2 đến 1/3 nguồn thu của ngân hàng và cũng là hoạt động mang lại rủi
ro cao nhất. Tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng thường phát
sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau: Quản
lý yếu kém, cho vay không tuân thủ nguyên tắc tín dụng, chính sách cho vay
không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế. Những rủi ro
này đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều
khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến
phá sản. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kĩ lưỡng, ước lượng khả năng rủi
ro và sinh lời khi quyết định tài trợ.
1.3 Chất lượng tín dụng NHTM
1.3.1 Quan niệm về chất lượng tín dụng NHTM

Quan niệm về chất lượng tín dụng ngày càng được mở rộng và hiểu một
cách sâu xa hơn. Nếu như trước đây, chất lượng tín dụng chỉ bó hẹp trong khái
niệm an toàn tín dụng, phản ánh mức tổn thất phát sinh trực tiếp từ rủi ro đối với
các khoản vay của ngân hàng. Chất lượng tín dụng NHTM được coi là cao khi có
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
1515
Khoá luận tốt nghiệp
ít các khoản nợ xấu, nợ quá hạn và thiệt hại từ các khoản nợ đó là nhỏ. Một
khoản tín dụng được coi là có chất lượng nếu nó được hoàn trả theo đúng hợp
đồng.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, việc đánh giá chất lượng tín
dụng phức tạp hơn nhiều. Chất lượng tín dụng được xác định bằng tổng thể tất cả
các tiêu chí và sự đánh giá chúng cũng có những linh động nhất định. Như vậy,
chất lượng tín dụng phải căn cứ vào sự thoả mãn nhu cầu của khách hàng, sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng, sự phát triển của nền kinh tế:
+ Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở sự phù hợp về lãi suất và
kì hạn của khoản vay, mức độ đáp ứng nhu cầu vốn cho kinh doanh và sự thuận
tiện trong giao dịch.
+ Đối với ngân hàng: Chất lượng tín dụng được thể hiện ở phạm vi, giới hạn tín
dụng phải phù hợp với thực lực và quy mô ngân hàng, vừa đảm bảo được tính
cạnh tranh trên thị trường, vừa đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Chất lượng tín dụng được đánh giá dựa vào việc thanh toán gốc, lãi đúng hợp
đồng và sự hợp tác của khách hàng trong thời kỳ vay vốn.
+ Đối với nền kinh tế: Chất lượng tín dụng thể hiện ở việc tín dụng phục vụ sản
xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết việc làm cho người lao
động, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, qua đó thúc đẩy sự tăng trưởng
của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
1.3.2.1 Chỉ tiêu định tính
Đây là các chỉ tiêu phản ánh hình ảnh của ngân hàng thông qua cảm nhận

đầu tiên của khách hàng khi đến với ngân hàng.
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
1616
Khoá luận tốt nghiệp
Trước hết là bộ máy tổ chức, nếu các hoạt động hướng tới khách hàng của ngân
hàng được phân theo tiêu thức đối tượng khách hàng - sản phầm nhằm đáp ứng
tốt hơn các yêu cầu của khách hàng và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng,
điều này sẽ tạo nên cảm giác an tâm của khách hàng khi đến giao dịch tại ngân
hàng.
Thứ hai, đó là tác phong làm việc. Nếu các ngân hàng quan tâm và có kế hoạch
triển khai đổi mới phong cách làm việc hành chính trước đây, bố trí phục vụ
khách hàng trong cả những ngày nghỉ, sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách
hàng trong việc giao dịch tại ngân hàng.
Bên cạnh những yếu tố mang tính hình thức đó là các yêu cầu của ngân hàng
đối với khách hàng, là tinh thần phục vụ khách hàng của nhân viên ngân hàng.
Sự thoả mãn của mỗi khách hàng phụ thuộc khá nhiều vào tiêu thức này. Mỗi
nhân viên khi làm việc với khách hàng cần thể hiện thái độ thân thiện trong việc
tư vấn, giải đáp thắc mắc của khách hàng. Đến với ngân hàng, thái độ nhiệt tình,
cởi mở và sự thông thạo nghiệp vụ của mỗi nhân viên, sẽ khiến cho khách hàng
hài lòng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xúc tiến các khoản vay và ảnh hưởng
lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.
1.3.2.2 Các chỉ tiêu định lượng
 Doanh số cho vay
Đây là chỉ tiêu phản ánh chính xác tuyệt đối về hoạt động cho vay, quy mô cấp
tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế trong một thời gian dài, qua đó phản
ánh khả năng hoạt động tín dụng của chi nhánh qua các năm.
 Chỉ tiêu về tổng dư nợ và kết cấu dư nợ
Chỉ tiêu tổng dư nợ là chỉ tiêu phản ánh quy mô cấp tín dụng của ngân hàng cho
nền kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm: dư nợ cho vay ngắn hạn, dư
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A

1717
Khoá luận tốt nghiệp
nợ cho vay trung và dài hạn. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động của ngân hàng
là chưa tốt, khả năng marketing cũng như trình độ cán bộ ngân hàng chưa cao,
quy mô huy động vốn chưa được mở rộng. Tuy nhiên, không phải chỉ tiêu này
càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao. Bởi lẽ, khi ngân hàng cho vay vượt
quá một giới hạn nào đó, cũng là lúc ngân hàng phải chấp nhận những rủi ro
trong kinh doanh. Khi so sánh chỉ tiêu tổng dư nợ và tổng tài sản có sẽ giúp ngân
hàng tính toán hiệu quả tín dụng của một tài sản có và quy mô hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Kết cấu dư nợ phản ánh tỉ trọng của các loại dư nợ trong tổng dư nợ. Việc xác
định kết cấu dư nợ sẽ giúp ngân hàng điều chỉnh, đẩy mạnh loại hình cho vay có
lợi nhất.
 Chỉ tiêu về tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả
thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn
nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn. Khi
phân tích tài sản có, công việc đầu tiên của người quản trị là phải phân loại các
khoản nợ để quản lý một cách hiệu quả các khoản nợ này. Nhìn chung nó được
chia làm 5 loại:
+ Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn
+ Nhóm 2: Nợ cần chú ý
+ Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn
+ Nhóm 4: Nợ nghi ngờ
+ Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn
Ba nhóm nợ sau được gọi là nợ quá hạn, nợ bị xếp loại. Tỷ lệ nợ có khả năng
mất vốn cao không chỉ báo động sẽ phát sinh khoản phải thanh lý lớn trong
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
1818
Khoá luận tốt nghiệp

tương lai, mà còn thể hiện sự giảm sút thu nhập ở hiện tại do các khoản nợ này
không còn đem lại lợi nhuận hoặc đem lại lợi nhuận rất ít không đáng kể.
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM tại
một thời điểm nhất định:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = —————— * 100
Tổng dư nợ
Chỉ số này thể hiện chất lượng tín dụng. Theo qui định của NHNN, các ngân
hàng có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ lớn hơn 7% được xem là ngân hàng yếu
kém. Nếu chỉ số này nhỏ hơn 5%, ngân hàng đó được đánh giá là ngân hàng có
nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng cho vay cao và được nhận nhiều thang điểm
cao trong hàng xếp loại các tổ chức tín dụng.
 Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng
Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất của NHTM là tối đa hoá lợi ích của chủ sở
hữu. Chất lượng tín dụng được nâng cao chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần
nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng. Một khoản tín dụng có chất lượng cao
sẽ đem lại một khoản thu nhập cho ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động tín dụng
đóng vai trò quan trọng đối với ngân hàng và là kết quả tài chính quan trọng
được quan tâm hàng đầu. Đối với phần lớn các NHTM, thu nhập từ tín dụng
chiếm bộ phận chủ yếu trong tổng thu nhập và quyết định độ lớn của thu nhập
ròng.
Tỷ trọng thu nhập từ Thu nhập từ hoạt động tín dụng
hoạt động tín dụng = ——————————————— * 100
Tổng thu nhập
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
1919
Khoá luận tốt nghiệp
Lợi nhuận do hoạt động tín dụng mang lại chứng tỏ không những các khoản vay
thu hồi được gốc mà còn có lãi, đảm bảo độ an toàn của nguồn vốn cho vay.
 Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng

Đây là chỉ tiêu phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng, nó được xác
định:
Doanh số thu nợ trong kỳ
Vòng quay vốn tín dụng = ————————————
Dư nợ cho vay bình quân
Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vay ngân hàng luân chuyển
càng nhanh, tham gia càng nhiều vào chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Chỉ
tiêu này càng tăng, phản ánh tình hình sử dụng vốn tín dụng càng tốt, chất lượng
tín dụng càng cao. Chỉ tiêu này cao trước hết thể hiện khả năng thu nợ tốt. Nó
còn thể hiện hiệu quả cho vay của ngân hàng. Tuy nhiên, một yếu tố cần xem
xét, đó là “ dư nợ bình quân”. Khi dư nợ bình quân thấp, sẽ làm cho vòng quay
vốn tín dụng lớn, nhưng lại không phản ánh chất lượng khoản tín dụng là cao bởi
thực tế nó thể hiện quy mô huy động vốn của ngân hàng là chưa lớn. Do vậy, chỉ
tiêu này cần được kết hợp xem xét cùng với chỉ tiêu “ hiệu suất sử dụng vốn”.
 Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn giúp ngân hàng so sánh khả năng cho vay của
mình với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn
huy động.
Tổng dư nợ
Hiệu suất sử dụng vốn = —————————
Tổng vốn huy động
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
2020
Khoá luận tốt nghiệp
Chỉ số này càng lớn, vốn tồn đọng càng ít, đồng thời rủi ro tín dụng càng lớn.
Trên thực tế, tỷ lệ trên dao động từ 30% đến 100%. Thông thường vào khoảng
trên 80% là tốt, nếu dưới hoặc trên mức đó có thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới
ngân hàng: tính thanh khoản của ngân hàng sẽ bị đe doạ do khối lượng dự trữ
không được đảm bảo. Tuy vậy, để xác định một tỷ lệ phù hợp còn phụ thuộc vào
kết cấu vốn huy động, lĩnh vực ngân hàng tập trung tài trợ và nhiều nhân tố khác.

Bên cạnh các chỉ tiêu trên, ngân hàng còn sử dụng rất nhiều các chỉ tiêu khác
để đánh giá chất lượng tín dụng. Chẳng hạn như:
+ Tỷ lệ an toàn toàn vốn tối thiểu (CAR) :
Vốn chủ sở hữu
CAR = ———————————————
Tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro
Chỉ tiêu này cho biết, một đồng vốn tự có bảo vệ cho bao nhiêu đồng tài sản có
rủi ro của NHTM.
+ Chỉ tiêu tỷ trọng từng loại trên tổng nguồn vốn huy động:
Tỷ trọng từng loại tiền gửi Số dư từng loại tiền gửi
trên tổng vốn huy động = ———————————— * 100
Tổng số vốn huy động
Chỉ số này xác định kết cấu của nguồn vốn huy động để phát hiện mặt mạnh,
điểm yếu của ngân hàng trong kinh doanh. Nếu ngân hàng nào có tỷ trọng tiền
gửi trong kỳ hạn cao, ngân hàng đó sẽ có nhiều thuận tiện trong việc tạo ra lợi
nhuận. Ngược lại, ngân hàng nào có tỷ lệ tiền gửi với lãi suất cao chiếm tỷ trọng
lớn sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc giải quyết đầu ra của vốn.
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
2121
Khoá luận tốt nghiệp
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng
1.3.3.1 Nhân tố chủ quan
Đây là các nhân tố xuất phát từ bản thân ngân hàng cho vay:
 Chính sách quản trị tín dụng của ngân hàng
Cho đến nay hầu như chưa có NHTMNN nào ban hành chiến lược, chính sách
phát triển và quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng một cách đầy đủ bằng văn
bản. Tất cả các chỉ đạo từ NHTW mới chỉ là từng bản hướng dẫn thi hành quy
chế, cho vay, bảo lãnh, bảo đảm tiền vay và các quy chế khác do NHNN Việt
Nam ban hành. Các NHTW chưa làm tốt công tác dự báo và định hướng cho các
chi nhánh trong từng giai đoạn phát triển kinh tế. Kế hoạch tín dụng chỉ mang

tính thủ tục. Những khuyến cáo về các ngành hàng không nên cho vay, đầu tư
hay khống chế thường chỉ được đưa sau khi rủi ro tín dụng đã phát sinh ở một số
chi nhánh khác hay tín dụng đã tăng trưởng đến mức nóng.
Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng không có chính sách cho vay thận trọng với
những doanh nghiệp có vấn đề, chính sách đối với các công ty, nhóm công ty có
liên quan. Có những doanh nghiệp chỉ gặp khó khăn có tính tạm thời, nếu được
ngân hàng hỗ trợ và tư vấn nâng cao hiệu quả kiểm soát chi phí, kiểm soát vốn
thì có thể phục hồi và trả được nợ cho ngân hàng.
Tầm nhìn chiến lược không tốt của các ngân hàng cũng là nguyên nhân của tình
trạng cạnh tranh thu hút khách hàng bằng cách giảm giá. Lãi suất cho vay được
giảm bất chấp rủi ro là một yếu tố tác động lớn đến chất lượng tín dụng của các
ngân hàng.
 Quy trình cấp tín dụng và mô hình quản trị rủi ro tín dụng
Quy trình cấp tín dụng hiện tại đang tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao do các khoản vay
chưa được thực hiện rà soát rủi ro một cách độc lập với bộ phận bán hàng. Thực
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
2222
Khoá luận tốt nghiệp
tế cho thấy, có khách hàng sản xuất kinh doanh thua lỗ, năng lực tài chính yếu
kém,vốn nhỏ bé trong đó, nhà cửa đất đai lại chưa có giấy tờ chứng nhận quyền
sở hữu, quyền quản lý nhưng để có vốn hoạt động họ đã nâng khống vốn tự có
rồi lập nhiều dự án, có cả dự án thuộc lĩnh vực mà họ chưa từng có kinh nghiệm
để đi vay. Vậy mà, có TCTD không những quyết định cho vay mà còn nhận bảo
đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Hậu quả là các dự án kém hiệu
quả, nợ tồn đọng khó có khả năng thu hồi, vì thế không những nguy cơ tổn thất
cho TCTD là khá lớn mà uy tín của TCTD cũng bị giảm sút nghiêm trọng.
 Đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng
Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Nhân viên
ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc
gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh

doanh, môi trường mà khách hàng đang sống. Họ phải có khả năng dự báo các
vấn đề liên quan đến người vay… Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào
tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách
hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ.
Bên cạnh đó, đạo đức của cán bộ ngân hàng là một trong các yếu tố tối quan
trọng để giải quyết vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng. Bộ phận tín dụng là nơi
trực tiếp thẩm định dự án vay vốn và khả năng trả nợ của khách hàng cũng như
trực tiếp kiểm tra kho tàng, tài sản thế chấp, giám sát giải ngân, kiểm tra sử dụng
vốn vay, là đầu mối tiếp xúc với khách hàng nên nếu đạo đức nghề nghiệp không
tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng món vay và khả năng thu hồi nợ của
ngân hàng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán
bộ tha hoá về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm
khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
2323
Khoá luận tốt nghiệp
 Giám sát, kiểm tra sau khi cho vay
Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định
trước khi cho vay mà nơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi
cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần được quản lý một cách
chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách
nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và ngân hàng nói chung.
Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra
trong hợp động tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ
hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua
các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý
ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống
thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không
cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.
1.3.3.2 Nhân tố khách quan

Bên cạnh yếu tố thuộc về bản thân ngân hàng, môi trường kinh doanh và
yếu tố khách hàng cũng có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng ngân hàng.
 Yếu tố thuộc về khách hàng ( yếu tố phi hệ thống)
+ Thứ nhất, tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy
mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung
của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ,
chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được doanh nghiệp tuân thủ
nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách mà các doanh nghiệp cung cấp cho
ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ
ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do
các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
2424
Khoá luận tốt nghiệp
nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là
chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
+ Thứ hai, năng lực quản trị kinh doanh của khách hàng yếu kém. Khi các
doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập
trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới
cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán
theo chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là
nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà
lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
+ Cuối cùng, là yếu tố sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc
trả nợ vay. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án
kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích,
cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ
việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh
hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
 Yếu tố thị trường ( yếu tố hệ thống )

+ Thứ nhất, môi trường kinh tế không ổn định. Nền kinh tế Việt Nam trong thời
kỳ tăng trưởng, các ngành nói chung đều kinh doanh thuận lợi hơn, tỷ lệ thu hồi
nợ vì thế tăng đồng thời dư nợ đối với nền kinh tế tăng làm giảm tỷ lệ các khoản
nợ xấu. Nhưng trong thời kỳ kém tăng trưởng, các ngành kinh doanh sản phẩm
tiêu dùng bền vững, hàng cao cấp, các ngành dịch vụ như du lịch, văn phòng, các
ngành xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, đặc biệt kinh doanh bất động sản…
sẽ gặp nhiều khó khăn hơn các ngành hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm,
nhiên liệu…Các món vay, đặc biệt là trung, dài hạn được quyết định dễ dãi trong
thời kỳ tăng trưởng sẽ trở thành khó đòi vài năm sau đó.
Bùi Thị An Ly – TCDN 46A
2525

×