Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.98 MB, 90 trang )

BÔ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGÀNH LUẬT KINH TẾ
HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI BỊ CẤM THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

HOÀNG MINH NGHIỆP

HÀ NỘI – 2021


BÔ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI BỊ CẤM THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

HOÀNG MINH NGHIỆP

NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI – 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ này là cơng trình nghiên cứu của riêng


tơi. Các số liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn trích dẫn đầy đủ và trung
thực. Kết quả nêu trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.

Hà Nội, ngày 15 tháng 01 năm 2021
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Minh Nghiệp


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Mở Hà
Nội, và Khoa Luật trường Đại học Mở Hà nội cùng các thầy cô giáo, những
người đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt q trình học tập.
Tơi xin trân trọng cảm ơn TS. Bùi Ngọc Cường đã trực tiếp hướng dẫn
khoa học và giúp đỡ tơi trong q trình nghiên cứu, hồn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 01 năm 2021
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Minh Nghiệp


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

QCTM

: Quảng cáo thương mại

LTM


: Luật Thương mại

LQC

: Luật Quảng cáo

LĐĐ

: Luật Đất đai

BCT

: Bộ Công thương

BTTTT

: Bộ Thông tin và Truyền thông


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1
Tính cấp thiết của đề tài
2
Tình hình nghiên cứu đề tài
3
Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu.
4
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

5
Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6
Những đóng góp về khoa học của luận văn
CHƯƠNG 1.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢNG CÁO
THƯƠNG MẠI BỊ CẤM VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG
CÁO THƯƠNG MẠI BỊ CẤM
1.1.
Tổng quan về quảng cáo thương mại
1.1.1.
Quảng cáo
1.1.2.
Quảng cáo thương mại
1.1.3.
Vai trò của quảng cáo thương mại
1.1.4.
Phân loại quảng cáo thương mại
1.2.
Khái quát về quảng cáo thương mại bị cấm
1.2.1.
Quan niệm về quảng cáo thương mại bị cấm
1.2.2.
Các loại hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm
1.3.
Pháp luật về quảng cáo thương mại bị cấm
1.3.1
Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với quảng
cáo thương mại bị cấm
1.3.2

Hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt quảng cáo động
thương mại bị cấm
1.3.3
Pháp luật về quảng cáo thương mại bị cấm của một số nước
và gợi mở cho việt nam
CHƯƠNG 2.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO
THƯƠNG MẠI BỊ CẤM Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.
Những quy định Pháp luật về hoạt động quảng cáo
thương mại bị cấm
2.1.1.
Quảng cáo làm tiết lộ bí mật Nhà nước, phương hại đến độc
lập, chủ quyền, an ninh quốc gia và trật tự xã hội
2.1.2.
Quảng cáo có sử dụng sản phẩm quảng cáo, phương tiện
quảng cáo trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức,
thuần phong mỹ tục Việt nam và trái với quy định pháp luật
2.1.3.
Quảng cáo hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước cấm kinh doanh,
hạn chế kinh doanh hoặc cấm quảng cáo

1
1
2
3
3
4
4
5


5
5
7
11
14
16
16
17
19
19
22
23
31
31
31
32

34


2.1.4.

2.1.5.
2.1.6.

2.1.7.

2.1.8.


2.1.9.
2.2.
CHƯƠNG 3
3.1.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.

Quảng cáo thuốc lá, rượu có độ cồn từ 15 độ trở lên và các
sản phẩm, hàng hóa chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa
được phép cung ứng trên thị trường Việt Nam tại thời điểm
quảng cáo
Lợi dụng quảng cáo thương mại gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, tổ chức, cá nhân
Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp
hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cùng loại
của thương nhân khác
Quảng cáo sai sự thật về một trong các nội dung số lượng,
chất lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, xuất xứ hàng hóa,
chủng loại, bao bì, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành
của hàng hóa, dịch vụ
Quảng cáo cho hoạt động kinh doanh của mình bằng cách sử
dụng sản phẩm quảng cáo vi phạm quyền sở hữu trí tuệ; sử
dụng hình ảnh của tổ chức, cá nhân khác để quảng cáo khi
chưa được tổ chức, cá nhân đó đồng ý
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định
của pháp luật
Đánh giá khái quát về hoạt động quảng cáo thương mại
bị cấm ở nước ta trong thời gian qua
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG

CÁO THƯƠNG MẠI BỊ CẤM Ở VIỆT NAM
Các tiêu chí hồn thiện pháp luật về quảng cáo thương
mại và quảng cáo thương mại bị cấm
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về quảng
cáo thương mại bị cấm
Giải pháp chung
Kiến nghị cụ thể đối với một số quảng cáo thương mại bị
cấm
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

38

39
40

41

44

46
48
61
61
63
63
70
75
76



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nhờ có sự tiến bộ của khoa học
công nghệ đặc biệt là lĩnh vực truyền thông, các thương nhân đã tiến hành các
hoạt động xúc tiến thương mại thông qua hoạt động quảng cáo nhằm giới thiệu
sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của mình đến người tiêu dùng.
Hiếm có một doanh nghiệp nào lại bỏ qua kế hoạch tiếp thị sản phẩm
thông qua quảng cáo. Trong những năm gần đây, quảng cáo thực sự đã trở nên
gần gũi với người dân Việt Nam. Nó len lỏi vào khắp nơi khắp chốn, xuất hiện ở
bất kỳ nơi đâu, miễn là có thể thu hút được người tiêu dùng. Chính vì vậy, hoạt
động quảng cáo trở nên cần thiết và sôi động hơn lúc nào hết.
Quy định pháp luật về Quảng cáo đã được ban hành và áp dụng từ lâu,
thông qua các quy định của Luật Thương mại và Luật Quảng cáo, tuy nhiên
trong quá trình thực hiện cịn nhiều vướng mắc. Trong đó có các quy định về
quảng cáo thương mại bị cấm là vơ cùng cần thiết. Nó khơng chỉ đưa ra một
giới hạn cụ thể đối với các hoạt động quảng cáo thương mại mà hơn hết, qua đó
có thể bảo đảm được quyền lợi của các thương nhân, của người tiêu dùng, của
Nhà nước và xã hội. Vì vậy việc nghiên cứu các quy định pháp luật về quảng
cáo thương mại bị cấm có ý nghĩa quan trọng cả về phương diện lý luận cũng
như thực tiễn pháp lý ở nước ta hiện nay. Sự cần thiết đó càng trở nên cấp thiết
hơn trong bối cảnh nền kinh tế nước ta đang trong quá trình đổi mới và phát
triển và đang trên đà hội nhập với kinh tế thế giới.
Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về các hoạt động quảng cáo
thương mại bị cấm một cách sâu sắc, có hệ thống nhằm phát hiện những hạn
chế, bất cập của các quy định pháp luật, từ đó tìm kiếm giải pháp hồn thiện
pháp luật về lĩnh vực này, góp phần tạo dựng một môi trường cạnh tranh thương
mại công bằng, lành mạnh cho hoạt động quảng cáo. Đồng thời, việc nghiên cứu

còn giúp nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật trong lĩnh vực hoạt động quảng
cáo thương mại nói riêng và hoạt động thương mại nói chung. Từ nhận thức đó,


2

tác giả đã lựa chọn đề tài “Hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm theo pháp
luật Việt Nam” làm đề tài luận văn cao học .
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian gần đây, vấn đề quảng cáo và pháp luật về quảng cáo
thương mại đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà quản
lý…Cho tới nay đã có một số cơng trình nghiên cứu, bài viết của một số tác giả
có liên quan đến vấn đề quảng cáo và pháp luật quảng cáo được công bố, cụ thể
như:
- “ Pháp luật về quảng cáo - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận
văn thạc sỹ luật học của Hà Thu Trang, bảo vệ năm 2009, trong luận văn tác giả
có đề cập đến quảng cáo bị cấm với tư cách là một nội dung của pháp luật quảng
cáo.
- “ Pháp luật về quảng cáo ở Việt Nam – Hiện trạng và phương hướng
hoàn thiện” của Đinh Văn Nhiên, bảo vệ năm 2015, trong đó tác giả có đề cập
đến các hoạt động quảng cáo bị cấm như là một nội dung của pháp luật quảng
cáo.
- “ Pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam” của Trịnh Liên Hương, bảo vệ năm 2010, trong luận văn
tác giả có đề cập đến quảng cáo thương mại bị cấm nhằm đảm bảo cạnh tranh
lành mạnh trong hoạt động quảng cáo thương mại ở nước ta.
- “ Pháp luật quảng cáo với vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” của
Đào Tuyết Vân, bảo vệ năm 2009, trong luận văn tác giả cũng đề cập đến quảng
cáo thương mại bị cấm với ý nghĩa để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- “ Giáo trình Luật Thương mại tập 2” của trường Đại học Luật Hà Nội

xuất bản năm 2009 trong đó có đề cập đến quảng cáo với ý nghĩa là một hoạt
động xúc tiến thương mại…
Tuy nhiên nghiên cứu độc lập, chuyên sâu và có hệ thống về pháp luật
quảng cáo thương mại bị cấm thì đây là cơng trình độc lập của tác giả.
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu


3

Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm để ngăn ngừa và hạn chế những
tiêu cực có thể nảy sinh trong hoạt động quảng cáo thương mại, cũng như đảm
bảo quảng cáo thương mại thực hiện được cả chức năng thương mại lẫn chức
năng thông tin hỗ trợ bảo vệ người tiêu dùng, việc xây dựng một hành lang pháp
lý với những quy định chặt chẽ, cụ thể là vô cùng cần thiết. Đặc biệt, chỉ pháp
luật về quảng cáo thơi là khơng đủ, mà nhất thiết phải có sự điều chỉnh của pháp
luật thương mại nói chung và pháp luật chun ngành về các loại hàng hóa.
Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
được xác định cụ thể là:
- Nghiên cứu, xây dựng hệ thống lý luận về quảng cáo thương mại cũng
như quảng cáo thương mại bị cấm ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng áp dụng các quy định về quảng cáo thương mại bị
cấm trên thực tế, từ đó phân tích các nguyên nhân chủ quan, khách quan của
thực trạng trên.
- Từ thực trạng pháp luật, luậ văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quảng cáo thương mại bị cấm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là những học thuyết pháp lý cơ
bản về quảng cáo có liên quan tới các hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm.
Những học thuyết này là nền tảng lý luận để từ đó, luận văn triển khai nghiên
cứu cụ thể các quy định của Luật Thương mại 2005, Luật Quảng cáo 2018 về

các hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm
Phạm vi nghiên cứu, luận văn chủ yếu nghiên cứu các quy về quảng cáo
thương mại được quy định ở Luật Quảng cáo và Luật Thương mại, về không
gian, luận văn nghiên cứu trên phạm vi cả nước về hoạt động quảng cáo. Về thời
gian luận văn liên hệ thực tiễn quảng cáo thương mại năm năm trở lại đây
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận
Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về


4

phát triển kinh tế thị trường và tự do hóa thương mại. Quan điểm kế thừa và phát
triển khoa học lý luận trong nghiên cứu luật học.
Trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp nghiên cứu trên
được vận dụng linh hoạt trong từng chương với từng nhiệm vụ cụ thể. Chương 1
luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử so sánh, phương pháp phân tích
luật học để xây dựng khung lý luận về hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm.
Tại chương 2, luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích, thống kê, khảo
sát thực tiễn để phân tích thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn thi hành pháp
luật về hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm ở Việt Nam. Chương 3 luận văn
sử dụng chủ yếu phương pháp hệ thống để xây dựng các giải pháp hoàn thiện
pháp luật về quảng cáo thương mại bị cấm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quảng cáo thương mại bị cấm và
pháp luật về quảng cáo thương mại bị cấm
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quảng cáo thương mại bị cấm ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quảng cáo thương mại bị

cấm ở Việt Nam


5

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI BỊ CẤM
VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI BỊ CẤM
1.1. Tổng quan về quảng cáo thương mại
1.1.1. Quảng cáo
Từ khi con người chuyển sang nền sản xuất hàng hóa, hàng hóa khơng chỉ
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt mà cịn dùng để trao đổi thì lồi người đã thấy được
tầm quan trọng của thơng tin về hàng hóa, dịch vụ của mình tới người có nhu
cầu và ngược lại. Xuất phát từ một khái niệm gốc trong tiếng Latinh “
adverture” có nghĩa là sự chú ý, sự thu hút lịng người. Dưới góc độ ngơn ngữ
học, quảng cáo có nghĩa là truyền một lượng thơng tin nhất định một cách rộng
rãi trong công chúng. Việc đưa thông tin rộng rãi tới công chúng không chỉ
nhằm thông báo mà nó cịn là cơng việc cần thiết nhằm đáp ứng những mục tiêu
nhất định mà người đưa quảng cáo hướng tới.
Với sự phát triển của kinh tế, xã hội đặc biệt là sự phát triển của công
nghệ, hoạt động quảng cáo ngày càng phát triển, có mặt trong mọi mặt cuộc
sống, ứng dụng phát triển công nghệ cao của thời đại cách mạng công nghiệp
4.0. Từ phương thức cổ xưa nhất là truyền miệng cho đến phương thức quảng
cáo tân tiến hơn như tờ rơi, báo in, phương thức phát thanh, truyền hình và đang
tiến đến các phương thức hiện đại như là truyền thông vệ tinh, thông tin trực
tuyến, tham gia các sự kiện văn hóa-thể thao..v.v. Từ chỗ chỉ mang tính tự phát,
chủ yếu phục vụ cho nhu cầu đơn lẻ, quảng cáo đã dần phát triển thành một hoạt
động kinh tế xã hội, một ngành nghề kinh doanh mang lại lợi nhuận, phục vụ
nhu cầu của đông đảo các cá nhân, tổ chức.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về quảng cáo, điều này xuất phát từ tính chất

kinh tế xã hội của quảng cáo nên được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Dịch theo chiết tự Hán Việt thì quảng cáo có nghĩa là báo cho biết (cáo)


6

một cách rộng rãi (quảng) đến nhiều người1.
Từ “quảng cáo” xuất phát từ tiếng La tinh là “adventure”, có nghĩa là sự
thu hút lòng người, gây sự chú ý và gợi dẫn. Có những ý kiến dí dỏm thì cho
rằng, quảng cáo là luồng gió thổi cho máy xay gió kinh tế chạy được, hoặc văn
vẻ hơn thì cho rằng đây là đóa hoa của thời đại.v.v...2.
Theo Robert Leduc thì quảng cáo là “tất cả những phương tiện thông tin
và thuyết phục quần chúng mua một món hàng hay dịch vụ”.
Cịn theo Armand Dayan thì “quảng cáo là một phương thức tun truyền,
nó thơng qua những phương tiện trung gian nhất định để truyền đạt một cách có
kế hoạch cho mọi người kiến thức về hàng hóa và tình hình phục vụ của loại
hàng hóa đó nhằm mở rộng tiêu thụ bán hàng, tạo dư luận”3.
Tại Việt Nam, khái niệm quảng cáo được quy tại luật quảng cáo năm
2018. Theo đó thì “Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu
đến cơng chúng sản phẩm,hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm
dịch vụ khơng có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ được giới thiệu, trừ tin tức thời sự; chính sách xã hội; thơng
tin cá nhân”. (Điều 2 khoản 1)
Như vậy, dưới các góc độ tiếp cận khác nhau thì chúng ta có thể đưa ra
được nhiều khái niệm về quảng cáo với những sắc thái khơng giống nhau. Tuy
nhiên, các khái niệm này ít nhiều đều đã thể hiện được các đặc điểm của quảng
cáo. Đó là:
♦ Quảng cáo mang tính thơng tin một chiều xuất phát từ người có nhu cầu
quảng cáo. Do đó, trong hoạt động quảng cáo ln tồn tại những hành vi lợi
dụng quảng cáo để thông tin sai sự thật tới người tiêu dùng.

♦ Trong hoạt động quảng cáo, thương nhân luôn sử dụng các phương tiện
quảng cáo để thông tin tới người tiêu dùng. Với sự phát triển của công nghệ, các
phương tiện này ngày càng đa dạng, ứng dụng mạng thơng tin tồn cầu Internet.
Từ điển Hán Việt trực tuyến, />Từ điển Hán Việt trực tuyến, />3
Trần Dũng Hải, Pháp luật thương mại về hoạt động quảng cáo và khuyến mại. Luận
văn Thạc sỹ luật học, 2004; tr.6
1
2


7

♦ Quảng cáo mang tính đại chúng, rộng rãi, hướng tới số lượng đông đảo
người tiêu dùng. Quảng cáo hướng tới toàn thể mọi người nhằm mục tiêu định
hướng của nhà quảng cáo. Mục đích của quảng cáo là đưa các thơng tin đến với
mọi người nên việc càng có nhiều người tiếp xúc với thơng tin đó là điều mà nhà
quảng cáo mong muốn.
♦ Quảng cáo là những hoạt động thương mại mang tính hỗ trợ. Khi thực
hiện quảng cáo, các thương nhân không thu được lợi nhuận ngay mà cịn phải trả
một khoản chi phí để thực hiện hoạt động quảng cáo. Tuy nhiên, khi các thông
tin quảng cáo đến với được người tiêu dùng, những thông tin này tác động tới
thói quen sử dụng hàng hóa của người tiêu dùng và thơng qua đó, thương nhân
thu được lợi nhuận.
1.1.2. Quảng cáo thương mại
Hoạt động quảng cáo thương mại chỉ là một bộ phận của hoạt động quảng
cáo nói chung với những đặc điểm riêng biệt để nhận diện, phân biệt với các
hoạt động quảng cáo khác. Do đó, để tìm hiểu khái niệm quảng cáo thương mại,
cần phải phân tích khái niệm quảng cáo theo nghĩa chung. Quy định như vậy là
hợp lý vì bản chất của hoạt động quảng cáo thương mại cũng mang tính thơng
tin quảng bá tới người tiêu dùng, nhưng được thực hiện và phục vụ lợi ích cho

một nhóm chủ thể đặc biệt, đó là thương nhân.
Các quốc gia thuộc liên minh châu Âu cũng có những quy định liên quan
đến quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo so sánh, quảng cáo được hiểu là “đưa
ra sự tuyên bố dưới bất kỳ hình thức nào liên quan đến hoạt động thương mại,
kinh doanh, nghề thủ công, nghề chuyên nghiệp nhằm xúc tiến việc cung cấp
hàng hóa, dịch vụ; bao gồm cả bất động sản, quyền và nghĩa vụ” (Điều 1 chỉ thỉ
84/450/EEC ngày 10/9/1984).
Như vậy, qua các định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy rằng với tính chất
là một thuật ngữ pháp lý, “quảng cáo” được pháp luật các nước điều chỉnh là
hoạt động ln chứa đựng mục đích lợi nhuận, giới thiệu thông tin nhằm xúc
tiến việc bán, cung cấp hàng hóa dịch vụ.


8

Pháp luật hiện hành của Việt Nam có sự khơng đồng nhất trong khái niệm
quảng cáo và quảng cáo thương mại như đa số pháp luật các nước trên thế giới.
Dịch theo chiết tự Hán Việt thì quảng cáo có nghĩa là báo cho biết (cáo)
một cách rộng rãi (quảng) đến nhiều người.
Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp đưa ra hai khái
niệm “quảng cáo” và “quảng cáo thương mại”. Theo đó thì “quảng cáo” được
hiểu là “hoạt động giới thiệu đến người tiêu dùng về hoạt động kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ, bao gồm dịch vụ có mục đích sinh lời và dịch vụ khơng có mục
đích sinh lời nhằm tạo ra sự hấp dẫn và kích thích người tiêu dùng, thu hút
người tiêu dùng quan tâm đến sản phẩm của mình”. Còn “quảng cáo thương
mại” được hiểu là “hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm giới
thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ”4.
Luật quảng cáo năm 2018 đề cập đến quảng cáo nói chung trong đó có
quảng cáo vì mục đích sinh lợi và quảng cáo khơng có mục đích sinh lợi.
Cịn theo Luật Thương mại năm 2005 thì “Quảng cáo thương mại là hoạt

động xúc tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt
động kinh doanh hàng hóa của mình” (Điều 102).
Như vậy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam đang tồn tại hình thái quảng
cáo khơng có mục đích sinh lời - “quảng cáo phi thương mại” và quảng cáo có
mục đích sinh lời - “quảng cáo thương mại”. Nói cách khác, theo pháp luật Việt
Nam, quảng cáo thương mại chỉ là một bộ phận trong quảng cáo nói chung.
Quảng cáo thương mại ngồi những đặc điểm chung vốn có của hoạt động
quảng cáo thì cịn có các đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất, quảng cáo thương mại là một hoạt động thương mại.
Luật Thương mại 2005 quy định quảng cáo thương mại là hoạt động
thương mại do thương nhân thực hiện hoặc thuê dịch vụ quảng cáo từ thương
nhân khác. Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại - một trong
những hoạt động điển hình của hoạt động thương mại, theo quy định tại Luật
Trung tâm thông tin khoa học – Viện nghiên cứu lập pháp (2011) “ Quảng cáo- thực
trạng và giải pháp”, Thông tin chuyên đề (10); tr.635
4


9

Thương mại 2005: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh
lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại
và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” (khoản 1 điều 3).
Tuy nhiên cần phải hiểu bản chất của hoạt động quảng cáo là hoạt động
thương mại mang tính hỗ trợ, không tạo ra lợi nhuận trực tiếp mà có tác dụng
khuyến khích tiêu dùng đối với hàng hóa, dịch vụ của thương nhân.
Thứ hai, quảng cáo thương mại là hoạt động thương mại do thương nhân
tiến hành
Theo pháp luật của nước Pháp thì thương nhân là người thực hiện hành vi
thương mại và lấy đó là nghề nghiệp thường xun, cịn theo pháp luật Hoa Kỳ thì

thương nhân là người có kiến thức, kỹ năng thương mại và hành nghề chuyên nghiệp.
Luật Thương mại Việt Nam 2005 đã đưa ra khái niệm thương nhân, theo
đó thì: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạt động một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”
(Điều 6).
Từ khái niệm trên, chúng ta có thể thấy các nhà lập pháp đã xác định tư
cách thương nhân dựa trên hai tiêu chí: hoạt động một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng kí kinh doanh. Tính độc lập và thường xuyên của thương nhân
khơng được quy định cụ thể nhưng có thể hiểu là thương nhân đó nhân danh
chính mình khi hoạt động, tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình, hoạt
động một cách thường xuyên, liên tục và mang tính nghề nghiệp. Tại Việt Nam,
tiêu chí có đăng ký kinh doanh là một tiêu chí mang tính hình thức quan trọng
trong việc xác định tư cách thương nhân. Pháp luật của nhiều quốc gia trên thế
giới cũng có quy định tương tự về đăng ký kinh doanh, đây vừa là biện pháp bảo
đảm quản lý nhà nước, vừa là biện pháp thừa nhận tư cách thương nhân.
Thứ ba, quảng cáo thương mại là hoạt động nhằm giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ để xúc tiến thương mại
Xuất phát từ bản chất là một hoạt động xúc tiến thương mại, mục đích
hướng đến của thương nhân khi tiến hành hoạt động quảng cáo thương mại là
việc thu lợi nhuận thông qua việc truyền tải, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ đến


10

đơng đảo người tiêu dùng. Như vậy, mục đích trực tiếp của quảng cáo thương
mại là giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ để xúc tiến thương mại. Mục đích gián
tiếp hay sâu xa của quảng cáo thương mại là đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và mục
tiêu lợi nhuận của thương nhân.
Thứ tư, cách thức xúc tiến thương mại của quảng cáo thương mại là việc
thương nhân phải sử dụng sản phẩm quảng cáo và phương tiện quảng cáo.

Các sản phẩm quảng cáo ngày nay rất đa dạng, không chỉ là các sản phẩm
quảng cáo truyền thống như tờ rơi, áp phích… mà cịn bao gồm cả các chương
trình văn hóa thể thao sự kiện v.v..5
Việc lựa chọn phương tiện quảng cáo để truyền đạt sản phẩm quảng cáo
phụ thuộc vào thương nhân. Để tiến hành hoạt động quảng cáo để xúc tiến
thương mại, thương nhân có thể tự mình thực hiện hoặc thuê các thương nhân
kinh doanh dịch vụ quảng cáo. Nếu như thuê thương nhân khác thì phải trả một
khoản chi phí gọi là chi phí quảng cáo.
1.1.3. Vai trò của hoạt động quảng cáo thương mại
Trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, càng ngày quảng cáo
thương mại càng giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội. Vai
trò của quảng cáo thương mại được thể hiện dưới ba góc độ sau:
- Đối với thương nhân.
- Đối với người tiêu dùng.
- Đối với nền kinh tế.
(i) Đối với thương nhân
Với mục đích giới thiệu thơng tin về hoạt động kinh doanh, cũng như sự
phát triển của công nghệ, trong các hoạt động xúc tiến thương mại, hoạt động
quảng cáo thương mại đang được các nhà kinh doanh sử dụng một cách tối ưu
nhằm thực hiện xúc tiến thương mại cho mình. Chính vì vậy, các thương nhân
áp dụng các biện pháp quảng cáo nhằm đưa càng nhiều hình ảnh về thơng tin,
cơng dụng của hàng hóa, dịch vụ mà mình cung cấp tới người tiêu dùng. Những
Đinh Văn Nhiên, Pháp luật về Quảng cáo ở Việt Nam hiện trạng và phương hướng
hoàn thiện, Luận văn thạc sỹ luật học, Viện Đại học mở Hà Nội, 2015; tr.124
5


11

hoạt động này có tác dụng tới doanh số bán hàng, khả năng kiếm lời, đảm bảo

lợi nhuận của thương nhân. Hay nói cách khác, khi mà sự cạnh tranh trong
thương mại ngày một khốc liệt như này thì việc giới thiệu thông tin và gây được
sự chú ý về hàng hóa dịch vụ đến người tiêu dùng là một trong những yếu tố
quyết định sự thành công trong kinh doanh.
Với các hoạt động xúc tiến thương mại khác, quảng cáo thương mại đã
chứng minh là một trong những giải pháp hiệu quả, được thương nhân nhà kinh
doanh áp dụng trong mọi chu kỳ của sản phẩm khi đưa ra thị trường. Từ lúc
chuẩn bị sản xuất, tung sản phẩm ra thị trường đến thúc đẩy doanh số bán hàng,
quảng cáo ln đóng vai trị quan trọng.
Hiện nay, với sự phát triển của kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh
trong kinh doanh đã khiến các chiến lược kinh doanh của thương nhân phát
triển, phù hợp với xu thế chung. Trong đó quảng cáo là hoạt động xúc tiến
thương mại luôn được sử dụng một cách tối ưu. Không một chiến lược phát triển
sản phẩm nào của nhà kinh doanh mà không sử dụng hoạt động quảng cáo. Thực
tế đã chứng minh dù sản phẩm, dịch vụ của thương nhân, nhà kinh doanh có tốt
đến đâu mà thơng tin khơng được giới thiệu với người tiêu dùng thì các sản
phẩm, dịch vụ đó khó có thể thành cơng, hoặc để thành cơng được cần rất nhiều
thời gian.
Có thể nói rằng, xuất phát từ bản chất truyền tin của mình nên quảng cáo
có chức năng cơ bản là giới thiệu thơng tin về sản phẩm từ thương nhân đến
khách hàng. Sử dụng quảng cáo, thương nhân có thể áp dụng trong mọi giai
đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh.
(ii) Đối với người tiêu dùng
Đối với người tiêu dùng, vai trò đầu tiên mà quảng cáo thương mại mang
lại đó là đem đến những thơng tin về hàng hóa, sản phẩm dịch vụ. Vai trò cầu
nối này cũng giống như dưới góc độ các thương nhân. Tuy nhiên đối với khách
hàng hay người tiêu dùng, vai trò của quảng cáo thương mại không chỉ dừng lại
ở việc thông báo, giới thiệu đến họ những thơng tin về những hàng hóa dịch vụ



12

mà còn mang tới cho họ sự lựa chọn và quyết định mua hay sử dụng hàng hóa,
dịch vụ đó hay khơng6.
Thực tế, đóng vai trị của người tiêu dùng, người tiêu dùng luôn muốn
được biết rõ nhất về thông tin hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ mà họ cần. Hoạt
động quảng cáo có thể đáp ứng nhu cầu này của người tiêu dùng và cịn có thể
giúp cho người tiêu dùng biết đến nhãn hiệu, tính năng, cơng dụng, giá cả, địa
điểm mua bán của các loại hàng hóa, dịch vụ. Từ đó, người tiêu dùng có thể
quyết định lựa chọn sử dụng hay khơng sử dụng hàng hóa dịch vụ đó. Việc
người tiêu dùng tiếp cận được với các hoạt động quảng cáo không chỉ mang lại
cho họ các thơng tin về hàng hóa dịch vụ thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng mà còn
mang lại cho họ cơ hội tìm kiếm được các hàng hóa dịch vụ đáp ứng tốt nhất
nhu cầu tiêu dùng.
Người tiêu dùng, một khi đã sử hàng hóa, dịch vụ đều mong muốn được
sử dụng loại hàng hóa, dịch vụ tốt nhất với giá cả phù hợp nhất. Hoạt động
quảng cáo hàng hóa, dịch vụ sẽ đáp ứng nhu cầu được thông tin về hàng hóa,
dịch vụ của người tiêu dùng, đảm bảo cho họ có sự lựa chọn sản phẩm một cách
tốt nhất.
Ngày nay, nhờ có các phương tiện truyền thơng mà sự tiếp cận với thông
tin của con người càng trở nên dễ dàng, nhu cầu được thơng tin về hàng hóa,
dịch vụ cũng vì thế mà tăng lên, người tiêu dùng càng ngày càng tham gia một
cách chủ động trong việc lựa chọn và sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Bên cạnh đó,
hoạt động quảng cáo hàng hóa, dịch vụ cũng giúp cho đội ngũ cán bộ chuyên
ngành nắm bắt được thơng tin về các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ một cách
nhanh chóng và chính xác, giúp cho cơng việc tư vấn, hỗ trợ người dùng đạt
được hiệu quả cao
Người tiêu dùng thông qua quảng cáo đã tiếp cận được với các thơng tin
về hàng hóa dịch vụ, đem đến cho họ sự lựa chọn và quyết định tiêu dùng hàng
hóa dịch vụ đó.

(iii) Đối với nền kinh tế
6

Từ điển Luật học của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp; tr.22


13

Lịch sử của chủ nghĩa tiêu dùng xuất phát từ Hoa Kỳ đã cho thấy vai trị
khơng thể thiếu của quảng cáo trong việc kích thích tiêu dùng, gia tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp nói riêng và trong sự phát triển của nền kinh tế nói
chung. Chúng ta khơng thể phủ nhận vai trò to lớn của hoạt động quảng cáo đối
với nền kinh tế, đặc biệt là trong giai đoạn cạnh tranh thương mại mạnh mẽ như
hiện nay.
Quảng cáo thương mại cũng như các hoạt động xúc tiến thương mại
khác, đóng vai trị là cầu nối giữa người bán hàng với người mua, giữa người
sản xuất với người tiêu dùng. Với vai trị đó, quảng cáo đã góp phần thúc đẩy
lưu thơng và tiêu thụ các hàng hóa dịch vụ trên thị trường.
Thông qua quảng cáo, doanh thu của nhà kinh doanh tăng lên, tích tụ vốn
để có thể đầu tư mới hoặc tái đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng mẫu
mã, kiểu cách, nâng cao chất lượng các sản phẩm của mình. Quảng cáo giúp cho
khách hàng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của mình, kích thích việc tiêu dùng
của họ và gián tiếp thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao tính cạnh
tranh và tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế.
Quảng cáo hàng hóa, dịch vụ cũng như quảng cáo thương mại nói chung,
nếu phát triển tốt sẽ thúc đẩy nền kinh tế của đất nước phát triển, đem lại cơ hội
việc làm cũng như thu nhập cho nhiều người và hạn chế các tệ nạn xã hội. Thêm
nữa, sự phát triển của ngành quảng cáo cũng sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của
ngành truyền thông, thông tin, nâng cấp chất lượng phục vụ cũng như giúp cho
ngành truyền thông làm việc chuyên nghiệp hơn.

Riêng hoạt động quảng cáo hàng hóa, dịch vụ, nếu được thực hiện đúng
đắn, trên cơ sở sử dụng hàng hóa, dịch vụ hợp lý, an tồn và hiệu quả sẽ góp
phần khơng nhỏ trong cơng cuộc chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng đời
sống của người dân. Ngoài ra, quảng cáo hàng hóa, dịch vụ cịn giúp quảng bá,
đưa các sản phẩm trong nước ra thế giới, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
1.1.4. Phân loại quảng cáo thương mại
Trải qua bề dày lịch sử phát triển của mình, hoạt động quảng cáo thương
mại thực sự đa dạng về hình thức và phương tiện truyền tải. Có nhiều tiêu chí


14

khác nhau để phân loại các hoạt động quảng cáo
(i) Căn cứ vào mục đích của quảng cáo thương mại
Dựa vào mục đích của quảng cáo thương mại, chúng ta có thể chia quảng
cáo thương mại thành:
Quảng cáo ban đầu: là hình thức quảng cáo với mục đích chính là kêu
gọi, thu hút sự quan tâm của khách hàng đối với hàng hóa dịch vụ được quảng
cáo. Đây là hình thức quảng cáo được áp dụng đối với các sản phẩm mới, cần
thu hút và gây sự tò mò của người tiêu dùng đối với sản phẩm.
Quảng cáo cạnh tranh: là hình thức quảng cáo nhằm mục đích chính là
cạnh tranh với các sản phẩm của thương nhân khác. Hình thức quảng cáo này
được áp dụng đối với các sản phẩm cạnh tranh với thương nhân khác, nhằm thúc
đẩy việc bán hàng, tăng doanh thu và chiếm lĩnh thị phần.
Quảng cáo củng cố: mục đích chính của hình thức quảng cáo này là củng
cố và duy trì lịng trung thành của khách hàng đối với sản phẩm. Các sản phẩm
này là các sản phẩm đã có mặt trên thị trường và đã đạt được doanh thu ở mức
cao nhất.
(ii) Căn cứ vào nội dung của quảng cáo thương mại
Quảng cáo thương nhân (hay còn gọi là quảng cáo tổ chức) là hình thức

quảng cáo mà nội dung của nó là giới thiệu cho khách hàng những thông tin về
thương nhân. Những thông tin này bao gồm mục tiêu phát triển, tôn chỉ, phương
hướng hoạt động, đối tượng khách hàng tiềm năng, hoặc cũng có thể là đề cao
các thế mạnh, các thành tựu đã đạt được của thương nhân. Như vậy, nội dung đề
cập ở đây của quảng cáo không phải là những thông tin về các loại sản phẩm cụ
thể, khơng có trực tiếp kêu gọi hành động mua hàng hóa dịch vụ mà là thơng tin
về chính thương nhân. Mục đích của quảng cáo thương nhân là quảng bá được
tên tuổi, thương hiệu, nâng cao uy tín và tầm vóc của thương nhân, qua đó gián
tiếp thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho công việc kinh doanh của mình.
Quảng cáo sản phẩm là hình thức quảng cáo thương mại với nội dung đề
cập là hàng hóa dịch vụ. Khác với quảng cáo thương nhân, quảng cáo sản phẩm


15

đem đến cho khách hàng những thông tin về loại hàng hóa dịch vụ cụ thể, qua
đó kêu gọi trực tiếp khách hàng sử dụng hàng hóa dịch vụ đó.
(iii) Căn cứ vào tính hợp pháp của quảng cáo thương mại
Ngoài ra, cũng như mọi hoạt động xúc tiến thương mại khác, hoạt động
quảng cáo được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật nhằm chống cạnh tranh
không lành mạnh, ảnh hưởng tới quyền lợi của người tiêu dùng. Do đó, dựa vào
tiêu chí tính hợp pháp của hoạt động quảng cáo thương mại thì chúng ta có thể
chia quảng cáo thương mại thành quảng cáo thương mại hợp pháp và quảng cáo
thương mại bị cấm. Tùy thuộc vào hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia mà quy
định về tính hợp pháp có tính chất và mức độ khác nhau.
Quảng cáo thương mại hợp pháp là hoạt động quảng cáo thương mại
được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật về chủ thể tiến hành, điều kiện,
thủ tục, cách thức, nội dung và được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho nhà quảng cáo.
Quảng cáo thương mại bị cấm là hoạt động quảng cáo không được pháp

luật cho phép thực hiện bao gồm: Sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ khơng được
phép quảng cáo và các hành vi bị cấm trong hoạt động quảng cáo.
Nội dung của luận văn nghiên cứu trọng tâm về các hoạt động quảng cáo
thương mại bị cấm cũng như thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về
quảng cáo thương mại bị cấm hiện nay.
1.2. Khái quát về quảng cáo thương mại bị cấm
1.2.1. Quan niệm về quảng cáo thương mại bị cấm
Tự do kinh doanh trong đó có tự do quảng cáo cho hoạt động thương mại
của mình là quyền cơ bản của thương nhân, họ có quyền thực hiện tất cả các
hoạt động kinh doanh mà pháp luật khơng cấm. Với quyền tự do kinh doanh của
mình, thương nhân chủ động tìm kiếm cơ hội kinh doanh với nhiều cách thức
khác nhau trong đó có hoạt động quảng cáo nhằm xúc tiến thương mại. Hoạt
động quảng cáo được xem như là một trong những nội dung của quyền tự do
kinh doanh của thương nhân. Quyền này được ghi nhận đối với quảng cáo
thương mại bao gồm hai quyền năng cơ bản, đó là:


16

+ Thương nhân được sử dụng các cách thức khác nhau để thu hút sự chú
ý, quan tâm của người tiêu dùng đến sản phẩm, dịch vụ của mình.
+ Quyền khai thác các dịch vụ quảng cáo để hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Tuy nhiên quyền tự do quảng cáo cũng phải được đặt trong mơi trường
kinh doanh có sự tồn tại của những lợi ích của xã hội, của người tiêu dùng hoặc
vì lý do an ninh, an tồn cho xã hội…Vì vậy bất cứ quốc gia nào cũng đặt ra
những giới hạn nhất định cho hoạt động quảng cáo thương mại của thương nhân.
Nói cách khác, Nhà nước thơng qua pháp luật quy định về hoạt động quảng cáo
thương mại bị cấm nhằm: bảo vệ bí mật quốc gia, độc lập chủ quyền, an ninh
quốc phòng; thuần phong mỹ tục, truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, an

tồn xã hội; đảm bảo cạnh tranh lành mạnh; bảo vệ các đối tượng dễ bị tổn
thương; bảo vệ quyền riêng tư cá nhân…
Quảng cáo thương mại bị cấm được hiểu là những hoạt động quảng cáo
thương mại bao gồm các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ và các hành vi quảng cáo
mà pháp luật không cho phép quảng cáo.
1.2.2. Các loại hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm
Các hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm mà các quốc gia đưa ra nhằm
bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ thuần phong mỹ
tục, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, bảo vệ môi trường cạnh tranh lành
mạnh, bảo vệ sức khỏe, môi trường… Luật thương mại năm 2005 đã quy định
các quảng cáo thương mại bị cấm.
Luật quảng cáo năm 2018 đã dựa vào các tiêu chí bảo vệ như đã nêu trên
để đưa ra các hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm một cách cụ thể hơn bao
gồm sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cấm quảng cáo và hành vi cấm trong hoạt
động quảng cáo.
(i) Đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cấm quảng cáo gồm
- Hàng hóa, dịch vụ bị cấm kinh doanh.
- Quảng cáo thuốc lá.
- Quảng cáo rượu có nồng độ cồn từ 15 độ trở lên.


17

- Sản phẩm sữa thay thế sữa mẹ dùng cho trẻ dưới 24 tháng tuổi, sản
phẩm dinh dưỡng bổ xung dùng cho trẻ dưới 06 tháng tuổi; bình bú và vú ngậm
nhân tạo.
Thuốc kê đơn. Thuốc không kê đơn nhưng được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khuyến cáo hạn chế sử dụng hoặc sử dụng có sự giám sát của thầy
thuốc.
Các loại sản phẩm , hàng hóa có tính chất kích dục.

Súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao và các loại sản phẩm, hàng hóa
có tính chất kích động bạo lực.
Các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ, cấm quảng cáo khác do Chính phủ quy
định khi có phát sinh trên thực tế.
(ii) Đối với hành vi cấm trong hoạt động quảng cáo bao gồm những
hành vi sau:
- Quảng cáo những sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ như đã nêu ở trên.
- Quảng cáo làm tiết lộ bí mật nhà nước, phương hại đến độc lập, chủ
quyền quốc gia, an ninh, quốc phòng.
- Quảng cáo thiếu thẩm mỹ, trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo
đức, thuần phong mỹ tục Việt nam.
- Quảng cáo làm ảnh hưởng đến mỹ quan đơ thị, trật tự an tồn giao
thơng, an tồn xã hội
- Quảng cáo gây ảnh hưởng xấu đến sự tôn nghiêm đối với Quốc kỳ, Quốc
huy, Quốc ca, Đảng kỳ, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, lãnh tụ, lãnh đạo
Đảng, Nhà nước.
- Quảng cáo có tính chất kỳ thị dân tộc, phân biệt chủng tộc, xâm phạm tự
do tín ngưỡng, tơn giáo, định kiến về giới, về người khuyết tật.
- Quảng cáo xúc phạm đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của tổ chức, cá
nhân.
- Quảng cáo có sử dụng hình ảnh, lời nói, chữ viết của cá nhân khi chưa
được cá nhân đó đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép.


18

- Quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn về khả năng kinh doanh, khả
năng cung cấp sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ; về số lượng, chất lượng, giá, cơng dụng, kiểu dáng,
bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại, phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành

của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đã đăng ký hoặc đã được công bố.
- Quảng cáo bằng việc so sánh trực tiếp về giá cả, chất lượng, hiệu quả sử
dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của mình với giá cả, chất lượng, hiệu quả sử
dụng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ cùng loại của tổ chức, cá nhân khác.
- Quảng cáo có sử dụng các từ ngữ “nhất”, “ duy nhất”, “ tốt nhất”, “ số
một” hoặc từ ngữ có ý nghĩa tương tự mà khơng có tài liệu hợp pháp chứng
minh theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của
pháp luật về cạnh tranh.
- Quảng cáo vi phạm pháp luật về sở hữu trí tuệ.
- Quảng cáo tạo cho trẻ em có suy nghĩ, lời nói, hành động trái với đạo
đức, thuần phong mỹ tục gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, an tồn hoặc sự phát
triển bình thường của trẻ em.
- Ép buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quảng cáo hoặc tiếp nhận
quảng cáo trái ý muốn.
- Treo, đặt, dán, vẽ các sản phẩm quảng cáo trên cột điện, trụ điện, cột tín
hiệu giao thơng và cây xanh nơi công cộng.
1.3. Pháp luật về quảng cáo thương mại bị cấm
1.3.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với quảng cáo
thương mại bị cấm
Bên cạnh vai trị tích cực của hoạt động quảng cáo đối với thương nhân,
nền kinh tế và xã hội, hoạt động quảng cáo thương mại cịn mang trong mình
những điểm tiêu cực.
Hoạt động quảng cáo tác động tới nhiều nhóm chủ thể trong xã hội. Nhóm
chủ thể chịu ảnh hưởng lớn nhất đó là người tiêu dùng. Tuy nhiên, khơng chỉ
người tiêu dùng, nhóm chủ thể cũng chịu ảnh hưởng đó là các đối thủ cạnh tranh


×