Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Tăng cường huy động vốn của Ngân hàng TMCP An Bình chi nhánh Hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.01 KB, 45 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính lớn nhất trong nền kinh tế. Đối
với các tổ chức này, huy động vốn là hoạt động có vai trò đặc biệt quan trọng, không
huy động được lượng vốn đủ lớn, các Ngân hàng rất khó mở rộng tín dụng cũng như
phát triển các hoạt động khác
Trong điều kiện kinh tế Việt nam đang hội nhập các Ngân hàng thương mại
càng cần để duy trì và nâng cao vị thế trên thị trường. Trên thực tế lượng vốn các tổ
chức tài chính này huy động được chưa đủ lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển, mặt
khác không ít Ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng mất cân đối giữa các loại
vốn. Tăng cường vốn trở thành vấn đề rất cấp bách với các Ngân hàng thương mại
hiện nay
Chi nhánh Hà nội là một trong những chi nhánh thuộc miền Bắc của Ngân
hàng TMCP An Bình hoạt động trong môi trường cạnh tranh mới nên chi nhánh gặp
rất nhiều khó khăn. Hoạt động huy động vốn của chi nhánh dù đã có được những
thành công nhất định nhưng vẫn còn những hạn chế, tình hình huy động vốn của chi
nhánh qua các năm không được ổn định do sự bất ổn của nền kinh tế gây ra bên cạnh
những hình thức huy động vốn của chi nhánh chưa thực sự đa đạng. Nếu không tăng
cường huy động vốn thì chi nhánh sẽ rất khó phát triển
Xuất phát từ nhận định trên, đề tài “Tăng cường huy động vốn của Ngân
hàng TMCP An Bình chi nhánh Hà nội” được lựa chọn để nghiên cứu
Ngoài danh mục các chữ viết tắt, danh mục bảng biểu sơ đồ, lời mở đầu kết
luận và tài liệu tham khảo, chuyên đề được trình bày theo kết cấu gồm ba chương
như sau:
Chương 1: Tổng quan về huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng huy động vốn của Ngân hàng TMCP An Bình chi
nhánh Hà nội
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn của Ngân hàng TMCP An Bình
chi nhánh Hà nội
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.2. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại không phải được hình thành trong bất cứ điều kiện kinh
tế nào. Khi nền sản xuất hàng hóa phát triển đến trình độ nhất định, sự ra đời của
NHTM là tất yếu khách quan. Đến lượt mình, các NHTM lại trở thành động lực phát
triển kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia được phản ánh rất
nhiều thông qua trình độ phát triển của hệ thống NHTM nói riêng, hệ thống tài chính
nói chung của quốc gia đó
NHTM hiện diện trong nền kinh tế từ hình thức sơ khai nhất là những cửa hiệu
hay bàn đổi tiền trong các Trung tâm thương mại, giúp khách du lịch và thương nhân
đổi ngoại tệ lấy bản tệ. Hình thái đầu tiên đó xuất hiện ở các thành phố của Hy Lạp,
La Mã với hai hoạt động chủ yếu là: đổi tiền và chiết khấu thương phiếu
Những ngân hàng thực sự đầu tiên trên thế giới chỉ đơn thuần nhận bảo quản,
cất giữ hộ tiền vàng và các vật có giá khác. Khi thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng
trao cho những người chủ chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu với các vật đó. Do có
nhiều ưu điểm, những chứng chỉ này sau đó được sử dụng rộng rãi với tư cách là
“tiền” thay cho tiền vàng trong các giao dịch, đồng thời các chủ Ngân hàng nhận ra
sự không ăn khớp về thời gian và số lượng giữa tài sản được gửi vào và tài sản được
rút ra. Họ không dự trữ toàn bộ mà tiến hành cho vay với những người cần vốn. Điều
này khiến các Ngân hàng phải đối mặt với rủi ro lớn đồng thời biên Ngân hàng trở
thành trung gian tài chính lớn nhất trong nền kinh tế
Nhu cầu ngày càng lớn về loại tiền, chứng thư, do Ngân hàng phát hành khiến
các chứng thư được xuất ra một cách mạo hiểm, không có sự đảm bảo của tiền vàng
hay vật có giá. Sự lạm dụng phát hành tiền cũng như sự không thống nhất các loại
tiền do các Ngân hàng khác nhau phát hành gây ra sự bất ổn cho nền kinh tế, cản trở
giao thương. Nhà nước buộc phải can thiệp bằng cách trao quyền phát hành tiền cho
một số Ngân hàng mạnh nhất và sau đó là một Ngân hàng duy nhất, Ngân hàng
Trung ương. Những Ngân hàng còn lại chỉ còn được phép: nhận tiền gửi, đi vay và

cho vay
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ngoài NHTW, xét về tính chất và mục tiêu hoạt động, Ngân hàng được phân
loại thành: Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân
hàng thương mại. Trong đó NHTM chiếm số đông, từ những hoạt động sơ khai: đổi
tiền, nhận tiền gửi, cho vay… các Ngân hàng hiện nay đã phát triển rất nhiều hoạt
động mới. Việc xây dựng một khái niệm phản ánh đúng và đầy đủ bản chất của
NHTM cũng trở nên phức tạp hơn. Các khái niệm về NHTM được đưa ra trên cơ sở
những hoạt động thể hiện tính đặc trưng của các tổ chức tài chính này, được gọi
chung là các hoạt động ngân hàng. Trong những điều kiện cụ thể, các hoạt động ngân
hàng được cụ thể hóa theo những cách diễn đạt khác nhau
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ các hoạt động
Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan
Trong đó, hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán
Thực tế cho thấy: NHTM không phải bỗng dưng xuất hiện và có được sự thịnh
vượng như ngày nay. Một lịch sử lâu dài trong sự thúc đẩy của nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội đã giúp các NHTM không ngừng hoàn thiện các hoạt động cơ bản và
mở rộng nhiều hoạt động mới
1.1.3. Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.1.3.1.1. Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ chủ yếu dưới hình thức huy động, cho
vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy dộng vốn - hoạt động tạo nguồn vốn
cho ngân hàng thương mại – đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt
động của ngân hàng.
Nguồn vốn ngân hàng huy động được sử dụng để tiến hành cho vay phục vụ cho
nhu cầu phát triển sản xuất, phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương
và của cả nước. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng và phát

triển sẽ càng tạo uy tín và tiền đề cho ngân hàng trong mở rộng quan hệ tín dụng với
các thành phần kinh tế từ đó mang lại lợi nhuận cho ngân hàng
Nguồn vốn của một ngân hàng thương mại nằm bên phải bảng cân đối kế toán
bao gồm các khoản mục sau

Vốn chủ sở hữu
Đây là loại vốn ngân hàng mà ngân hàng cần phải có để có thể hoạt động ban
đầu và được pháp luật cho phép. Vốn này có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà
nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau.Tuy nhiên trong quá trình hoạt động,
ngân hàng cũng gia tăng vốn của chủ thêo nhiều phương thức khác nhau, tuỳ thuộc
vào điều kiện cụ thể. Đó là nguồn từ lợi nhuận và nguồn bổ sung từ phát hành thêm
cổ phần, góp thêm vốn,...

Vốn huy động
Vốn huy động có vai trò đáng kể trong khoản mục nguồn vốn của bảng cân
đối kế toán của ngân hàng. Vốn huy động là vốn mà ngân hàng cần phải dự trữ bắt
buộc theo tỷ lệ quy định của nhà nước, tuy nhiên lại đóng vai trò rất quan trọng trong
hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy động được chuyển đến ngân hàng
thông qua các kênh khác nhau dưới nhiều hình thức khác nhau. Lãi suất của vốn huy
động phụ thuộc vào lãi suất trên thị trường cũng như các quyết định về lãi suất huy
động của từng ngân hàng.

Vốn vay
Trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng, nguồn vốn vay nợ là khoản mục
lớn thứ hai bên tài sản nợ sau nguồn vốn huy động. Đối với nguồn vốn này, ngân
hàng không bị đòi hỏi về dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên một trở ngại lớn đối với nguồn
vốn này là chi phí vốn - lãi suất - của các khoản vay này thường cao và thường dao

động với biên độ lớn phụ thuộc vào tình trạng tài chính của ngân hàng xin vay.
Chính vì vậy, ngân hàng chỉ dung tới nguồn vốn vay nợ trong trường hợp có
những nhu cầu thanh khoản đột xuất với quy mô lớn xuất hiện mà các nguồn vốn huy
động hay nguồn tiền từ việc bán các dự trữ thứ cấp là không thể đáp ứng được.
Nguồn vay chính đối với các ngân hàng là từ các khoản tiền gửi của ngân hàng Trung
ương, từ nguồn chiết khấu của ngân hàng Trung ương hoặc từ các công ty lớn
1.1.3.2. Hoạt động sử dụng vốn
Các nguồn vốn sau huy động sẽ được ngân hàng thương mại phân bổ sử dụng
vào các mục tiêu khác nhau. Nguyên tắc hoạt động của ngân hàng là dự trữ một phần
dưới dạng tiền, phần còn lại được sử dụng vào các nghiệp vụ sinh lời nhằm tạo ra thu
nhập để bù đắp chi phí hoạt động và có lãi. Các nghiệp vụ sử dụng vốn rất phong phú
với nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, có thể chia làm 3 nhóm chính sau:
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Nghiệp vụ chiết khấu
Là nghiệp vụ trong đó ngân hàng thực hiện việc mua lại các giấy tờ có giá với
mục đích hưởng một mức lợi tức – thường gọi là lợi tức chiết khấu – tương xứng với
chi phí vốn và rủi ro mà ngân hàng phải đảm nhận khi sở hữu các giấy tờ có giá đó.
Các giấy tờ thường được ngân hàng chiết khấu là thương phiếu, các giấy nợ như trái
khoán hay hối phiếu chấp nhận thanh toán. Sau khi chiết khấu, ngân hàng có thể giữ
tài sản này tới lúc mãn hạn hoặc tiến hành tái chiết khấu hay bán lại trên thị trường
tiền tệ.

Nghiệp vụ đầu tư
Nghiệp vụ trong đó ngân hàng tiến hành mua các chứng khoán với mục đích thu
lợi từ việc sở hữu các chứng khoán này. Lợi tức bao gồm lãi của chứng khoán do nhà
phát hành đưa ra và lợi nhuận mà ngân hàng thu được khi bán lại chứng khoán với
giá cao hơn giá mua vào. Nghiệp vụ đầu tư thường được chia thành hai nhóm: Đầu tư
với mục đích thanh khoản và đầu tư với mục đích lợi nhuận.

Với mục đích thanh khoản, ngân hàng nắm giữ chứng khoán là nhằm tối đa
hoá khả năng sinh lời của tài sản trong khi vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản cao.
Các chứng khoán ngắn hạn thường được ưu tiên sử dụng cho mục đích này bởi vì
chúng có thể được ưu tiên sử dụng cho mục đích này bởi vì nhu cầu thanh khoản với
chi phí thấp. Các chứng khoán này đợc xem như dự trữ thứ cấp của ngân hàng.
Ngược lại, với nhóm đầu tư với mục đích lợi nhuận, các chứng khoán trong
nhóm chủ yếu là chứng khoán dài hạn của Chính Phủ với mức lãi cao và ngân hàng
thường nắm giữ chúng cho tới ngày mãn hạn. Đây được xem là một nguồn thu nhập
quan trọng của ngân hàng.

Nghiệp vụ cho vay
Cho vay là một chức năng, một nhiệm vụ cơ bản nhất của hệ thống ngân hàng
thương mại. Về bản chất, với nghiệp vụ này ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng
đối với một lượng vốn nhất định của mình cho một bên thứ hai để đổi lấy thu nhập về
lãi. Đối với ngân hàng, cho vay là nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu, là nguồn
thu nhập chính bù đắp các chi phí trong hoạt động của ngân hàng. Với một ngân
hàng trung bình, thu nhập từ cho vay chiếm 70 – 80% tổng số thu nhập. Tuy nhiên do
mối quan hệ logic giữa thu nhập và rủi ro, cho vay cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn nhiều
mối lo ngại nhất cho các ngân hàng, trong đó rủi ro lớn nhất mà ngân hàng thường
xuyên phải đối mặt là rủi ro tín dụng, ngân hàng không thu được vốn. Do vậy trong
hoạt động của mình, các cán bộ tín dụng của ngân hàng phải luôn đề cao tinh thần
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trách nhiệm, cánh giác không ngừng học hỏi để tránh cho ngân hàng những tổn thất
lớn.
Nghiệp vụ cho vay được phân chia theo nhiều tiêu thức kỳ hạn gồm 3 nhóm là
cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn và cho vay dài hạn; hoặc phân chia theo lĩnh
vực cho vay thành cho vay công nghiệp, cho vay nông nghiệp, cho vay tiêu dùng,...
Các ngân hàng hiện nay đang rất chú trọng phát triển các dịch vụ cho vay tiêu dùng
1.2. HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.2.1. Vốn chủ sở hữu
1.2.1.1. Nguồn vốn hình thành ban đầu
Nguồn vốn ban đầu hay Vốn pháp định của mỗi ngân hàng được hình thành do
tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định.
Đối với các NHTM quốc doanh thì 100% vốn pháp định ban đầu là vốn do Nhà
nước cấp.
Đối với các NHTM cổ phần thì vốn pháp định (vốn điều lệ) hình thành do sự
đóng góp của các cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu.
Đối với các NHTM liên doanh thì vốn pháp định là vốn đóng góp của các bên
liên doanh Còn vốn của ngân hàng tư nhân lại chính là vốn thuộc sở hữu của chủ
ngân hàng
1.2.1.2. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Gia tăng vốn chủ sở hữu là một hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi
ngân hàng. Vốn chủ sở hữu càng lớn thì uy tín cũng như sức mạnh của ngân hàng
trên thị trường càng lớn. Để tăng vốn chủ sở hữu, các ngân hàng thường lấy từ các
nguồn sau:
- Nguồn từ lợi nhuận : Khi ngân hàng hoạt động có lợi nhuận thì lãnh đạo ngân
hàng thường có xu hướng gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển một phần thu
nhập ròng thành vốn đầu tư. Việc này có ý nghĩa tích cực với mọi ngân hàng vì nó
góp phần tạo thêm sự an tâm với các khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng tích luỹ
tiền để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngân hàng nhằm tạo ra một hình ảnh
ngân hàng đẹp hơn.
- Nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần , góp thêm, cấp thêm… để mở
rộng quy mô hoạt động của Ngân hàng hoặc đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn chủ do
Ngân hàng nhà nước quy định. Tuy nhiên nguồn vốn này không không phải lúc nào
cũng có được. Đối với các ngân hàng Nhà nước, việc được cấp thêm vốn tuỳ thuộc
vào chính sách của nhà nước mỗi năm. Còn đối với các ngân hàng cổ phần, việc tăng
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thêm vốn điều lệ bằng cách phát hành thêm cổ phiếu mới đòi hỏi sự cân nhắc của hội

đồng quản trị ngân hàng. Không phải lúc nào một ngân hàng cũng có thể phát hành
thêm cổ phiếu mới vì việc này có thể gây ra nhiều tác động không tốt như: giá cổ
phiếu ngân hàng trên thị trường giảm, cổ tức của cổ đông ít đi
1.2.1.3. Các quỹ
Các quỹ của ngân hàng được lập ra với nhiều mục đích, nhằm hỗ trợ cho các
hoạt động khác nhau của ngân hàng. Những quỹ này đều được hình thành từ thu nhập
của ngân hàng.
- Quỹ dự phòng tổn thất: được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm
bù đắp những tổn thất đã và sẽ xảy ra.
- Quỹ bảo toàn vốn : nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm
phát.
- Quỹ thặng dư: là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa
thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới.
Ngoài ra, các ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc
1.2.1.4. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Đây là thành phần khá đặc biệt trong nguồn vốn chủ sở hữu bởi nó được hình
thành từ các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng. Một số ngân hàng phát hành
các trái phiếu có thời hạn lâu năm nhằm huy động vốn, người nắm giữ những trái
phiếu này đến một thời hạn nào đó sẽ chuyển thành cổ đông của ngân hàng và được
hưởng lợi tức thay vì tiền lãi. Nguồn vốn này xuất hiện ở các ngân hàng sắp cổ phần
hoá có tác dụng làm tăng vốn lượng vốn dài hạn trong thời điểm hiện tại và tăng vốn
chủ sở hưu trong tương lai. Tại Việt Nam, trong quá trình cổ phần hoá Ngân hàng
Ngoại thương cũng đã phát hành những trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Những trái phiếu này rất hấp dẫn các nhà đầu tư vì họ có cơ hội trở thành đồng sở
hữu một ngân hàng rất mạnh trong tương lai
1.2.2. Vốn huy động từ nền kinh tế
1.2.2.1. Tiền gửi thanh toán
Tiền gửi thanh toán hay còn gọi là tiền gửi không kì hạn là loại tiền gửi mà
người gửi có thể rút ra bất cứ lúc nào. Nghĩa là nếu một người vừa gửi tiền sáng nay,
nếu cần anh ta có thể rút ra ngay buổi chiều cùng ngày, còn nếu chưa cần sử dụng thì

anh ta cứ để đấy khi nào cần thì rút. Thông thường, chủ các tài khoản tiền gửi không
kì hạn thường yêu cầu ngân hàng thanh toán hộ mình cho các đối tác qua tài khoản
mà không cần phải đến ngân hàng rút tiền nữa. Việc này đẩy nhanh tốc độ lưu thông
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
của tiền và hạn chế bớt tiền mặt trong thanh toán. Chính ưu điểm này của tiền gửi
thanh toán đã khiến nó rất được ưa thích và phổ biến với tất cả mọi người, đặc biệt là
các doanh nghiệp và cá nhân có hoạt động mua bán thường xuyên. Ngày nay tài
khoản tiền gửi thanh toán đảm nhiệm rất nhiều chức năng hữu dụng đối với chủ tài
khoản. Người chủ tài khoản có thể phát séc từ tài khoản của mình, thanh toán các loại
hoá đơn qua ngân hàng, rút tiền mặt tại các máy ATM của ngân hàng…Mạng lưới
ngân hàng càng mở rộng và phát triển thì càng tạo nhiều thuận lợi cho những người
sở hữu các tài khoản tiền gửi thanh toán. Giờ đây người ta có thể mua bán với nhau
dù cách xa hàng ngàn km, có thể đi du lịch khắp nơi mà chỉ cần mang theo một chiếc
thẻ tín dụng được chấp nhận toàn cầu. Đặc biệt, từ sau thập niên 70 các ngân hàng đã
bắt đầu trả lãi suất cho các khoản tiền gửi thanh toán, dù lãi suất rất thấp. Tuy nhiên
điều này càng làm tăng sự ưa thích của các khách hàng vì tiền của họ không những
có thể rút được ra bất kì lúc nào mà còn sinh lãi khi không dùng đến trong một
khoảng thời gian dài.
Đối với ngân hàng, tiền gửi thanh toán cũng là khoản vốn huy động khá hấp
dẫn. Bởi chi phí (lãi suất) cho loại tiền gửi này thấp nhất trong các loại tiền gửi. Để
thu hút tiền gửi thanh toán, các ngân hàng tạo rất nhiều sản phẩm cũng như tiện ích
sử dụng khiến cho khách hàng có rất nhiều lựa chọn. Chỉ riêng về Thẻ đã có rất nhiều
loại và nhiều tính năng phù hợp với mỗi loại khách hàng. Tương lai, tiền gửi thanh
toán sẽ thay thế hầu như toàn bộ tiền mặt, nó không những giúp người sở hữu thuận
lợi trong các giao dịch, ngân hàng có thêm nhiều vốn mà còn giúp Nhà nước quản lý
có hiệu quả lượng tiền mặt trong lưu thông
1.2.2.2. Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội
Bên cạnh những khoản tiền gửi thanh toán, hầu hết các doanh nghiệp thương
mại, tổ chức xã hội đều gửi một lượng tiền nhất định tại ngân hàng với thời hạn xác

định. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp hay tổ chức luôn có một lượng
tiền tạm thời chưa cần sử dụng, họ gửi nó vào ngân hàng với các kì hạn khác nhau để
hưởng lãi (lãi suất cao hơn lãi suất của tiền gửi không kì hạn) nhằm tạo thêm thu
nhập cho mình. Tuy nhiên lượng tiền gửi có kì hạn của các tổ chức chiếm một lượng
rất nhỏ so với lượng tiền gửi không kì hạn, đồng thời rất khó dự đoán được sự biến
động của nó do sự biến động của hoạt động kinh doanh sản xuất của các doanh
nghiệp
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2.2.3. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa dùng đến, họ
tích luỹ lại cho tương lai. Người dân có nhiều cách để giữ số tiền tiết kiệm của mình.
Một trong những cách đó là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng. Ngân hàng thu hút tiền
gửi của người dân bằng việc đảm bảo an toàn cho tài sản của họ đồng thời trả lãi để
khuyến khích họ gửi nhiều tiền với thời hạn lâu dài. Huy động tiền gửi trong dân cư
là nghiệp vụ truyền thống đem lại cho ngân hàng một lượng vốn rất lớn để có thể tiến
hành các hoạt động cho vay và đầu tư sinh lợi. Thông thường tiền gửi tiết kiệm có 2
loại chính :
- Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn
- Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn
Với tiền gửi tiết kiệm không kì hạn, người gửi có thể rút bất cứ khi nào họ muốn.
Còn với tiền gửi tiết kiệm có kì hạn, người gửi chỉ có thể rút tiền khi đến hạn nhưng
lại được hưởng mức lãi suất cao hơn nhiều so với tiền gửi tiết kiệm không kì hạn.
Người gửi tiết kiệm có kì hạn có quyền yêu cầu ngân hàng thay đổi kì hạn tiền gửi
của mình, nhập các sổ tiết kiệm lại với nhau, dùng sổ tiết kiệm để thế chấp vay vốn…
Đặc biệt, hiện nay để cạnh tranh hầu như các ngân hàng đều cho người gửi tiền tiết
kiệm có kì hạn rút tiền trước hạn khi cần. Điều này làm tăng sức hấp dẫn của tiền gửi
tiết kiệm có kì hạn. Hơn nữa, người dân cũng có thể yên tâm hơn khi khoản tiền gửi
của mình trong ngân hàng được bảo hiểm, trong trường hợp ngân hàng mất khả năng
thanh toán thì người gửi vẫn có thể nhận lại toàn bộ hoặc một phần số tiền của mình

từ tổ chức bảo hiểm tiền gửi
1.2.2.4. Tiền gửi của các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác
Giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác thường xuyên có mối liên hệ với
nhau về nhiều mặt trong hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng đều gửi một lượng
tiền ở các ngân hàng khác nhằm mục đích tạo sự thuận tiện cho việc thanh toán hộ,
chuyển khoản hay mua bán, giao dịch khác…Lượng tiền gửi này thường không lớn,
biến động nhỏ nên ít ảnh hưởng tới nguồn vốn của ngân hàng
1.2.3. Vốn vay
1.2.3.1. Tiền vay Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng, là cứu tinh của các
ngân hàng trong các trường hợp khó khăn nhất, là người cho vay sau cùng. Thông
thường tất các ngân hàng thương mại và một số tổ chức tài chính khác trong nước
được NHNN cho phép thành lập đều được hưởng quyền vay tại ngân hàng NHNN
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trong những tình huống thiếu hụt dự trữ hoặc quá kẹt vốn. Đối với các NHTM thì vay
mượn tại NHNN là một dịch vụ hết sức tiện lợi và hấp dẫn vào lúc nó hạ lãi suất tái
chiết khấu trong chính sách cung ứng tiền nới lỏng để kích thích đầu tư. Nhưng
trường hợp không may diễn ra là khi các ngân hàng đến vay vào lúc NHTƯ không
muốn khuyến khích sự bành trướng của tín dụng hay đang muốn thắt chặt cung ứng
tiền tệ chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đẩy lên cao và với những
khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của NHTƯ thì các ngân hàng chỉ miễn cưỡng vay
trong những tình huống ngặt nghèo và tìm cách trả nợ rất nhanh. Những khi ấy, các
khoản vay từ NHNN chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tài sản nợ của các ngân hàng.
Dù ít hay nhiều, thường xuyên hay thình thoảng thì vay NHNN vẫn là một khoản
mục hiển nhiên trong tài sản nợ.
Ngân hàng Nhà nước cấp tín dụng cho các NHTM qua 2 hình thức:
- Tái chiết khấu (hoặc chiết khấu) hay còn gọi là tái cấp vốn. Các thương phiếu
đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu sẽ trở thành tài sản cảu họ. Khi cần
tiền họ mang chúng lên NHNN để tái chiết khấu. Nghiệp vụ này làm thương phiếu

của NHTM giảm đi và dự trữ tăng lên. NHNN kiểm soát việc vay mượn này một
cách chặt chẽ. Thông thường NHNN chỉ chiết khấu cho các thương phiếu có chất
lượng (có thời hạn đáo hạn ngắn và khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của
NHNN trong từng thời kì.
- Thế chấp hay ứng trước bảo đảm hay không có bảo đảm. Đây là hình thức
cho vay thời hạn ngắn, chủ nợ không bán các phiếu nợ cho ngân hàng mà chỉ đem
gửi các phiếu đó làm vật bảo đảm cho việc vay tiền.
Ở Việt Nam hiện nay, có các loại cho vay của NHNN đối với các NHTM như
sau:
- Cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn : là hình thức tài trợ vốn theo
kế hoạch, chỉ phân phối đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh.
- Chiết khấu và tái chiết khấu kho bạc, khế ước mà các ngân hàng đã cho
khách hàng vay nhưng chưa đáo hạn và các thương phiếu.
Cho vay bổ sung thanh toán bù trừ của các tổ chức tín dụng
1.2.3.2. Tiền vay các tổ chức tín dụng khác
Khi vay tiền từ NHNN để đáp ứng thiếu hụt dự trữ hay chi trả cấp bách quá khó
khăn (lãi suất chiết khấu cao, điều kiện vay mượn chặt chẽ..) các NHTM thường vay
mượn lẫn nhau trên thị trường kiên ngân hàng. Quá trình vay mượn này rất đơn giản.
Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hàng đại lí (hoặc NHNN ). Khoản vay có thể không cần bảo đảm hoặc được bảo đảm
bằng các chứng khoán của kho bạc. Thông thường, các ngân hàng đang có dự trữ
vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm
cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược
lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo
thanh khoản. Việc vay mượn giữa các ngân hàng là hoạt động thường xuyên và là
một kênh huy động vốn tốt cho các ngân hàng trong những trường hợp khẩn cấp
1.2.3.3. Vay trên thị trường vốn
Để huy động được lượng vốn dồi dào đáp ứng nhu cầu cho vay thường xuyên

(đặc biệt là cho vay trung và dài hạn), bên cạnh việc thu hút tiền gửi, các Ngân hàng
thường chủ động đi vay trên thị trường vốn. Cũng giống như các doanh nghiệp, Ngân
hàng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu ) trên
thị trường. Thông thường đây là các khoản vay không có đảm bảo, nên những ngân
hàng lớn có uy tín hoặc trả lãi suất cao hơn thì sẽ vay được nhiều hơn. Các ngân hàng
nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách đó mà phải thông qua ngân hàng đại lí
hoặc được sự bảo lãnh của ngân hàng Đầu tư. Có thể nói thị trường tài chính với vai
trò trung gian điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động
của các ngân hàng. Thị trường tài chính càng phát triển thì khả năng chuyển đổi các
công cụ nợ dài hạn của các ngân hàng càng tăng
1.2.3.4. Vay nợ khác
Ngoài những nguồn vốn đi vay cơ bản trên, Ngân hàng còn có các nguồn vốn
vay khác như:
- Nguồn uỷ thác: NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ
thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ….Trong đó Uỷ thác Đầu tư
là dịch vụ khá hấp dẫn của ngân hàng. Với dịch vụ này, khách hàng uỷ thác tiền bạc,
tài sản của mình cho ngân hàng để ngân hàng tiến hành đầu tư vào những dự án khả
thi để sinh lãi. Ngân hàng với lợi thế về uy tín và thông tin cũng như khả năng thẩm
định dự án tốt sẽ tiến hành hoạt động đầu tư có hiệu quả hơn, mang lại thu nhập cho
khách hàng đồng thời thu lời cho chính mình qua phí dịch vụ. Trong tương lai, dịch
vụ Uỷ thác đầu tư hứa hẹn rất phát triển, là một nguồn thu hút vốn khá tốt và trở
thành một sản phẩm cạnh tranh hấp dẫn không kém sản phẩm tiền gửi.
- Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có
thể hình thành nguồn trong thanh toán ( séc trong quá trình chi trả, tiền ký quỹ
L/C…), Hoặc các ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết dư tiền
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
gửi từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để cho vay. Đặc điểm của nguồn
này là thời gian tồn tại ngắn vì phần lớn chúng đều ở trong trạng thái chờ luân
chuyển, do đó các ngân hàng ít khi chỉ sử dụng chúng để cho vay lâu dài mà chỉ để

bổ sung thêm nguồn ở thời điểm hiện tại.
1.2.4. Các nguồn khác
Các khoản nợ khác như Thuế chưa nộp, lương chưa trả…Đây là nguồn mà ngân
hàng tạm thời chiếm dụng, không có ảnh hưởng đáng kể tới nguồn vốn cũng như
hoạt động huy động vốn của ngân hàng
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Nhân tố khách quan
1.3.1.1. Tâm lý, thói quen của người tiêu dùng
Tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng. Nếu
những vùng dân cư người ta quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ là
chính thì việc huy động vốn sẽ gặp khó khăn. Chẳng hạn vào thời kì vàng còn có giá
trị thì người ta dùng tiền nhàn rỗi đi mua vàng về cất trữ…Còn khi người dân có nhu
cầu hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn. Khi
đó cơ hội huy động vốn của ngân hàng tăng lên
Ở những nước phát triển, nhu cầu giao dịch thanh toán qua ngân hàng rất phát
triển. Hầu hết những người dân có thu nhập đều mở tài khoản để thanh toán qua ngân
hàng. Tuy nhiên ở những nước kém phát triển, thu nhập của người dân thấp, nhu cầu
giao dịch qua ngân hàng còn hạn chế nên ít người mở tài khoản tại ngân hàng. Điều
này sẽ hạn chế khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, không phát huy được
tính hiệu quả của tài khoản giao dịch
Mức thu nhập và chu kì chi tiêu của người dân cũng là những yếu tố trực tiếp
tác động đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung thu nhập của người dân càng
cao; nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên tương đối so với nhu cầu tiêu dùng
thì nhu cầu mở tài khoản cũng như gửi tiền vào ngân hàng sẽ tăng lên. Chu kì chi tiêu
ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền. Vào những dịp nghỉ lễ trong
năm, nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút,
đặc biệt là trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến
Có thể nói đây không phải yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới hiệu quả huy động
vốn của ngân hàng những lại có giá trị ở chỗ nó khiến cho gần hết tiền nhàn rỗi trong

dân cư được luân chuyển vào ngân hàng
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.3.1.2. Môi trường kinh tế
Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc
độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập quốc dân, tốc độ chu chuyển vốn, tỷ lệ lạm
phát,... tác động trực tiếp. Khi nền kinh tế trong thời kỳ hưng thịnh, có tốc độ phát
triển nhanh, thu nhập quốc dân cao, các đơn vị kinh tế, dân cư sẽ có nguồn tiền gửi
dồi dào vào ngân hàng. Ngược lại, trong điều kiện tình hình kinh tế bất ổn, nền kinh
tế trì trệ, tỷ lệ thất nghiệp cao, tỷ lệ lạm phát cao thì việc huy động vốn của ngân
hàng nói chung và các hoạt động khác của ngân hàng noi chung sẽ gặp nhiều khó
khăn bởi người dân không tin tưởng gửi tiền vào ngân hàng mà dùng tiền để mau các
tài sản có tỉnh ổn định cao, còn các doanh nghiệp buộc phải thu hẹp sản xuất, lượng
tiền gửi vào ngân hàng sẽ bị thu hẹp, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
Mặt khác, trong môi trường ngày càng phát triển hiện nay, khả năng ứng dụng
công nghệ trở thành một trong những điều kiện bắt buộc để ngân hàng tồn tại và phát
triển. Nhiều sản phẩm dịch vụ đã xuất hiện liên quan đến hoạt động huy động vốn
của ngân hàng thương mại như dịch vụ ngân hàng tại nhà (Home banking), máy rút
tiền tự động ATM (Automatic Teller Money), thư tín dụng (L/C), hệ thống thanh
toán điện tử,... đã làm cho tỷ lệ gửi tiền, thanh toán qua ngân hàng ngày càng tăng và
đạt tỷ lệ cao
1.3.1.3. Môi trường xã hội
Môi trường xã hội cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới hoạt động của
ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng
Phân bố dân cư, thu nhập của người dân là một nguồn lực tiềm tàng có thể
khai thác nhằm mở rộng quy mô huy động vốn của ngân hàng thương mại. Vì vậy
những khu vực đông dân cư, với thu nhập cao thì sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động
vốn đối với ngân hàng.
Môi trường văn hoá như tập quán, tâm lý, thói quen sử dụng tiền mặt của dân
cư ảnh hưởng nhiều đến quyết định kinh tế về tiêu dùng và tiết kiệm của người có thu

nhập, mức độ chấp nhận rủi ro khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng hay quyết định
chi tiêu số tiền nhàn rỗi của mình vào đầu tư bất động sản, động sản, chứng khoán
1.3.1.4. Môi trường pháp lý
Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt, hàng hoá
tiền tệ nên chịu tác dụng bởi nhiều chính sách, các quy định của Chính Phủ và của
Ngân hàng Nhà nước. Sự thay đổi chính sách của nhà nước, của Ngân hàng Nhà
nước về tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
cũng như chất lượng của nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Sự ổn định về chính
trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động đến nguồn vốn của một ngân hàng
thương mại với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới
1.3.2. Nhân tố chủ quan
1.3.2.1. Tổ chức nhân sự
Mặc dù trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng
sản xuất chính nhưng con người vẫn luôn khẳng định vị trí trung tâm của mình, vừa
là chủ thể vừa là mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Con
người là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng thương mại cũng như hoạt động huy động vốn của ngân hàng
Trong hoạt động huy động vốn, con người là yếu tố quan trọng trong việc tiếp
xúc khách hàng, đặt quan hệ giao dịch,... Như vậy để nâng cao hiệu quả huy động
vốn thì một yêu cầu được đặt ra là ngân hàng cần phải có một đội ngũ cán bộ có năng
lực, được đào tạo một cách bài bản, có chuyên môn nghiệp vụ cao, đồng thời phải
nắm bắt được những kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài những yêu cầu về
nghiệp vụ thì một cán bộ tín dụng phải có tư cách phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết
và tuân thủ pháp luật, các quy định của ngân hàng
Mặt khác, tổ chức nhân sự hợp lý tạo nên một chi phí hợp lý đối với nguồn
nhân lực như vậy, hiệu quả huy động vốn của ngân hàng sẽ tốt hơn
1.3.2.2. Chính sách lãi suất của Ngân hàng
Lãi suất được coi là giá cả của các sản phẩm dịch vụ tài chính. Ngân hàng sử

dụng hệ thống lãi suất tiền gửi như một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền
gửi và thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn, ngân hàng
cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh, thực hiện những ưu đãi về giá cho những khách
hàng lớn, gửi tiền thường xuyên. Hơn nữa hệ thống lãi suất cần linh hoạt, phù hợp
với quy mô và cơ cấu nguồn vốn.
Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần phải chú ý rất nhiều đến lãi suất tiền vay để có
thể có các hoạt động kinh doanh hợp lý, đem lại các khoản thu nhập cao nhất cho
ngân hàng để bù đắp được các khoản chi phí đã bỏ ra và vẫn mang lại lợi nhuận cho
ngân hàng
1.3.2.3. Mạng lưới huy động vốn của Ngân hàng
Mạng lưới hoạt động của ngân hàng và các hình thức huy động vốn càng đa
dạng, phóng phú thì kết quả huy động vốn càng nhiều về số lượng do việc thực hiện
được dịch vụ trọn gói và mở rộng dịch vụ ngân hàng. Các khoản tiền tiết kiệm của
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dân cư thường là các khoản tiền nhỏ. Vì vậy, nếu việc tiếp cận với ngân hàng khó
khăn sẽ tạo ra cho khách hàng tâm lý ngại đến ngân hàng. Với một mạng lưới rộng
khắp, tạo ra sự sễ dàng trong việc tiếp cận ngân hàng của người dân thì ngân hàng sẽ
dễ dàng thu hút được các khoản tiền gửi đó một cách có hiệu quả
1.3.2.4. Hoạt động marketing của Ngân hàng
Mục tiêu cuối cùng là thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng vừa đảm bảo
khả năng sinh lời, kảh năng cạnh tranh an toàn trong kinh doanh thì marketing đã trở
thành công cụ không thể thiếu được trong ngân hàng thương mại hiện nay.
Hoạt động ngân hàng có tính xã hội hoá cao, phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường
kinh doanh như môi trường dân cư, môi trường kinh tế, môi trường chính trị,... nên
sự thay đổi của bất kỳ yếu tố nào cũng ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động kinh
doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng.
Chính sách marketing có hai nhiệm vụ chính:
Nắm bắt kịp thời sự thay đổi môi trường, thị trường cũng như nhu cầu của
khách hàng đối với dịch vụ sản phẩm mà ngân hàng cung cấp.

Xây dựng chính sách, giải pháp thích hợp để thắng đối thủ cạnh tranh đạt được
mục tiêu lợi nhuận
Việc nắm bắt kịp thời sự thay đổi của môi trường, nhu cầu sẽ giúp ngân hàng
đưa ra được những sản phẩm phù hợp, linh hoạt góp phần dáp ứng được nhu cầu của
khách hàng đồng thời thu hút được lượng vốn lớn. Cũng từ việc nghiên cứu thị
trường, ngân hàng sẽ đưa ra những sản phẩm mới.
Mặt khác chính sách khuếch trương sẽ giúp người dân hiểu rõ ràng, đầy đủ về
ngân hàng thông qua phương tiện thông tin đại chúng xây dựng một hình ảnh nhân
viên ngân hàng tận tình, chu đáo, có trình độ chuyên môn,... sẽ tạo lòng tin với khách
hàng.
Như vậy chính sách marketing có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng huy động
vốn nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN AN BÌNH CHI NHÁNH HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về Ngân hàng TMCP An Bình chi nhánh Hà nội
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
 Ngân hàng TMCP An Bình được thành lập vào tháng 04 năm 1993
 Tên tiếng Anh là AN BINH COMMERCIAL JOINT - STOCK BANK
 Trụ sở: 78-80 Cách Mạng Tháng 8,Phường 6, Quận 3, Thành phố Hồ Chí
Minh
 Chi nhánh Hà Nội đựơc khai trương vào tháng 2 năm 2006
 Địa chỉ: 101 Láng Hạ, Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội.
 Điện thoại: (84-4) 562 2828
 Fax: (84-4) 562 4655
 Vốn điều lệ: 2.700 tỷ đồng
Ngân hàng An Bình (ABBANK) là một trong các ngân hàng cổ phần hàng đầu
và là một trong mười ngân hàng có vốn điều lệ lớn nhất Việt Nam, Sau hơn 15 năm
phát triển và trưởng thành từ năm 1993, ABBANK đã có sự bứt phá mạnh mẽ trong 3

năm gần đây với sự liên kết từ những tập đoàn kinh tế lớn mạnh trong và ngoài nước
như
- Tập đoàn Điện lực Việt nam (EVN) - cổ đông chiến lược của ABBANK với tỉ
lệ góp vốn điều lệ khoảng 27%
- Maybank, ngân hàng lớn nhất Malaysia - cổ đông chiến lược nước ngoài hiện
đang sở hữu 15% cổ phần của ABBANK
Với vốn điều lệ trên 2.700 tỉ đồng, mạng lưới gần 70 điểm giao dịch tại 20 tỉnh
thành trên toàn quốc vào cuối năm 2008, ABBANK đang phục vụ hàng ngàn khách
hàng doanh nghiệp và hàng vạn khách hàng cá nhân. Tổng tài sản, doanh thu và lợi
nhuận của ABBANK đã tăng trưởng liên tục hơn 300% trong hai năm gần đây
Các nhóm khách hàng mục tiêu hiện nay của ABBANK bao gồm nhóm khách
hàng doanh nghiệp, nhóm khách hàng cá nhân và nhóm khách hàng đầu tư
- Đối với khách hàng Doanh nghiệp: ABBANK sẽ cung ứng sản phẩm dịch vụ
tài chính ngân hàng trọn gói như: sản phẩm cho vay, sản phẩm bao thanh toán sản
phẩm bảo lãnh, sản phẩm tài trợ xuất nhập khẩu, sản phẩm tài khoản, dịch vụ thanh
toán quốc tế
- Đối với các khách hàng cá nhân: ABBANK cung cấp nhanh chóng và đầy đủ
chuỗi sản phẩm tín dụng tiêu dùng và các sản phẩm tiết kiệm linh hoạt. Ví dụ: Cho
vay trả góp mua nhà, đất, xây sửa nhà cho vay trả góp mua nhà, đất 30 năm và có bảo
hiểm nhân thọ cho người vay, cho vay trả góp mua ô tô; cho vay tiêu dùng tín chấp,
cho vay sản xuất kinh doanh trả góp, cho vay bổ sung vốn lưu động, cho vay tiêu
dùng thế chấp linh hoạt, các sản phẩm tiết kiệm YOUsaving tiết kiệm theo thời gian
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
thực gửi, tiết kiệm bậc thang và các dịch vụ thanh toán chuyển tiền trong và ngoài
nước
- Với các khách hàng đầu tư: ABBANK thực hiện các dịch vụ ủy thác và tư vấn
đầu tư cho các khách hàng công ty và cá nhân. Riêng với các khách hàng công ty,
ABBANK cũng cung cấp thêm các dịch vụ tư vấn tài chính, tư vấn phát hành và bảo
lãnh phát hành trái phiếu, đại lý thanh toán cho các đợt phát hành trái phiếu. Định vị

và sự khác biệt của ABBANK với các ngân hàng khác là việc cung ứng các giải pháp
tài chính linh hoạt, hiệu quả và an toàn với dịch vụ thân thiện lấy nhu cầu và sự hài
lòng của khách hàng là trọng tâm của mọi mô hình kinh doanh và cơ cấu tổ chức, bảo
đảm chất lượng phục vụ tốt và đồng nhất trên nền tảng công nghệ, quy trình chuẩn,
và sự chuyên nghiệp của nhân viên
Chi nhánh Hà Nội đựơc khai trương vào tháng 2 năm 2006 sau 3 năm đi vào
hoạt động chi nhánh hà nội đã phát triển mạnh cả về mạng lưới chi nhánh và các sản
phẩm dịch vụ đến nay, mạng lưới hoạt động của chi nhánh hà nội bao gồm chi nhánh
tại 101 Láng Hạ và 15 phòng giao dịch
2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng An Bình – Chi nhánh Hà nội
Tuân thủ và thực hiện những nhiệm vụ, chức năng trong quyết định thành lập,
NH An Bình –Chi nhánh Hà Nội - một ngân hàng thương mại đa năng đã và đang
tiến hành các hoạt động nhằm phục vụ khách hàng trong và ngoài nước. Các nghiệp
vụ cụ thể của ngân hàng như sau :
- Nhận tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán
bằng ngoại tệ từ mọi tổ chức, cá nhân
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi : Trái phiếu, kỳ phiếu, tín dụng
- Cho vay ngắn, trung và dài hạn; chiết khấu các giấy tờ có giá
- Thực hiện bảo lãnh quốc tế thông qua hệ thống ngân hàng đại lý
- Chuyển tiền nhanh thông qua mạng vi tính
Ngoài ra còn có các dịch vụ khác như : mua bán, thu đổi ngoại tệ; chi trả kiều hối; cất
giữ, bảo quản, quản lý giấy tờ và các tài sản có giá cho khách hàng; dịch vụ thu, chi
tiền mặt
2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng An Bình chi nhánh Hà nội
Để thực hiện tốt nhiệm vụ đề ra, bộ máy tổ chức của Ngân hàng phải được tổ
chức sao cho phù hợp với quy mô cũng như đặc điểm hoạt động.Bộ máy Tổ chức của
NH An Bình được áp dụng theo phương thức trực tuyến. Ban giám đốc chịu trách
nhiệm lãnh đạo và điều hành hoạt động chung các phòng ban của Ngân hàng
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

2.1.3.1. Ban giám đốc
- Giám đốc : chịu trách nhiệm chung về mọi hoạt động kinh doanh của ngân
hàng, đưa ra những quyết định cuối cùng và chỉ đạo hoạt động của các phòng ban.
- Các phó giám đốc : là những người giúp việc cho giám đốc, được phân công
theo từng mảng công việc khác nhau tùy theo quyền hạn và nhiệm vụ của từng người
2.1.3.2. Các phòng ban cụ thể
* Phòng Nguồn vốn - Kế hoạch tổng hợp
- Nghiên cứu, đề xuất, xây dựng chiến lược kinh doanh ngắn, trung và dài hạn.
- Đề xuất các biện pháp để đẩy mạnh huy động vốn; làm sao có đủ hoặc dư vốn
nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu vay vốn của khách hàng.
- Cân đối nguồn vốn; sử dụng và điều hòa vốn kinh doanh theo nguyên tắc an
toàn, hiệu quả, tiết kiệm.
* Phòng khách hàng doanh nghiệp
- Nghiên cứu thực hiện chiến lược phân loại, đề xuất chính sách ưu đãi đối với
khách hàng; tiếp nhận, thực hiện chương trình dự án thuộc các nguồn vốn.
- Tổ chức phân tích kinh tế, lựu chọn biện pháp tín dụng tối ưu; tìm kiếm, khai
thác, tiếp cận để phát triển khách hàng mới; thẩm định và đề xuất cho vay dự án.
- Xây dựng và thực hiện các mô hình tín dụng thí điểm, theo dõi, đánh giá và đề
xuất phương án khắc phục
* Phòng quản lý rủi ro
- Có chức năng nghiên cứu , phân tích, quản lý rủi ro bao gồm rủi ro chung (rủi
ro hệ thống, rủi ro thị trường..) và rủi ro riêng (rủi ro từng khách hàng, từng dự án..)
nhằm đảm bảo tín dụng và mở rộng hoạt động mộ cách an toàn và hiệu quả.
- Thu thập, quản lý, cung cấp thông tin phục vụ cho việc thẩm định và phòng
ngừa rủi ro tín dụng; tham mưu trong việc lựa chọn biện pháp cho vay an toàn, hiệu
quả.
*Phòng thanh toán quốc tế
- Xây dựng kế hoạch kinh doanh đối ngoại; triển khai xây dựng kế hoạch quý;
tổng kết công tác đối ngoại, phân tích, đề xuất phương án phát triển dịch vụ đối ngoại
- Tham mưu về quản trị, điều hành lãi suất, xây dựng biểu phí dịch vụ kinh

doanh đối ngoại hợp lý, đảm bảo khuyến khích khách hàng và cạnh tranh được với
các TCTD khác.
Sinh viên: Nguyễn Thanh Hà TCDN 48B
Giám đốc
Phòng
Kiểm
tra -
kiểm
soát nội
bộ
Phòng
Kế toán
kho quỹ
Phòng
hành
chính
nhân sự
Phòng
nguồn
vốn
Phòng
thanh
toán
quốc tế
Phòng
khách
hàng
doanh
nghiệp
Phòng

quản lý
rủi ro
Trung
tâm thẻ

×