Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

32 Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương tỉnh Kiên Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.17 KB, 80 trang )

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG:
1.1.1. Khái niệm NHTM:
NHTM (Commercial Bank) đã hình thành, tồn tại và phát triển hàng trăm năm
gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Sự phát triển hệ thống NHTM đã có
tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa,
ngược lại kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất của nó – kinh
tế thị trường – thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định
chế tài chính không thể thiếu được.
NHTM là loại ngân hàng trực tiếp giao dịch với các công ty, xí nghiệp, TCKT,
tổ chức đoàn thể và các cá nhân,… bằng việc nhận tiền gửi các loại,… cho vay và
cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên.
Điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng nêu rõ: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín
dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
có liên quan”.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã nói: “Ngân hàng thương mại là
những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công
chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó
cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Như vậy, có thể nói rằng NHTM là định chế tài chính trung gian quan trọng
vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường. Nhờ hệ thống định chế này mà các
nguồn tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy động, tạo lập nguồn vốn tín dụng to lớn để có
thể cho vay phát triển kinh tế.
Từ đó có thể nói bản chất của NHTM thể hiện qua các điểm sau:
- NHTM là một TCKT, một doanh nghiệp;
- NHTM hoạt động mang tính chất kinh doanh.
1
1.1.2. Các nghiệp vụ của NHTM:
1.1.2.1. Nghiệp vụ nguồn vốn và tài sản nợ:


Nghiệp vụ HĐV là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng
cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, NHTM được sử dụng những biện
pháp và công cụ cần thiết mà luật pháp cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi
trong xã hội, làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế. Kết quả của
nghiệp vụ nguồn vốn là tạo ra nguồn vốn để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế.
1.1.2.2. Cấp tín dụng và đầu tư (nghiệp vụ sử dụng vốn):
Nghiệp vụ cho vay và đầu tư là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất, quyết
định đến khả năng tồn tại và hoạt động của NHTM. Đây là các nghiệp vụ cấu thành
bộ phận chủ yếu và quan trọng của tài sản có ngân hàng.
1.1.2.3. Các hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng:
- Các dịch vụ thanh toán, thu chi hộ cho khách hàng (chuyển tiền, thẻ ATM,
thẻ tín dụng,…);
- Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng bạc, đá quý;
- Cho thuê két sắt,…
1.2. TỔNG QUAN VỀ TÍN DỤNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN
KINH TẾ:
1.2.1. Tổng quan về tín dụng:
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng:
Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh: Credittum - tức là tin tưởng, tín nhiệm; tín
dụng được diễn giải theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam là sự vay mượn.
Trong thực tế, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau tùy
vào góc độ nghiên cứu. Xét trên một quan hệ tài chính cụ thể thì tín dụng là một giao
dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Xét trên góc độ chuyển dịch
quỹ thì tín dụng là sự dịch chuyển quỹ từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể
thiếu hụt tiết kiệm.
Theo góc độ nghiên cứu của đề tài, tín dụng là quan hệ kinh tế giữa hai chủ
thể cho vay – bên giao giá trị (Ngân hàng) và chủ thể đi vay - bên nhận giá trị (các tổ
2
chức, cá nhân). Trong đó bên cho vay chuyển giá trị tài sản là tiền cho bên đi vay sử
dụng trong một khoảng thời gian nhất định đã thoả thuận. Bên đi vay có trách nhiệm

hoàn trả vô điều kiện cả gốc và lãi vay (chi phí mua quyền sử dụng tiền tệ) cho bên
cho vay. Phạm trù tín dụng gắn liền với sản xuất, lưu thông hàng hoá, ở đâu có sản
xuất và lưu thông hàng hoá thì ở đó có tín dụng tồn tại và sự vận động của nó luôn
mang tính chất động lực của các quan hệ kinh tế.
1.2.1.2. Chức năng của tín dụng:
- Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế:
Đây là chức năng cơ bản nhất của tín dụng, nhờ chức năng này mà các nguồn
vốn tiền tệ trong xã hội được điều tiết từ nơi “thừa” sang nơi “thiếu” để sử dụng
nhằm phát triển nền kinh tế.
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ là hai mặt hợp thành chức năng cốt lõi
của tín dụng.
+ Tập trung vốn tiền tệ: Nhờ sự hoạt động của hệ thống tín dụng mà các
nguồn tiền nhàn rỗi được tập trung lại, bao gồm tiền nhàn rỗi của dân chúng, vốn
bằng tiền của các doanh nghiệp, vốn bằng tiền của các tổ chức đoàn thể, xã hội.
+ Phân phối lại vốn tiền tệ: Đây là mặt cơ bản của chức năng này – đó là sự
chuyển hóa để sử dụng các nguồn vốn đã tập trung được để đáp ứng nhu cầu của sản
xuất lưu thông hàng hóa cũng như nhu cầu tiêu dùng trong toàn xã hội.
Cả hai mặt tập trung và phân phối lại vốn đều được thực hiện theo nguyên tắc
hoàn trả. Vì vậy tín dụng có ưu thế rõ rệt, nó kích thích mặt tập trung vốn, thúc đẩy
việc sử dụng vốn có hiệu quả.
Nhờ chức năng tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ của tín dụng, mà phần
lớn nguồn tiền trong xã hội từ chỗ tiền “nhàn rỗi” một cách tương đối đã được huy
động và sử dụng cho các nhu cầu sản xuất và đời sống, làm cho hiệu quả sử dụng vốn
trong toàn xã hội tăng.
- Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội:
3
Nhờ hoạt động của tín dụng mà nó có thể phát huy chức năng tiết kiệm tiền
mặt và chi phí lưu thông cho xã hội, điều này thể hiện qua các mặt sau đây:
+ Hoạt động tín dụng, trước hết nó tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ
lưu thông tín dụng như thương phiếu, kỳ phiếu ngân hàng, các loại séc, các phương

tiện thanh toán hiện đại như thẻ tín dụng, thẻ thanh toán,… cho phép thay thế một số
lượng lớn tiền mặt lưu hành (kể cả tiền đúc bằng kim loại quý như trước đây và tiền
giấy hiện nay) nhờ đó làm giảm bớt các chi phí có liên quan như in tiền, đúc tiền, vận
chuyển, bảo quản tiền …
+ Với hoạt động của tín dụng, đặc biệt là tín dụng ngân hàng đã mở ra một
khả năng lớn trong việc mở tài khoản và giao dịch thanh toán thông qua ngân hàng
dưới các hình thức chuyển khoản hoặc bù trừ cho nhau.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của tín dụng thì hệ thống thanh toán qua ngân
hàng ngày càng mở rộng, vừa thúc đẩy quá trình ấy, vừa tạo điều kiện cho nền kinh
tế - xã hội phát triển.
+ Nhờ hoạt động của tín dụng, mà các nguồn vốn đang nằm trong xã hội được
huy động để sử dụng cho các nhu cầu của sản xuất và lưu thông hàng hóa sẽ có tác
dụng tăng tốc độ chu chuyển vốn trong phạm vi toàn xã hội.
- Phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế:
Đây là chức năng phát sinh, hệ quả của hai chức năng nói trên. Sự vận động
của vốn tín dụng phần lớn là sự vận động gắn liền với sự vận động của vật tư, hàng
hóa, chi phí trong các xí nghiệp, các TCKT. Vì vậy qua đó tín dụng không những là
tấm gương phản ánh hoạt động kinh tế của doanh nghiệp mà còn thông qua đó thực
hiện việc kiểm soát các hoạt động ấy nhằm ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực lãng
phí, vi phạm luật pháp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
1.2.1.3. Các hình thức tín dụng:
- Tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các
chủ thể sản xuất kinh doanh trên cơ sở tín nhiệm và được thể hiện dưới hình thức
mua bán chịu hàng hoá lẫn nhau.
4
- Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các chủ thể
kinh tế, các cá nhân trong xã hội.
- Tín dụng nhà nước: Tín dụng nhà nước là quan hệ tín dụng giữa nhà nước
với các tổ chức và cá nhân trong xã hội, trong đó chủ yếu nhà nước đứng ra HĐV của
các tổ chức và cá nhân bằng cách phát hành trái phiếu để sử dụng vì mục đích chung

của toàn xã hội.
- Tín dụng quốc tế: Tín dụng quốc tế là quan hệ tín dụng giữa các Chính phủ,
các tổ chức tài chính tiền tệ được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau nhằm
trợ giúp lẫn nhau để phát triển kinh tế xã hội của một nước.
1.2.2. Tín dụng ngân hàng:
1.2.2.1. Phân loại tín dụng ngân hàng:
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản cho vay theo từng nhóm dựa theo
một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học là tiền đề để
thiết lập các qui trình cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị RRTD. Phân
loại tín dụng dựa vào các căn cứ sau:
- Dựa vào mục đích vay: Bao gồm: Cho vay bất động sản; Cho vay công
nghiệp và thương mại; Cho vay các định chế tài chính; Cho vay cá nhân; Cho thuê
của các định chế tài chính; Cho vay khác;
- Dựa vào thời gian cho vay: Bao gồm: Cho vay ngắn hạn; Cho vay trung
hạn; Cho vay dài hạn.
- Dựa vào mức độ tín nhiệm: Bao gồm: Cho vay không có bảo đảm bằng tài
sản; Cho vay có bảo đảm bằng tài sản.
- Dựa vào xuất xứ tín dụng: Cho vay trực tiếp; Cho vay gián tiếp.
1.2.2.2. Các phương thức cho vay:
Theo Điều 16 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước “V/v ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng
đối với khách hàng”, các Tổ chức tín dụng thỏa thuận với khách hàng vay để lựa
chọn phương thức cho vay cho phù hợp. Các phương thức cho vay theo Quyết định
bao gồm:
5
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện
thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định
và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để

thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu
tư phục vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự
án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó, có một tổ chức tín
dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp
vốn thực hiện theo quy định của Quy chế này và Quy chế đồng tài trợ của tổ chức tín
dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
- Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thỏa thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo
nhiều kỳ hạn trong thời gian cho vay.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm
bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ
chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự
phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ
chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng vốn vay trong phạm vi hạn
mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút
tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát
hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các qui
định của Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử dụng
thẻ tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa
thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền trên tài khoản thanh
toán của khách hàng phù hợp với các qui định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà
6
nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh
toán.
- Các phương thức cho vay khác: mà pháp luật không cấm, phù hợp với quy
định tại Quy chế này và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và đặc
điểm của khách hàng vay.

1.2.3. Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế:
Nói đến vai trò của tín dụng là nói đến sự tác động của nó đối với nền kinh tế
xã hội. Vì thế, điều này bao gồm cả vai trò tích cực và tiêu cực. Chẳng hạn, nếu để tín
dụng tăng trưởng “nóng” sẽ dễ dẫn đến lạm phát cao, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế
- xã hội. Xét về mặt tích cực hoạt động tín dụng có các vai trò như sau:

Thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển:
Hoạt động tín dụng đã giải quyết được mâu thuẫn trong quá trình tuần hoàn và
chu chuyển vốn tiền tệ, trở thành cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, đáp ứng nhu cầu
vốn hoạt động sản xuất kinh doanh được duy trì liên tục và đáp ứng nhu cầu vốn để
đầu tư cho xã hội góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.

Ổn định tiền tệ và giá cả:
Khi thực hiện chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, hoạt động tín
dụng đã làm giảm lượng tiền lưu thông trong xã hội, làm giảm lạm phát, góp phần ổn
định tiền tệ,… làm cho sản xuất ngày càng phát triển, đáp ứng được nhu cầu ngày
càng tăng của xã hội, góp phần ổn định thị trường giá cả trong nước.

Ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm ổn định và ổn định trật tự xã
hội:
Hoạt động tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát
triển đáp ứng nhu cầu xã hội, mặt khác nhờ hoạt động tín dụng tạo điều kiện và khả
năng khai thác các nguồn lực của xã hội như tài nguyên thiên nhiên, lao động,… do
đó hoạt động tín dụng ngày càng thu hút thêm nhiều lao động của xã hội góp phần ổn
định trật tự xã hội.
7
Ngoài ra hoạt động tín dụng còn phát triển, mở rộng ra phạm vi quốc tế nên
góp phần mở rộng và phát triển mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu
quốc tế.
1.3. HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM:

Hiệu quả là một phạm trù khoa học phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả và
chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ
khác nhau. Theo phạm vi tác dụng trong xã hội, hiệu quả được chia thành hiệu quả
kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong đó, hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh quan
hệ so sánh giữa các kết quả kinh tế trực tiếp và gián tiếp mà ngân hàng phải bỏ ra để
đạt được kết quả đó.
Hoạt động tín dụng nhằm đáp ứng vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của
các tổ chức kinh tế và dân cư (gọi chung là khách hàng) để thực hiện các dự án,
phương án sản xuất kinh doanh, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Nếu dự án,
phương án sử dụng vốn của khách hàng có chất lượng kém, sản phẩm làm ra không
tiêu thụ được, hoạt động kinh doanh thua lỗ,… sẽ dẫn đến không có khả năng hoàn
trả vốn vay cho ngân hàng, rủi ro mất vốn có khả năng xảy ra, tức là hoạt động tín
dụng của ngân hàng không có hiệu quả và ngược lại. Do vậy, hiệu quả hoạt động tín
dụng của ngân hàng gắn liền với chất lượng tín dụng, rủi ro tín dụng. Chất lượng tín
dụng càng tốt thì rủi ro tín dụng càng ít và hiệu quả hoạt động tín dụng càng cao và
ngược lại.
1.3.1. Chất lượng tín dụng của NHTM:
1.3.1.1 Khái niệm về chất lượng tín dụng:
Chất lượng tín dụng là một phạm trù rộng, bao hàm nhiều nội dung trong đó
có nội dung quan trọng và có tính lượng hóa nhất là tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ.
Theo quan điểm thông thường của các NHTM Việt Nam và trong một số trường hợp
theo nghĩa hẹp khi nói đến chất lượng tín dụng, người ta chỉ nói đến tỷ lệ giữa nợ quá
hạn trên tổng dư nợ, tỷ lệ này càng cao có nghĩa là chất lượng tín dụng kém và ngược
lại. Theo thông lệ quốc tế nếu tỉ lệ nợ quá hạn dưới 5% và tỷ lệ nợ khó đòi trong tổng
8
nợ quá hạn thấp thì được coi là tín dụng có chất lượng tốt, trên mức 5% thì chất
lượng tín dụng được xem là có vấn đề.
Như đã trình bày ở phần mở đầu, hoạt động cho vay là hoạt động chính trong
hoạt động tín dụng đối với các NHTM trên địa bàn tỉnh Kiên Giang nói chung và
CN.NHCT.KG nói riêng, nó chi phối gần như toàn bộ hoạt động tín dụng của ngân

hàng. Do đó, toàn bộ phần nghiên cứu hoạt động tín dụng của CN.NHCT.KG chỉ tập
trung nghiên cứu hoạt động cho vay, và sẽ được hiểu xuyên suốt trong các phần trình
bày sau này của luận văn.
1.3.1.2. Một số quy định về chất lượng tín dụng liên quan đến hiệu quả hoạt
động tín dụng:
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam “V/v ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và
sử dụng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng” và Quyết
định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 “V/v sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy
định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động
ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
ngày 22/4/2005” thì dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng được chia làm 05 nhóm,
cụ thể:
Nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn;
- Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn
lại;
- Đối với các khoản nợ quá hạn, khách hàng trả đầy đủ phần nợ gốc và lãi bị
quá hạn (kể cả lãi áp dụng đối với nợ gốc quá hạn) và nợ gốc và lãi của các kỳ hạn
trả nợ tiếp theo trong thời gian tối thiểu sáu (06) tháng đối với khoản nợ trung và dài
hạn, ba (03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ
gốc và lãi bị quá hạn.
9
- Đối với các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ, khách hàng trả đầy đủ nợ
gốc và lãi theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại trong thời gian tối thiểu sáu (06) tháng,
ba (03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn, kể từ ngày bắt đầu trả đầy đủ nợ gốc và
lãi theo thời hạn được cơ cấu lại.
Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) bao gồm:

- Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
- Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh
nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng
trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu).
Nợ nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại có thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu được phân loại vào nhóm 2 theo quy định.
- Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả
lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
Nợ nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
Nợ nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả
nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá
hạn hoặc đã quá hạn;
- Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý.
10
Ngoài những quy định phân loại nợ như trên, Tổ chức tín dụng còn phải
chuyển khoản nợ vào nhóm có rủi ro cao hơn trong các trường hợp sau đây:
- Toàn bộ dư nợ của một khách hàng tại một tổ chức tín dụng phải được phân
loại vào cùng một nhóm nợ. Đối với khách hàng có từ hai (02) khoản nợ trở lên tại tổ
chức tín dụng mà có bất cứ một khoản nợ nào bị phân loại theo quy định phân loại

nêu trên vào nhóm có rủi ro cao hơn các khoản nợ khác, tổ chức tín dụng phải phân
loại lại các khoản nợ còn lại của khách hàng vào nhóm có rủi ro cao nhất đó.
- Đối với các khoản cho vay hợp vốn, tổ chức tín dụng làm đầu mối phải thực
hiện phân loại nợ đối với khoản cho vay hợp vốn theo các quy định nêu trên và phải
thông báo kết quả phân loại nợ cho các tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn.
Trường hợp khách hàng vay hợp vốn có một hoặc một số các khoản nợ khác tại tổ
chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn đã phân loại vào nhóm nợ không cùng nhóm
nợ của các khoản nợ vay hợp vốn do tổ chức tín dụng làm đầu mối phân loại, tổ chức
tín dụng tham gia cho vay hợp vốn phân loại lại toàn bộ dư nợ (kể cả phần dư nợ cho
vay hợp vốn) của khách hàng vay hợp vốn vào nhóm nợ do tổ chức tín dụng đầu mối
phân loại hoặc do tổ chức tín dụng tham gia cho vay hợp vốn phân loại tùy theo
nhóm nợ nào có rủi ro cao hơn.
- Tổ chức tín dụng phải chủ động phân loại các khoản nợ được phân loại vào
các nhóm theo quy định phân loại nợ nêu trên vào nhóm nợ có rủi ro cao hơn theo
đánh giá của tổ chức tín dụng khi xảy ra một trong các trường hợp sau đây:
+ Có những diễn biến bất lợi tác động tiêu cực đến môi trường, lĩnh vực kinh
doanh của khách hàng;
+ Các khoản nợ của khách hàng bị các tổ chức tín dụng khác phân loại vào
nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn (nếu có thông tin);
+ Các chỉ tiêu tài chính của khách hàng (về khả năng sinh lời, khả năng thanh
toán, tỷ lệ nợ trên vốn và dòng tiền) hoặc khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm
liên tục hoặc có biến động lớn theo chiều hướng suy giảm;
+ Khách hàng không cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông tin
chính theo yêu cầu của tổ chức tín dụng để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
11
Việc phân loại nợ theo Quyết định 493 và Quyết định 18 sửa đổi, bổ sung
Quyết định 493 của Ngân hàng Nhà nước không chỉ dựa vào tiêu chí thời gian quá
hạn mà còn dựa vào tiêu chí rủi ro của khoản vay. Điều đó cho thấy Ngân hàng Nhà
nước muốn các NHTM phải đánh giá thực sự các khoản nợ đã cho khách hàng vay
hay nói chính xác là đánh giá chính xác hơn về chất lượng tín dụng của mình để dần

sớm phù hợp với những chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
1.3.1.3. Chỉ tiêu biểu hiện chất lượng tín dụng:
a. Đối với NHTM:
* Khái niệm nợ quá hạn: Đến thời điểm trả nợ gốc và/hoặc lãi đã được thỏa
thuận trong hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng mà khách hàng không
trả nợ đúng hạn hoặc không được ngân hàng chấp thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ thì
toàn bộ dư nợ gốc của hợp đồng tín dụng là NQH.
* Khái niệm nợ xấu:
Nếu chỉ dựa vào chỉ tiêu NQH để đánh giá chất lượng tín dụng của một ngân
hàng thì sẽ không chính xác. Vì vậy Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày
22/4/2005 và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 sửa đổi Quyết định
493 của Ngân hàng Nhà nước ra đời, Ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và
sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của TCTD đã đánh giá
chính xác hơn chất lượng tín dụng của các TCTD và dần tiếp cận theo thông lệ quốc
tế. Theo những Quyết định trên thì dư nợ của các TCTD được chia làm 05 nhóm, nợ
xấu là nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 theo cách phân loại nợ như đã nêu ở phần trên.
*Tỷ lệ nợ xấu: Được xác định theo công thức sau:
Nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = ---------------------- x 100%

5%
Tổng dư nợ
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của các
TCTD. Tỷ lệ nợ xấu càng cao thì chất lượng tín dụng càng kém và ngược lại. Nếu tỷ
lệ nợ xấu ≤ 5% thì chất lượng tín dụng xem như bình thường, càng nhỏ hơn 5% càng
tốt. Ngược lại, nếu tỷ lệ nợ xấu lớn hơn 5% thì chất lượng tín dụng đang có vấn đề.
12
* Vòng quay vốn tín dụng:
Doanh số thu nợ
Vòng quay tín dụng =------------------------

Dư nợ bình quân
Vòng quay vốn tín dụng phản ánh tình hình quan hệ tín dụng của khách hàng
vay vốn đối với ngân hàng, quy mô hoạt động của ngân hàng, đóng góp của vốn tín
dụng cho nền kinh tế. Vòng quay vốn tín dụng càng lớn chứng tỏ chu chuyển vốn tín
dụng nhanh, tình hình hoạt động tín dụng lành mạnh, ngân hàng thu phí được nhiều
hơn.
b. Đối với nền kinh tế:
Chất lượng tín dụng gắn liền với quá trình và hiệu quả sử dụng vốn tín dụng
của các doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Doanh nghiệp, cá nhân
sử dụng đồng vốn tín dụng mà ngân hàng đầu tư có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy
nền kinh tế tăng trưởng, phát triển; chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, đời sống kinh
tế - xã hội ổn định, lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hóa phát triển bình thường,
góp phần ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
c. Đối với cá nhân, doanh nghiệp vay vốn: Doanh nghiệp, cá nhân sử dụng
vốn vay có hiệu quả sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho xã hội,
thực hiện dúng cam kết trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng, góp phần làm lành
mạnh tình hình tài chính của doanh nghiệp, trên cơ sở đó mà thúc đẩy sự phát triển
của doanh nghiệp về mọi lĩnh vực.
1.3.1.4. Mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng với chất lượng tín dụng và
hiệu quả hoạt động tín dụng:
Tăng trưởng tín dụng thông thường được hiểu là sự gia tăng về mặt lượng của
tín dụng như dư nợ cho vay trong một thời kỳ nhất định.
Tăng trưởng tín dụng với chất lượng tín dụng và hiệu quả hoạt động tín dụng
(lợi nhuận mang lại từ hoạt động tín dụng) có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua
13
lại với nhau tuân thủ theo quy luật lượng chất, nói cách khác trong một hoàn cảnh
kinh tế - xã hội cụ thể để đảm bảo hoạt động tín dụng đạt chất lượng và hiệu quả như
mong muốn thì phải duy trì mức tăng trưởng tín dụng không vượt quá một giới hạn
nào đó, nếu tăng trưởng tín dụng “quá nóng” sẽ có nguy cơ tiềm ẩn làm giảm chất
lượng tín dụng từ đó dẫn đến hiệu quả hoạt động tín dụng kém, thậm chí thua lỗ là

điều không thể tránh khỏi.
1.3.2. Rủi ro tín dụng:
1.3.2.1. Khái niệm về RRTD:
A.Saunders và H.Lange định nghĩa: “RRTD là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân
hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự tính
mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về cả số
lượng và thời gian” Timothy W.Koch cho rằng: “RRTD là sự thay đổi tiềm ẩn của
thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc vốn vay không được thanh toán
hay thanh toán trễ hạn”
RRTD trong hoạt động ngân hàng của TCTD là khả năng xảy ra tổn thất trong
hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện, hoặc không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Vậy RRTD là những thiệt hại kinh tế mà NHTM phải gánh chịu do khách
hàng vay vốn sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ vốn gốc và nợ lãi hoặc không
hoàn trả được nợ vay của ngân hàng do các nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan.
RRTD gây tổn thất về tài chính cho NHTM, đó là giảm thu nhập ròng và giảm giá trị
thị trường của vốn; trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở
mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản.
Biểu hiện của RRTD:
- Khách hàng vay vốn không trả nợ hoặc không còn khả năng trả nợ.
- Khách hàng trả nợ không đầy đủ.
- Khách hàng vay trả nợ không đúng hạn.
1.3.2.2. Phân loại RRTD:
14
Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh, RRTD được phân chia thành các loại
sau:
a. Rủi ro giao dịch (Transaction risk):
Là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế
trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch
có ba bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.

- Rủi ro lựa chọn là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín
dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định
cho vay.
- Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản
trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm
bảo và mức cho vay trên trị giá của tài sản đảm bảo.
- Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt
động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý
các khoản cho vay có vấn đề.
b. Rủi ro danh mục (Portfolio risk):
Là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế
trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành hai loại:Rủi ro
nội tại (Intrinsic risk) và rủi ro tập trung (Concentration risk)
- Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng
biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ
đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
- Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều
đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng
một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, hoặc cùng
một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.3.2.3. Nguyên nhân của RRTD:
15
Nguyên nhân gây ra RRTD rất đa dạng, có thể phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Một cách phân loại được nhiều ngân hàng thừa nhận là phân tích nguyên
nhân gây ra từ phía người cho vay và người đi vay.
a. Những nguyên nhân từ phía các NHTM có thể bao gồm:
- Không chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cho vay;
- Chính sách và quy trình cho vay còn lỏng lẻo, chưa chú trọng đến phân tích
khách hàng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ hoặc phương pháp xem xét
phân tích còn hạn chế, chưa chính xác;

- Kỹ thuật cấp tín dụng chưa hiện đại, chưa đa dạng như: việc xác định hạn
mức tín dụng cho khách hàng còn quá đơn giản, thời hạn chưa phù hợp, chủ yếu là
tín dụng trực tiếp, sản phẩm tín dụng còn nghèo nàn;
- Thiếu thông tin về khách hàng hay thiếu thông tin tín dụng tin cậy, kịp thời
để xem xét, phân tích hoặc phân tích thông tin không đầy đủ trước khi cấp tín dụng;
- Do cán bộ ngân hàng thiếu đạo đức nghề nghiệp, yếu kém về trình độ nghiệp
vụ. Hoặc do vấn đề quản lý, sử dụng, đãi ngộ của cán bộ của các NHTM.
b. Các nguyên nhân từ phía khách hàng:
Các nguyên nhân dẫn đến việc khách hàng vay vốn không trả được nợ cho
ngân hàng có rất nhiều, có thể sắp xếp theo hai nhóm như sau:
* Nhóm nguyên nhân khách quan: Là những tác động ngoài ý muốn của khách
hàng, như do thiên tai, hỏa hoạn; do sự ổn định của các chính sách kinh tế chưa chắc
chắn, thay đổi đột ngột chính sách quản lý kinh tế, điều chỉnh quy hoạch; do hành
lang pháp lý chưa phù hợp; do biến động của thị trường trong và ngoài nước, quan hệ
cung cầu hàng hóa thay đổi.
* Nhóm nguyên nhân chủ quan: Là nguyên nhân nội tại của mỗi khách hàng.
Trước hết là vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh còn rất ít so với nhu cầu. Năng
lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường và các đối tác, bạn hàng làm ảnh
hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh, công nghệ sản xuất không đủ khả năng tạo
ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Trong đó, cũng phải kể đến nguyên nhân thiếu
thiện chí trả nợ vay ngân hàng ngay từ khi xin vay vốn.
16
c. Các nguyên nhân từ bên ngoài:
Do tính dễ thay dổi của các nhân tố rủi ro; do tính không ổn định ngày càng
tăng của thị trường tài chính;do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các ngân
hàng; do sự can thiệp của chính quyền địa phương,….
1.3.2.4. Ảnh hưởng của RRTD đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của
ngân hàng và nền kinh tế xã hội:
Trong nền kinh tế thị trường, cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản
của ngân hàng. Rủi ro trong ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục

tín dụng. Đây là rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra. RRTD không chỉ gây thiệt
hại trực tiếp cho ngân hàng cho vay mà còn thiệt hại đối với cả nền kinh tế:
- RRTD sẽ gây tổn thất về tài sản cho ngân hàng. Nó làm mất vốn khi cho vay,
gia tăng chi phí hoạt động, giảm sút lợi nhuận,…
- RRTD làm suy giảm uy tín của ngân hàng, sự tín nhiệm của khách hàng và
có thể đánh mất thương hiệu của ngân hàng. Một ngân hàng làm ăn thua lỗ làm cho
khả năng thanh khoản kém có thể dẫn đến cuộc khủng hoảng rút tiền hàng loạt của
khách hàng, và phá sản là con đường tất yếu.
- RRTD khiến ngân hàng bị thua lỗ và bị phá sản, sẽ ảnh hưởng đến người gửi
tiền vào ngân hàng, doanh nghiệp không được đáp ứng nhu cầu vốn,… làm cho nền
kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, gây rối loạn trật tự
xã hội và hơn nữa sẽ kéo theo sự sụp đỗ của hàng loạt các ngân hàng trong nước,
trong khu vực.
- Hơn nữa, sự phá sản của một ngân hàng sẽ dẫn đến sự hoảng loạn của hàng
loạt các ngân hàng khác và làm ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nền kinh tế.
- Ngoài ra, RRTD cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới, vì trong điều kiện
hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế thế giới hiện nay, nền kinh tế của mỗi quốc gia đều
phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu
tư giữa các nước phát triển rất nhanh nên RRTD tại một nước luôn ảnh hưởng trực
tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan. Thực tế đã chứng minh qua cuộc khủng
17
hoảng tài chính châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ
(2001-2002).
1.3.3. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng:
Hiệu quả hoạt động tín dụng thường được đánh giá ở ba góc độ: đối với ngân
hàng, đối với nền kinh tế và đối với người đi vay.
1.3.3.1. Đối với ngân hàng:
Ở nước ta hiện nay, nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ tạo nguồn thu lớn nhất
trong hoạt động chung của các ngân hàng. Vì vậy nâng cao hiệu quả hoạt động tín
dụng góp phần làm tăng thêm lợi nhuận của ngân hàng, hoạt động ngân hàng ngày

càng phát triển hơn đồng thời cũng làm tăng thêm thu nhập của cán bộ nhân viên.
1.3.3.2. Đối với nền kinh tế:
Việt Nam là nước đang phát triển nên nhu cầu vốn để phát triển sản xuất, kinh
doanh,… của nền kinh tế là rất lớn. Ngoài kênh HĐV để đáp ứng nhu cầu này như thị
trường chứng khoán, các quỹ đầu tư, các quỹ hỗ trợ,… thì nguồn vốn tín dụng của
ngân hàng được xem là nguồn vốn chủ yếu và không thể thiếu. Cấp tín dụng góp
phần quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hiệu quả của hoạt động tín
dụng ngân hàng có quan hệ trực tiếp đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Nói đến chất
lượng tăng trưởng kinh tế là nói đến mức độ đạt được của các mục tiêu kinh tế - xã
hội như: tốc độ tăng trưởng GDP, thu nhập bình quân đầu người, tình hình thu- chi
ngân sách, tốc độ tăng trưởng HĐV, tốc độ tăng trưởng tín dụng, chất lượng đầu tư
tín dụng, chỉ số lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp. Chất lượng tăng trưởng kinh tế phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, trong đó các yếu tố từ hoạt động tín dụng ngân hàng có vai trò rất
lớn. Khi đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế, người ta thường đặc biệt quan tâm
đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chỉ số lạm phát. Hiệu quả của đầu tư tín
dụng cho nền kinh tế chính là kinh tế tăng trưởng, sức mua của đồng tiền ngày càng
ổn định, nâng cao mức sống xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động thông
qua việc đầu tư vốn cho các tổ chức và cá nhân nhằm góp phần ổn định đời sống kinh
tế xã hội.
1.3.3.3. Đối với người đi vay:
18
Hoạt động tín dụng ngân hàng luôn gắn bó với hoạt động sản xuất kinh doanh
và các nhu cầu về đời sống của khách hàng thông qua các nghiệp vụ HĐV, cho vay,
thanh toán và các dịch vụ hỗ trợ khác. Với chức năng thu hút các nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong xã hội, tín dụng ngân hàng là một hình thức đầu tư vốn khá an toàn,
mức sinh lời tương đối chấp nhận được đối với những người có nhu cầu tiết kiệm và
hưởng lãi. Với chức năng cho vay, tín dụng ngân hàng đáp ứng vốn kịp thời và hợp
lý cho các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm thành công các kế hoạch
kinh doanh, các dự án đầu tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất, cung cấp cho người
tiêu dùng ngày càng nhiều sản phẩm dịch vụ mới lạ, tiện ích, chất lượng cao, từ đó

phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ, mở rộng ngành hàng, tạo thêm nhiều công
ăn việc làm cho người lao động. Mục tiêu cuối cùng là người vay tiền sử dụng vốn
đúng mục đích, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, mức sinh lợi của đồng vốn vay
ngân hàng lớn hơn lãi suất tiền gởi tiết kiệm, đời sống của mọi người được nâng cao.
Kết luận Chương I: Hiệu quả hoạt động tín dụng của các NHTM gắn liền với
chất lượng và rủi ro tín dụng. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với hoạt
động của các NHTM có ý nghĩa rất quan trọng, nó quyết định đến sự tăng trưởng
hoạt động tín dụng của các ngân hàng, đảm bảo cho các NHTM hoạt động kinh doanh
có lãi, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển, giữ vững mối liên hệ giữa lưu thông
hàng hóa và lưu thông tiền tệ, ổn định chính sách tiền tệ quốc gia. Với ý nghĩa đó, cần
phải có các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của các NHTM trong
nền kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế đặt ra cho hệ thống NHTM.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG
CÔNG THƯƠNG TỈNH KIÊN GIANG
19
2.1. TỈNH KIÊN GIANG TRONG TIẾN TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA –
HIỆN ĐẠI HÓA CÙNG VỚI CẢ NƯỚC:
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý:
Kiên Giang là tỉnh ở cực Tây Nam của Tổ Quốc, nằm trong vùng đồng bằng
Sông Cửu Long, nằm ở tọa độ từ 104
o
40’ đến 105
o
32’40” kinh độ Đông và 9
o
23’50”
đến 10
o
32’30” vĩ độ Bắc (phần đất liền). Phía Đông và Đông Nam giáp các tỉnh Cần

Thơ, An Giang, phía Nam giáp tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, phía Tây giáp Vịnh Thái Lan
với bờ biển dài 200 Km và phía Bắc giáp Campuchia với đường biên giới đất liền dài
56,8 Km. Vùng biển có hai huyện đảo (Kiên Hải và Phú Quốc) với hơn 100 hòn đảo
lớn nhỏ.
Khí hậu thời tiết ở Kiên Giang có những thuận lợi cơ bản: ít thiên tai, không
có bão đổ bộ trực tiếp, không rét (nhiệt độ trung bình hàng năm từ 27 – 27,5
o
C), ánh
sáng và nhiệt lượng dồi dào rất thuận lợi cho cây trồng vật nuôi sinh trưởng. Đồng
thời với vị trí địa lý của tỉnh cũng rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế mở do có
cảng biển, sân bay và có khoảng cách tới các nước ASEAN tương đối ngắn.
2.1.2. Tiềm năng phát triển kinh tế của tỉnh:
- Tài nguyên thủy sản: Kiên Giang là tỉnh có nguồn lợi thủy sản đa dạng,
phong phú bao gồm: tôm, cá các loại và có nhiều đặc sản quý như: Đồi mồi, hải sâm,
ngọc trai, bào ngư,… Kiên Giang có 200Km bờ biển với ngư trường khai thác thủy
sản rộng 63.000Km
2
, trữ lượng khoảng 464.660 tấn và vùng biển Đông có trữ lượng
trên 611.000 tấn, rất thuận lợi cho ngành khai thác và chế biến, đặc biệt là nước mắm,
một sản phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước với thương hiệu Phú Quốc
- Tài nguyên khoáng sản: Kiên Giang là tỉnh có nguồn khoáng sản dồi dào ở
vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Hiện tại đã xác định được 152 điểm quặng và mỏ
của 23 loại khoáng sản thuộc các nhóm như:
+ Nhóm nhiên liệu: than bùn
+ Nhóm phi kim: đá vôi, đá xây dựng, đất sét,…
+ Nhóm kim loại: sắt, laterit sắt,…
+ Nhóm bán đá quý: huyền thạch anh – opal,…
20
Chủ yếu là khoáng sản không kim loại dùng để sản xuất vật liệu xây dựng, xi
măng. Riêng về đá vôi có hơn 20 ngọn núi với trữ lượng khoảng 440 triệu tấn, trữ

lượng khai thác là 245 triệu tấn. Với nguyên liệu này đủ để sản xuất 2,8 – 3 triệu tấn
Clinker/năm trong thời gian trên 50 năm
- Du lịch: Du lịch Kiên Giang tiềm tàng nhiều tiềm năng chưa được khai thác
hoặc khai thác chưa đúng mức. Cụ thể: Hà Tiên được xem Hạ Long thứ 2. Đảo Phú
Quốc, hòn đảo lớn nhất Việt Nam được xem là hòn đảo ngọc. Hiện nay, tốc độ tăng
trưởng du lịch của Phú Quốc được coi là cao nhất với mức tăng luôn từ 100% trở lên
so với năm trước đó.
- Giao thông: Kiên Giang có hệ thống giao thông nối với hệ thống đường bộ,
đường thủy và hàng không quốc gia. Kiên Giang là một trong hai tỉnh có 02 sân bay
hoạt động (Sân bay Rạch Giá và Phú Quốc).
Chính phủ đã ưu tiên đầu tư xây dựng một số công trình đi qua hoặc kế cận
tỉnh Kiên Giang như: nâng cấp mở rộng 5 quốc lộ trên địa bàn tỉnh Kiên Giang và
đường Xuyên Á; Nạo vét, mở rộng tuyến đường thủy từ TP.HCM đến Kiên Lương;
Nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới sân bay Phú Quốc và Rạch Giá. Đặc biệt là sân
bay Phú Quốc sẽ trở thành sân bay quốc tế.
2.2. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
NHCT.VN VÀ CN.NHCT.KG:
2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống NHCT.VN:
NHCT.VN là một trong những NHTM Nhà nước lớn nhất của Việt Nam,
thành lập năm 1988 và được Nhà nước xếp hạng là doanh nghiệp đặc biệt. Theo
Quyết định số 196/QĐ-NHNN ngày 16/01/2008 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
tên giao dịch quốc tế bằng tiếng Anh của NHCT.VN được đổi thành Vietnam Bank
for Industry and Trade, viết tắt là VietinBank (tên giao dịch cũ là Industrial and
Commercial Bank of Vietnam, viết tắt là Incombank)
NHCT.VN có hệ thống mạng lưới gồm 2 Sở giao dịch, 02 văn phòng đại diện,
137 Chi nhánh, 158 phòng giao dịch, 144 điểm giao dịch, 287 quỹ tiết kiệm và hơn
500 “ngân hàng giao dịch tự động” (ATM), 01 Trung tâm đào tạo, 01 Trung tâm
21
Công nghệ Thông tin ở hầu hết các tỉnh, thành phố và trung tâm thương mại trong cả
nước, luôn là địa chỉ thuận tiện và đáng tin cậy của cả người gởi tiền, người đi vay và

người sử dụng các dịch vụ Ngân hàng. Ngoài ra, NHCT.VN còn là chủ sở hữu, cổ
đông lớn của những công ty hàng đầu trên thị trường tài chính Việt Nam như: Công
ty Chứng khoán NHCT, Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản, Công ty cho thuê tài
chính NHCT, Công ty Liên doanh Bảo hiểm châu Á – NHCT, Công ty liên doanh cho
thuê tài chính quốc tế (VILC), Liên doanh Ngân hàng Indovina, Liên doanh với
NHTM cổ phần Sài gòn Công thương… Với quy mô này, NHCT.VN trở thành một
trong những ngân hàng lớn nhất tại Việt Nam. NHCT.VN cũng đã thiết lập quan hệ
đại lý với 735 ngân hàng trên toàn thế giới, là thành viên của Hiệp hội ngân hàng
châu Á, thành viên của hệ thống thẻ Visa, Master và Hiệp hội tài chính viễn thông
toàn cầu (SWIFT).
Trong suốt thời gian qua, NHCT.VN đã không ngừng cải tiến, hoàn thiện, phát
triển các sản phẩm, dịch vụ mới, nâng cao công nghệ ngân hàng hiện đại nhằm đáp
ứng tốt mọi yêu cầu của khách hàng và đảm bảo lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Đây cũng là ngân hàng tiên phong trong việc áp dụng công nghệ vào hoạt động; là
ngân hàng có cơ sở hạ tầng, tiềm lực tài chính và đội ngũ cán bộ mạnh, chủ động với
lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các sản phẩm dịch vụ của NHCT như: chuyển tiền
điện tử, chuyển tiền kiều hối, cho vay doanh nghiệp, cho vay du học, cho vay mua
sắm trang thiết bị gia đình,... đã được đông đảo khách hàng lựa chọn. Đặc biệt là sản
phẩm thẻ ATM của NHCT đã thu hút được sự quan tâm của nhiều khách hàng.
Đặc biệt, NHCT cũng đã đầu tư tín dụng và ký hợp đồng hợp tác toàn diện với
một số ngành công nghiệp mũi nhọn, các tập đoàn và Tổng Công ty lớn như: Ngành
điện, Ngành xi măng, Ngành dầu khí, Ngành đóng tàu, Ngành dệt may, Tập đoàn
Than và Khoáng sản, Tập đoàn Bưu chính Viễn Thông và khoảng 66 Tổng Công ty
Nhà nước.
Các hình thức đầu tư tín dụng cũng ngày càng được mở rộng và phát triển
như: cho vay nội tệ, ngoại tệ, bảo lãnh, tài trợ xuất nhập khẩu, tín dụng thuê mua, tín
dụng uỷ thác, tín dụng theo dự án.
22
Với những kết quả đạt được, NHCT.VN xứng đáng nhận được nhiều giải
thưởng lớn của Việt Nam như: giải thưởng “Sao Vàng Đất Việt” cho sản phẩm thanh

toán điện tử năm 2003, giải thưởng ngân hàng có “Hoạt động xuất sắc trong thanh
toán quốc tế 2003/2004 với tỷ lệ STP cao” do Citigroup trao tặng và giải thưởng
“Thương hiệu mạnh Việt Nam" năm 2004 và năm 2005, 2006 trong đó năm 2005 và
2006 đạt Topten; giải thưởng “Sao Vàng Đất Việt” năm 2004, 2005 cho thương hiệu
NHCT; Giải thưởng "Thương hiệu cạnh tranh 2006" do Cục Sở hữu trí tuệ trao tặng;
Giải thưởng "Ngọn Hải đăng" năm 2006 do Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ trao
tặng; Giải "Cầu vàng" 2007 do Phòng Thương mại và Công nghiệp VN và Hiệp hội
DNVVN tổ chức bình chọn, Giải "Cúp vàng Thương hiệu và nhãn hiệu" năm 2007,
…tin tưởng NHCT.VN sẽ phát triển toàn diện để vững bước hội nhập.
Quá trình hình thành tổ chức bộ máy hoạt động của NHCT.VN có thể được
chia thành 03 giai đoạn sau:
- Giai đoạn thứ nhất (từ tháng 7/1988 đến hết năm 1990): Trong giai đoạn này,
NHCT Trung ương chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý như một liên hiệp Xí nghiệp đặc
biệt, các Chi nhánh thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập.
- Giai đoạn thứ hai (từ tháng 1/1991 đến tháng 9/1996): Sau khi Pháp lệnh
Ngân hàng có hiệu lực thi hành (10/1990), theo quyết định 402/CT ngày 14/11/1990
của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), NHCT.VN mới
thực sự trở thành một NHTM có chức năng kinh doanh tiền tệ. Mô hình tổ chức kinh
doanh được định hình rõ: NHCT.VN là một pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước, thực
hiện hạch toán kinh tế độc lập, có các Chi nhánh là các đơn vị thành viên hạch toán
phụ thuộc.
- Giai đoạn thứ ba (từ tháng 9/1996 đến nay): Theo mô hình Tổng Công ty
Nhà nước, NHCT.VN được quản lý bởi Hội đồng quản trị, điều hành bởi Tổng Giám
đốc, có các Chi nhánh là các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc (Chi nhánh cấp
I).
2.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển CN.NHCT.KG:
23
CN.NHCT.KG là Chi nhánh trực thuộc hệ thống NHCT.VN, được thành lập
theo Quyết định số 61/NH-TCCB ngày 14/7/1988 của Tổng giám đốc NHNN.VN, có
trụ sở đặt tại số 63, đường Lê Lợi, P. Vĩnh Thanh Vân, TP. Rạch Giá, tỉnh Kiên

Giang. Sau hai năm hoạt động thí điểm, CN.NHCT.KG đã cùng cả hệ thống chính
thức hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng theo Pháp lệnh ngân hàng
Khi mới thành lập, Chi nhánh NHCT đã gặp nhiều khó khăn bởi hình thành từ
NHNN thị xã Rạch Giá, một ngân hàng hoạt động trong cơ chế bao cấp với số lượng
CBCNV đông, kiến thức về kinh doanh chưa có, nếp nghĩ và phong cách làm việc
của đại bộ phận CBCNV còn hạn hẹp, cũ kỹ, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn,
cơ chế và quy chế quản lý chưa đồng bộ,… Song, để hòa nhập vào công cuộc đổi
mới của đất nước và của toàn ngành ngân hàng, dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo của
NHCT.VN, của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương, Chi bộ, Ban giám đốc và
tập thể CBCNV của CN.NHCT.KG đã quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, phấn đấu
thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, góp phần phát triển kinh tế địa phương và góp
phần cùng cả nước tiến vào công cuộc đổi mới.
Sau gần 20 năm hoạt động, đến nay CN.NHCT.KG đã thực hiện được vai trò,
vị trí của một NHTM quốc doanh trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Hiện tại Chi nhánh đã
có mạng lưới hoạt động tương đối rộng, tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm của
tỉnh; hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng, cơ sở vật chất kỹ thuật được trang bị
và cải tiến phù hợp với yêu cầu kinh doanh. Một trong nhiều thành tích mà Chi nhánh
đã đạt được và được Nhà nước ghi nhận đó là:
- Nhiều năm liền được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tặng bằng
khen.
- Năm 1995, được Chủ tịch nước tặng hưởng Huân chương lao động hạng 3.
- Năm 1998, được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng 2,
Giám đốc Chi nhánh được tặng thưởng Huân chương lao động hạng 3, Phó giám đốc
được tặng thưởng bằng khen của Chính phủ
2.2.3. Bộ máy tổ chức và quản lý của CN.NHCT.KG:
2.2.3.1. Sơ đồ tổ chức:
24
a. Mô hình tổ chức:
- Ban giám đốc: 01 Giám đốc và 02 Phó giám đốc
- 06 Phòng/Tổ nghiệp vụ: Phòng Khách hàng, Phòng Kế toán, Phòng Tiền tệ

Kho quỹ, Phòng Tổ chức – Hành chính, Tổ quản lý rủi ro và nợ có vấn đề, Tổ điện
toán
- 06 Phòng giao dịch trực thuộc: Số 4, Rạch Sỏi, Bến Nhứt, Kiên Lương, Hà
Tiên, Phú Quốc
Riêng phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ do NHCT.VN quản lý và chi trả
lương.
b. Nhân sự:
- Tổng số lao động tại CN.NHCT.KG đến ngày 31/12/2007: 101 người, trong
đó nam: 50 người, nữ: 51 người
- Trình độ chuyên môn:
+ Thạc sĩ: 01 người
+ Đại học và tương đương 80 người
+ Trung cấp: 13 người
+ Sơ cấp: 07 người
c. Sơ đồ bộ máy tổ chức:
25
Giám đốc
P.Giám đốcP.Giám đốc
Phòng
Tiền tệ
- Kho
quỹ
Phòng
Kế
toán
Phòng
Khách
hàng
Tổ
QLRR

và Nợ
có vấn
đề
Phòng
Tổ
chức
Hành
chính
Tổ
điện
toán
PGD
Số 4
PGD
Rạch
Sỏi
PGD

Tiên
PGD
Kiên
Lương
PGD
Bến
Nhứt
PGD
Phú
Quốc

×