ĐÀO HẢI LÂM
KT33G
TÌM HIỂU
CÁC HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI BỊ CẤM
THEO LUẬT THƯƠNG MẠI 2005
Chuyên ngành: Luật Thương mại
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI VÀ
HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI BỊ CẤM 3
1.1. Khái quát chung về hoạt động quảng cáo thương mại 3
1.1.1. Khái niệm hoạt động quảng cáo thương mại 3
1.1.2. Đặc điểm hoạt động quảng cáo thương mại 7
1.1.3. Phân loại hoạt động quảng cáo thương mại 10
1.2. Khái niệm hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm 11
1.3. Sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động quảng cáo thương
mại bị cấm 13
1.3.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động
quảng cáo thương mại bị cấm 13
1.3.2. Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng
cáo thương mại bị cấm 18
CHƯƠNG II 20
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI BỊ CẤM 20
2.1. Quảng cáo làm tiết lộ bí mật Nhà nước, phương hại đến độc lập,
chủ quyền, an ninh quốc gia và trật tự xã hội 22
2.2. Quảng cáo có sử dụng sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng cáo
trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam
và trái với quy định pháp luật 23
2.3. Quảng cáo hàng hóa, dịch vụ mà Nhà nước cấm kinh doanh, hạn
chế kinh doanh hoặc cấm quảng cáo 25
2.4. Quảng cáo thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên và các sản
phẩm, hàng hóa chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng
trên thị trường Việt Nam tại thời điểm quảng cáo 26
2.5. Lợi dụng quảng cáo thương mại gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, tổ chức, cá nhân 28
2.6. Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cùng loại của thương nhân khác
29
2.7. Quảng cáo sai sự thật về một trong các nội dung số lượng, chất
lượng, giá, công dụng, kiểu dáng, xuất xứ hàng hóa, chủng loại, bao bì,
phương thức phục vụ, thời hạn bảo hành của hàng hóa, dịch vụ 31
2.8. Quảng cáo cho hoạt động kinh doanh của mình bằng cách sử dụng
sản phẩm quảng cáo vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, sử dụng hình ảnh của tổ
chức, cá nhân khác để quảng cáo khi chưa được tổ chức, cá nhân đó đồng ý 34
2.9. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của
pháp luật 35
CHƯƠNG III 37
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
THƯƠNG MẠI VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI BỊ CẤM. 37
3.1. Định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật thương mại về
hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm 37
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động quảng
cáo thương mại bị cấm 40
3.2.1. Thống nhất sự điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động quảng
cáo và quảng cáo thương mại 40
3.2.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật đối với một số hoạt động
quảng cáo thương mại bị cấm 42
3.2.3. Hoàn thiện các quy định về xử phạt trong lĩnh vực quảng cáo
thương mại nói chung và quảng cáo thương mại bị cấm nói riêng 47
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm 47
3.3.1. Nâng cao ý thức pháp luật 47
3.3.2. Tăng cường sự quản lý của Nhà nước 49
3.3.3. Tăng cường phát huy vai trò của Hiệp hội quảng cáo 51
KẾT LUẬN 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO 54
1 Khóa luận tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Cùng với sự phát triển của xã hội, qua các thời kỳ, quảng cáo ngày càng
đa dạng về các hình thức và hiện đại hơn về cách thức lẫn phương tiện truyền
tải. Trước đây, quảng cáo chỉ mang tính tự phát, chủ yếu phục vụ cho nhu cầu
đơn lẻ, ngày nay, quảng cáo đã dần phát triển thành một hoạt động kinh tế xã
hội, một ngành nghề kinh doanh mang lại lợi nhuận, phục vụ nhu cầu của đông
đảo các cá nhân, tổ chức. Trước đây, phương thức quảng cáo phổ biến nhất là
truyền miệng thì ngày nay, phương thức quảng cáo đã đa dạng và tân tiến hơn
như tờ rơi, báo in, phương thức phát thanh, truyền hình thậm chí đang tiến đến
các phương thức hiện đại như truyền thông vệ tinh, thông tin trực tuyến
2. Mục đích nghiên cứu
Một là, nghiên cứu những vấn đề lý luận về các nguyên tắc và quyền cơ
bản tại nơi làm việc.
Hai là, khảo sát việc chuyển hóa và thực thi các Công ước cơ bản của
ILO ở Việt Nam, qua đó, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về các nguyên
tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc.
Ba là, đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của các nguyên
tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc đối với kinh tế, xã hội Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nhằm nghiên cứu việc chuyển hóa và thực thi các Công ước cơ
bản của ILO về các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, khóa luận chủ yếu dựa trên cơ sở
phương pháp luận của triết học Mác – Lênin, lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật. Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng một số phương pháp không thể thiếu
trong nghiên cứu khoa học pháp lý như: phương pháp logic; phương pháp phân
tích, tổng hợp; phương pháp đối chiếu, so sánh; phương pháp khảo cứu thực
tiễn… Các phương pháp này được sử dụng đan xen để có thể xem xét một cách
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
2 Khóa luận tốt nghiệp
toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn.
5. Bố cục khóa luận
Khóa luận gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Nội dung của khóa luận được chia thành ba chương:
Chương I: Các nguyên tắc và quyền cơ bản tại nơi làm việc theo các công ước
của tổ chức lao động quốc tế (ILO)
Chương II: Thực tiễn thực hiện các Công ước của ILO về các nguyên tắc và
quyền cơ bản tại nơi làm việc ở Việt Nam
Chương III: Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện các nguyên tắc và
quyền cơ bản tại nơi làm việc ở Việt Nam
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
3 Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI VÀ
HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI BỊ CẤM
1.1. Khái quát chung về hoạt động quảng cáo thương mại
1.1.1. Khái niệm hoạt động quảng cáo thương mại
Ở Việt Nam, vào giữa những năm 90 của thế kỷ XX, cùng với đường lối
của Đảng, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có
sự quản lý của Nhà nước, quảng cáo thương mại bắt đầu có mặt trên các trang
báo, tạp chí, trong các chương trình phát thanh, truyền hình, nguồn kinh phí từ
quảng cáo dần dần tăng lên, đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với các cơ
quan truyền thông đại chúng ở nước ta [27 tr.158]. Xuất phát từ tính chất kinh tế
xã hội của quảng cáo, quảng cáo được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau,
với nhiều định nghĩa khác nhau.
Quảng cáo theo nghĩa Hán Việt tức là báo cho biết (cáo) một cách rộng
rãi (quảng) đến nhiều người [36].
Trong tiếng La tinh, “quảng cáo” được dịch là “adventure”, có nghĩa là sự
thu hút lòng người, gây sự chú ý và gợi dẫn. Thuật ngữ này được sử dụng trong
tiếng Anh là “advertise”, có nghĩa là gây sự chú ý cho người khác, thông báo
cho người khác về sự kiện nào đó [16; tr.l51].
Theo Hiệp hội Quảng cáo Hoa Kỳ (AMA) thì “Quảng cáo là hoạt động
truyền bá thông tin, trong đó nói rõ ý đồ của chủ quảng cáo, tuyên truyền hàng
hóa dịch vụ của chủ quảng cáo trên cơ sở có thu phí quảng cáo, không trực tiếp
nhằm công kích người khác” [27].
Theo tài liệu Kinh doanh quảng cáo ở Anh: “Quảng cáo là thông điệp
được chi trả phí bởi người gửi chúng đi, có mục đích và thông tin gây ảnh
hưởng trên người nhận chúng”.
Còn tại Việt Nam, khái niệm quảng cáo được quy định tại Pháp lệnh
Quảng cáo 2001. Theo đó thì “Quảng cáo là giới thiệu đến người tiêu dùng về
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
4 Khóa luận tốt nghiệp
hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ, bao gồm dịch vụ có mục đích sinh lời
và dịch vụ không có mục đích sinh lời” (Điều 4).
Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về quảng cáo, tuy nhiên, các khái
niệm này ít nhiều đều đã thể hiện các đặc điểm cơ bản của quảng cáo. Đó là:
Quảng cáo không dành cho một cá nhân đơn lẻ mà quảng cáo dành cho số
đông, quảng cáo mang tính đại chúng. Hoạt động quảng cáo có tính định hướng
sự lựa chọn hàng hóa, dịch vụ của người tiêu dùng, do đó, mục đích của quảng
cáo là đưa các thông tin đến với càng nhiều người càng tốt cho sự kinh doanh
của nhà cung cấp dịch vụ. Tất cả mọi người đều tiếp xúc với thông tin mà nhà
cung cấp hàng hóa, dịch vụ đưa ra chính là điều mà nhà quảng cáo mong muốn.
Quảng cáo là sự truyền tin một chiều, mang tính đơn phương xuất phát từ
người cung cấp thông tin đến những đối tượng, chủ yếu là người tiêu dùng.
Quảng cáo phải thực hiện thông qua các phương tiện trung gian. Để
truyền tải các thông tin đến đối tượng, nhà quảng cáo phải sử dụng các phương
tiện truyền tải như báo chí, băng rôn, tờ rơi, phát thanh, truyền hình… nhằm
đảm bảo thông tin được truyền tải đúng dụng ý của nhà quảng cáo và thông tin
lan rộng nhất có thể.
Đa số pháp luật các nước trên thế giới đều không đưa ra khái niệm quảng
cáo thương mại mà chỉ đề cập đến khái niệm quảng cáo. Sở dĩ như vậy là vì mặc
dù quảng cáo bao gồm cả quảng cáo không mang tính thương mại, nhưng đặc
trưng của quảng cáo ngày nay là gắn liền với lợi nhuận, với thương nhân, mang
tính thương mại và trở thành một trong những hoạt động thương mại điển hình.
Theo Chỉ thị số 84/450/EEC ngày 10/9/1984 của Hội đồng và Nghị viện
Châu Âu liên quan đến quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo so sánh, quảng
cáo được hiểu là “đưa ra sự tuyên bố dưới bất kỳ hình thức nào liên quan đến
hoạt động thương mại, kinh doanh, nghề thủ công, nghề chuyên nghiệp nhằm
xúc tiến việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ; bao gồm cả bất động sản, quyền và
nghĩa vụ” (Điều 1). Chỉ thị số 97/360 CE của Hội đồng và Nghị viện Châu Âu
cũng nêu rõ: “Quảng cáo không bao gồm các thông tin do cơ quan phát thanh
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
5 Khóa luận tốt nghiệp
phát có liên quan tới chương trình của cơ quan và các sản phẩm phụ trực tiếp
của các chương trình này; các thông tin về dịch vụ công cộng và các lời kêu gọi
cho việc làm từ thiện miễn phí” (Điều 18).
Luật quảng cáo của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 27-10-1994 (có
hiệu lực từ ngày 01-2-1995) quy định tại Điều 2: “Quảng cáo” được hiểu là một
quảng cáo mang tính thương mại mà người cung cấp hàng hóa, dịch vụ giới
thiệu cho hàng hóa dịch vụ của mình, cho dù là trực tiếp hay gián tiếp, thông
qua các hình thức thông tin công cộng”; “người quảng cáo được hiểu là một tư
cách pháp nhân, dù là tổ chức kinh tế hay pháp nhân mà mục đích của họ là
bán các mặt hàng, dịch vụ thiết kế, sản xuất hay xuất bản thuộc lĩnh vực quảng
cáo”.
Ở Hoa Kỳ, hoạt động quảng cáo được điều chỉnh bởi rất nhiều quy định
pháp luật của các bang và liên bang. Luật Lanham 15 U.S.C, một văn bản quan
trọng trong số đó, có nội dung quy định quảng cáo: “bao gồm phát ngôn thương
mại mà một người cạnh tranh sử dụng thể hiện mục đích gây ảnh hưởng tới
người tiêu dung để mua hàng hóa hay dịch vụ của mình”. Cơ quan liên bang có
thẩm quyền điều tiết hoạt động quảng cáo là Hội đồng thương mại liên bang.
Luật về quảng cáo và khuyến mại của Anh, Luật quảng cáo của Xingapo,
Luật quảng cáo của Philippin… đều có nội dung quy định các vấn đề liên quan
đến quảng cáo thương mại.
Như vậy, luật pháp nhiều nước trên thế giới coi quảng cáo không phải là
một hoạt động thông tin đơn thuần mà là một hoạt động thông tin mang tính
thương mại. Bản thân khái niệm “quảng cáo” khi được sử dụng trong pháp luật
của các nước đã có ý nghĩa là “quảng cáo thương mại”, vì nó được thực hiện bởi
thương nhân và có nội dung quảng cáo về hàng hóa, dịch vụ của thương nhân.
Các điều ước quốc tế song phương và đa phương cũng ghi nhận quảng cáo là
một hoạt động thương mại và đưa vào nội dung đàm phán. Như vậy có thể thấy
luật pháp của hầu hết các nước đều coi quảng cáo là hoạt động thương mại,
“quảng cáo” được đồng nghĩa với “quảng cáo thương mại” và không hình thành
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
6 Khóa luận tốt nghiệp
khái niệm “quảng cáo phi thương mại” [43 tr.35].
Pháp luật hiện hành của Việt Nam có sự không đồng nhất trong khái niệm
quảng cáo và quảng cáo thương mại như đa số pháp luật các nước trên thế giới.
Từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp đưa ra hai khái
niệm “quảng cáo” và “quảng cáo thương mại”. Theo đó thì “quảng cáo” đước
hiểu là “hoạt động giới thiệu đến người tiêu dùng về hoạt động kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ, bao gồm dịch vụ có mục đích sinh lời và dịch vụ không có
mục đích sinh lời nhằm tạo ra sự hấp dẫn và kích thích người tiêu dùng thu hút
người tiêu dùng quan tâm đến sản phẩm của mình”. Còn “quảng cáo thương
mại” được hiểu là “hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm giới
thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ” [22; tr.635]
Tuy nhiên, theo Đại Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và văn
hóa Việt Nam thì quảng cáo được hiểu là: “tuyên truyền, giới thiệu bằng nhiều
hình thức về hàng hóa, dịch vụ hay về hãng kinh doanh những hàng hóa đó
nhằm hấp dẫn và thuyết phục người mua để đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hóa”
[14] và theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ thì quảng cáo là: “trình bày
để giới thiệu rộng rãi cho nhiều người biết nhằm tranh thủ được nhiều khách
hàng” [15]. Như vậy, quảng cáo theo nghĩa thông dụng nhất, thường được hiểu
là quảng cáo thương mại.
Luật Thương mại năm 2005 thì “Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc
tiến thương mại của thương nhân để giới thiệu với khách hàng về hoạt động
kinh doanh hàng hóa của mình” (Điều 102).
Tuy nhiên, theo Pháp lệnh quảng cáo năm 2001 định nghĩa “Quảng cáo
là giới thiệu đến người tiêu dùng về hoạt động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ,
bao gồm dịch vụ có mục đích sinh lời và dịch vụ không có mục đích sinh lời.
Dịch vụ có mục đích sinh lời là dịch vụ nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức, cá
nhân cung ứng dịch vụ. Dịch vụ không có mục đích sinh lời là dịch vụ không
nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ” (Điều 4).
Như vậy, có thể hiểu đối tượng của hoạt động quảng cáo có thể là hoạt
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
7 Khóa luận tốt nghiệp
động kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có khả năng mang lại lợi nhuận cho tổ chức,
cá nhân hoặc các dịch vụ, thông tin nhằm thực hiện một mục tiêu chính trị, văn
hóa, xã hội. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu quảng cáo có thể là thương nhân hoặc
không phải thương nhân. Nói cách khác, theo quy định của pháp luật Việt Nam,
quảng cáo gồm hai loại: quảng cáo không có mục đích sinh lời - “quảng cáo phi
thương mại” và quảng cáo có mục đích sinh lời - “quảng cáo thương mại”. Nói
cách khác, quảng cáo thương mại hay còn gọi là quảng cáo có mục đích sinh lời,
chỉ là một bộ phận trong quảng cáo nói chung.
1.1.2. Đặc điểm hoạt động quảng cáo thương mại
Quảng cáo thương mại ngoài những đặc điểm chung vốn có của hoạt động
quảng cáo thì còn có các đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất, quảng cáo thương mại trước hết là một hoạt động thương mại.
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị cũng như truyền thống lịch sử,
văn hóa ở mỗi nước là khác nhau, pháp luật quy định về hành vi thương mại
cũng có những nét khác biệt. Ở Đức, việc quy định một hành vi có được coi là
hành vi thương mại hay không phụ thuộc vào chủ thể thực hiện hành vi đó có
phải là thương nhân hay không. Như vậy, để xác định một hành vi là hành
thương mại, pháp luật Đức căn cứ vào yếu tố chủ thể. Khác với nước Đức, pháp
luật của Pháp không đưa ra một định nghĩa chung thống nhất về hành vi thương
mại mà liệt kê ra các hành vi thương mại cụ thể làm cơ sở phân biệt. Luật
thương mại Việt Nam 2005 tuy không đưa ra định nghĩa cụ thể thế nào là hành
vi thương mại nhưng đã nêu khái niệm cụ thể về hoạt động thương mại. Khoản
1, điều 3 luật Thương Mại Việt Nam 2005 quy định: hoạt động thương mại là
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Hành vi thương mại hiểu theo nghĩa rộng hơn luôn gắn liền với hoạt động
thương mại. Như vậy, có thể hiểu hành vi thương mại là hành vi của thương
nhân được thực hiện trong hoạt động thương mại nhằm mưu cầu lợi nhuận.
Theo pháp luật Việt Nam, quảng cáo thương mại là một hoạt động thương
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
8 Khóa luận tốt nghiệp
mại, điều này được thể hiện ngay trong khái niệm quảng cáo thương mại mà
Luật Thương mại 2005 đã quy định. Quảng cáo cũng như các hoạt động xúc tiến
thương mại khác đều là hoạt động thương mại mang tính bổ trợ, không tạo ra lợi
nhuận trực tiếp (trừ thương nhân kinh doanh ngành nghề quảng cáo) mà có tác
dụng khuyến khích tiêu dùng đối với hàng hóa, dịch vụ của thương nhân.
Thứ hai, quảng cáo thương mại là hoạt động thương mại do thương nhân
tiến hành
Theo pháp luật Hoa Kỳ, thương nhân là người có kiến thức, kỹ năng
thương mại và hành nghề chuyên nghiệp. Còn theo Điều 1 Bộ luật thương mại
Pháp năm 1807 thì: “thương nhân là người thực hiện hành vi thương mại và lấy
đó làm nghề nghiệp thường xuyên của mình”.
Khái niệm thương nhân theo Luật Thương mại Việt Nam 2005 có nhiều
nét khác biệt so với khái niệm thương nhân trong pháp luật Hoa Kỳ và Pháp:
“Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp cá nhân hoạt
động một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” (Điều 6).
Có thể thấy, qua khái niệm thương nhân, pháp luật Việt Nam đã đưa ra
bốn tiêu chí khá rõ ràng để xác định tư cách thương nhân: i) Thương nhân phải
thực hiện các hoạt động thương mại; ii) Thương nhân phải thực hiện các hoạt
động thương mại một cách độc lập; iii) Thương nhân phải thực hiện các hoạt
động thương mại một cách thường xuyên; và iv) Thương nhân phải đăng ký
kinh doanh.
Pháp luật các nước trên thế giới đều lấy dấu hiện “thực hiện hành vi
thương mại” làm tiêu chí để xác định khái niệm thương nhân (ví dụ Khoản 6
Điều 5 Luật thương mại Việt Nam 1997; Điều 121-1 Luật thương mại Cộng hòa
Pháp), tuy nhiên, tùy thuộc quan niệm theo nghĩa rộng hay hẹp mà việc xác định
số lượng chủ thể được coi là thương nhân ở mỗi nước có khác nhau. Thương
nhân phải hoạt động thương mại một cách độc lập, được hiểu là thương nhân
phải thực hiện hành vi thương mại mang danh nghĩa chính mình và vì lợi ích
bản thân mình. Tính thường xuyên của hoạt động thương mại cũng là một dấu
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
9 Khóa luận tốt nghiệp
hiệu pháp lý không thể thiếu để xác định tư cách thương nhân. Bên cạnh đó thì
tiêu chí có đăng ký kinh doanh là tiêu chí quan trọng trong việc xác định tư cách
thương nhân. Đây là sự xác nhận pháp lý của Nhà nước đối với chủ thể có tư
cách thương nhân. Tiêu chí này được pháp luật Việt Nam cũng như hầu hết pháp
luật các nước quy định là tiêu chí bắt buộc, xem đó là cơ sở pháp lý thừa nhận
sự bảo hộ cho các quyền lợi của thương nhân.
Thương nhân có thể tự tiến hành hoạt động quảng cáo cho sản phẩm của
mình hoặc thuê thương nhân khác thực hiện quảng cáo và trả chi phí dịch vụ.
Với tư cách là người kinh doanh, thương nhân thực hiện quảng cáo
thương mại để hỗ trợ cho các hoạt động kinh doanh của mình hoặc thực hiện
dịch vụ quảng cáo cho thương nhân khác theo hợp đồng. Đây là đặc điểm cho
phép phân biệt quảng cáo thương mại với các hoạt động thông tin, cổ động
nhằm tuyên truyền đường lối, chính sách. Với bản chất là một hoạt động thương
mại do thương nhân thực hiện, quảng cáo thương mại khác biệt với quảng cáo
nói chung, mặc dù chúng đều có chung đặc điểm là một quá trình thông tin.
Thứ ba, quảng cáo thương mại là hoạt động nhằm giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ để xúc tiến thương mại thông qua sản phẩm quảng cáo và phương tiện
quảng cáo.
Sản phẩm quảng cáo thương mại bao gồm những thông tin bằng hình ảnh,
hành động, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc… chứa đựng nội
dung quảng cáo thương mại. Sản phẩm quảng cáo thương mại chứa đựng cả nội
dung và hình thức quảng cáo thương mại [17; tr.123].
Phương tiện quảng cáo thương mại là các công cụ được sử dụng để giới
thiệu các sản phẩm quảng cáo thương mại, bao gồm tất cả những phương tiện có
khả năng truyền tải thông tin đến công chúng như: báo chí, xuất bản phẩm, các
loại băng rôn, áp phích, pa-nô… đặt nơi công cộng, truyền hình, các chương
trinh văn hóa thể thao sự kiện… [17; tr.124]
Mục đích trực tiếp của quảng cáo thương mại là giới tiệu về hàng hóa,
dịch vụ để xúc tiến thương mại, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh và mục tiêu lợi
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
10 Khóa luận tốt nghiệp
nhuận của thương nhân. Thông qua sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng
cáo, thương nhân có thể thu hút khách hàng qua việc nhấn mạnh lợi ích, đặc
điểm của sản phẩm (quảng cáo cạnh tranh) hoặc so sánh tính ưu việt của sản
phẩm so với sản phẩm khác cùng loại (quảng cáo so sánh).
1.1.3. Phân loại hoạt động quảng cáo thương mại
Quảng cáo thương mại được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau.
Căn cứ vào phương tiện quảng cáo
Phương tiện quảng cáo là các công cụ được sử dụng để truyền tải nội
dung của quảng cáo đến với khách hàng. Dựa vào tiêu chí này, chúng ta có các
loại quảng cáo thương mại sau:
Quảng cáo truyền thông: là các hoạt động quảng cáo sử dụng phương tiện
truyền thông đại chúng để truyền tải nội dung quảng cáo đến khách hàng. Bao
gồm: quảng cáo trên báo in, quảng cáo truyền thanh, quảng cáo truyền hình,
quảng cáo trên các trang tin điện tử.
Quảng cáo trên xuất bản phẩm: đây là hình thức quảng cáo sử dụng
phương tiện quảng cáo là các xuất bản phẩm như băng đĩa, tờ rơi, bưu thiếp, các
sản phẩm in, catalogue…
Quảng cáo tại chỗ: sử dụng các phương tiện quảng cáo thu hút sự chú ý
của khách hàng trong một phạm vi không gian nhất định xung quanh nơi đặt
phương tiện. Loại hình quảng cáo này bao gồm: quảng cáo ngoài trời thể hiện
trên biển, bảng, panô khổ lớn…; quảng cáo di động thể hiện trên các phương
tiện giao thông như xe bus, tàu hỏa…; quảng cáo trên các phương tiện bay,
phương tiện phát quang.
Quảng cáo thông qua sự kiện: thường diễn ra dưới hình thức thương nhân
tài trợ hoặc tự đứng ra tổ chức các sự kiện văn hóa thể thao, du lịch nhằm mục
đích quảng bá tên tuổi thương hiệu.
Căn cứ vào cách thức truyền tải quảng cáo thương mại
Quảng cáo là hoạt động truyền tải thông tin từ phía nhà quảng cáo đến
khách hàng. Dựa vào cách thức truyền tải những thông tin đó, chúng ta có thể
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
11 Khóa luận tốt nghiệp
chia quảng cáo thương mại thành:
Quảng cáo bằng lời nói là hình thức quảng cáo sử dụng lời nói, âm thanh
để chứa đựng các nội dung quảng cáo.
Quảng cáo bằng hình ảnh là hình thức quảng cáo sử dụng các hình ảnh,
màu sắc, biểu tượng… để đem đến cho khách hàng những thông tin về hàng
hóa, dịch vụ.
Quảng cáo hỗn hợp là hình thức quảng cáo kết hợp của cả hai hính thức
quảng cáo trên. Nhà quảng cáo sẽ sử dụng cả hình ảnh, màu sắc, chữ viết, biểu
tượng cũng như lời nói, âm thanh để chứa đựng nội dung quảng cáo.
Căn cứ vào tính hợp pháp của quảng cáo thương mại
Quảng cáo thương mại là hoạt động thương mại, được thương nhân tiến
hành trong khuôn khổ mà pháp luật đã định sẵn. Dựa vào tiêu chí tính hợp pháp
của hoạt động quảng cáo thương mại, có thể chia quảng cáo thương mại thành
quảng cáo thương mại hợp pháp và quảng cáo thương mại bị cấm.
Quảng cáo thương mại hợp pháp là hoạt động quảng cáo thương mại được
tiến hành theo đúng quy định của pháp luật về chủ thể tiến hành, điều kiện, thủ
tục, cách thức, nội dung và được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
nhà quảng cáo.
Quảng cáo thương mại bị cấm là hoạt động quảng cáo thương mại không
tuân thủ các quy định của pháp luật về quảng cáo và bị pháp luật về quảng cáo
nghiêm cấm thực hiện.
1.2. Khái niệm hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm
Quảng cáo là quyền tự do của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể sử
dụng mọi hình thức, biện pháp để quảng bá sản phẩm của mình. Nó có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp, nó mang lại cơ hội cho thương nhân
này nhưng cũng là thách thức cho thương nhân khác. Do đó, để đẩy mạnh sản
xuất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thì sự cạnh canh giữa các thương nhân là điều
không thể tránh khỏi. Giữa hoạt động quảng cáo thương mại và hành vi cạnh
tranh không lành mạnh chỉ là ranh giới mỏng manh rất khó nhận biết. Vì thế, để
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
12 Khóa luận tốt nghiệp
đảm bảo trật tự trong hoạt động quảng cáo thương mại, đảm bảo lợi ích của Nhà
nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng pháp luật quy định một số hành vi bị
cấm trong hoạt động quảng cáo thương mại. Trái với hoạt động quảng cáo lành
mạnh, hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm gây ảnh hưởng tiêu cực cho Nhà
nước, xã hội, cho thương nhân khác và cho người tiêu dùng. Có thể đưa ra một
định nghĩa về hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm như sau:
Quảng cáo thương mại bị cấm là hoạt động xúc tiến thương mại của
thương nhân không được pháp luật cho phép thực hiện do xâm phạm quyền và
lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội, của các cá nhân, tổ chức khác,
thông qua các hình thức thông tin công cộng để trực tiếp hoặc gián tiếp giới
thiệu với khách hàng về hoạt động kinh doanh hàng hóa của mình.
Từ khái niệm trên, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của quảng cáo
thương mại bị cấm ngoài những đặc điểm của quảng cáo thương mại:
Thứ nhất, quảng cáo thương mại bị cấm là hoạt động trái pháp luật.
Mặc dù cũng có mục đích xúc tiến thương mại và xét ở một góc độ nhất
định, quảng cáo thương mại bị cấm đem lại lợi ích cho thương nhân tiến hành
hoạt động quảng cáo, tuy nhiên, quảng cáo thương mại bị cấm là hoạt động trái
pháp luật. Việc cấm đoán của pháp luật đối với hoạt động này không phải vì
trình tự, thủ tục, hình thức của quảng cáo hay sản phẩm được quảng cáo vi phạm
các quy định của pháp luật mà là vì nội dung của quảng cáo thuộc các trường
hợp không được phép đưa thông tin.
Thứ hai, quảng cáo thương mại bị cấm xâm phạm đến quyền và lợi ích
của chủ thể khác.
Quảng cáo thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại, thúc đẩy quá
trình sản phẩm từ khâu sản xuất đến tay người tiêu dùng, đồng thời, kích thích
cạnh tranh giữa các thương nhân, qua đó, nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên,
quảng cáo thương mại bị cấm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của
các chủ thể, ví dụ như: xâm phạm bí mật quốc gia; đưa thông tin sai sự thật
khiến người tiêu dùng phải chịu hậu quả; chứa nội dung phản cảm, trái với đạo
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
13 Khóa luận tốt nghiệp
đức, truyền thống của dân tộc; hạ thấp sản phẩm cùng loại của thương nhân khác
để nhằm tiêu thụ sản phẩm của mình, nâng cao vị thế cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
trường. Như vậy, quảng cáo thương mại bị cấm gây ra tác động tiêu cực đối với
các chủ thể khác và nếu pháp luật không nghiêm cấm thì không thể tạo được
môi trường kinh doanh lành mạnh, không thể bảo đảm quyền và lợi ích của
người tiêu dùng, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng tới xã hội.
Thứ ba, quảng cáo thương mại bị cấm có mục đích tiêu cực.
Thương nhân tiến hành hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm là vì lợi
ích của bản thân mà sẵn sàng vi phạm lợi ích của chủ thể khác. Ví dụ, vì mục
đích chính trị, thương nhân tiết lộ bí mật quốc gia; vì mục đích cạnh tranh,
thương nhân tiến hành quảng cáo so sánh, quảng cáo sai sự thật về thương nhân
khác; vì mục đích tiêu thụ sản phẩm, thương nhân quảng cáo phóng đại để lôi
kéo khách hàng… tất cả những mục đích của thương nhân khi tiến hành hoạt
động quảng cáo thương mại bị cấm hoàn toàn không dung hòa lợi ích với các
thương nhân khác, với người tiêu dùng và với toàn xã hội.
1.3. Sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động quảng cáo thương mại
bị cấm
1.3.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động quảng
cáo thương mại bị cấm
Như đã phân tích, quảng cáo thương mại đóng vai trò vô cùng quan trọng
Đối với thương nhân, trong thời buổi cạnh tranh kinh tế “khốc liệt” và
thông tin bùng nổ như hiện nay thì việc xuất hiện đa dạng của các sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ về mẫu mã, chủng loại, chất lượng là điều không thể tránh
khỏi. Chính vì vậy, việc thông tin về hàng hóa dịch vụ của thương nhân tiếp xúc
và gây được ấn tượng tốt đối với người tiêu dùng sẽ quyết định rất lớn đến
doanh thu cho thương nhân từ hàng hóa dịch vụ đó. Với mục đích trực tiếp là
truyền tải, giới thiệu thông tin về hoạt động kinh doanh, hàng hóa dịch vụ, hoạt
động quảng cáo thương mại đã và đang là công cụ kinh doanh hữu hiệu được
các thương nhân sử dụng để xúc tiến thương mại. Do quảng cáo có tác động rất
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
14 Khóa luận tốt nghiệp
lớn đến hoạt động bán hàng, cung ứng dịch vụ nên thương nhân sử dụng quảng
cáo để khuyếch trương hàng hóa, dịch vụ của mình, tăng cường cơ hội thương
mại và cơ hội lợi nhuận.
Xu thế chung trong chiến lược kinh doanh của các thương nhân hiện nay
là ưu tiên sử dụng các hoạt động xúc tiến thương mại, trong đó quảng cáo
thương mại là hoạt động luôn được coi trọng. Và thực tế, hiếm có một chiến
lược phát triền kinh doanh của bất cứ một thương nhân nào lại thiếu đi hoạt
động xúc tiến thương mại, trong đó có quảng cáo thương mại. Nếu thương nhân
không làm tốt công việc giới thiệu thông tin và gây được ấn tượng tốt cho khách
hàng về sản phẩm của mình thì họ sẽ không khai thác được thị trường, thậm chí
rất dễ bị thương nhân khác chiếm lĩnh thị trường đó. Với hoạt động quảng cáo,
thương nhân đã giải quyết được bài toán về mục tiêu tiếp cận các khách hàng
tiềm năng với số lượng lớn và trên một phạm vi rộng.
Quảng cáo thương mại thực sự là một công cụ hữu hiệu, được áp dụng
vào các giai đoạn khác nhau của một vòng đời sản phẩm mà thương nhân đưa
vào thị trường, ở giai đoạn chuẩn bị và giới thiệu sản phẩm ra thị trường, quảng
cáo kêu gọi sự quan tâm của người tiêu dùng. Sang giai đoạn phát triển, gia
tăng, quảng cáo thúc đẩy việc bán hàng, gia tăng doanh số. Ở giai đoạn đỉnh cao,
khi doanh số bán sản phẩm đạt đến mức cao nhất và sự có mặt của sản phẩm trở
nên bão hòa thì quảng cáo đóng vai trò duy trì lòng trung thành của khách hàng
đối với sàn phẩm, kéo dài chu kỳ thành công của sản phẩm [19; tr.21].
Đối với người tiêu dùng, người tiêu dùng luôn có nhu cầu về các thông tin
đối với hàng hóa, dịch vụ mà họ cần và trong một chừng mực nhất định, quảng
cáo thương mại đã đáp ứng nhu cầu này. Quảng cáo giúp cho người tiêu dùng
biết đến nhãn hiệu, tính năng, công dụng, giá cả, địa điểm mua bán của các loại
hàng hóa, dịch vụ. Qua đó, mang đến cho người tiêu dùng sự lựa chọn và quyết
định mua hay sử dụng hàng hóa dịch vụ đó hay không. Như vậy, đối với người
tiêu dùng, vai trò đầu tiên mà quảng cáo thương mại mang lại đó là đem đến
những thông tin về hàng hóa, sản phẩm dịch vụ, nhưng không chỉ dừng lại ở đó,
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
15 Khóa luận tốt nghiệp
quảng cáo còn mang tới cho họ sự lựa chọn và quyết định mua hay sử dụng
hàng hóa, dịch vụ đó hay không [19; tr.22].
Trong mỗi sản phẩm quảng cáo, nhà quảng cáo luôn cố gắng đưa ra
những điểm đặc trưng, nổi bật nhất, độc đáo về sản phẩm của họ để khách hàng
nhận biết và lựa chọn. Các điểm đặc trưng này có thể phù hợp với nhu cầu tiêu
dùng của khách hàng và đưa họ đến quyết định sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Tuy
nhiên, cũng có thể khi tiếp cận với quảng cáo, khách hàng chưa có sẵn nhu cầu
tiêu dùng, nhưng thông qua sự thể hiện của quảng cáo mà họ phát sinh nhu cầu
đối với hàng hóa dịch vụ được quảng cáo. Từ đó cũng dẫn họ tới quyết định sử
dụng hàng hóa dịch vụ.
Như vậy, việc các nhà quảng cáo truyền tải các thông tin đặc trưng, độc
đáo, nổi bật về hàng hóa dịch vụ của mình trong quảng cáo đã góp phần định
hướng tiêu dùng đối với người tiêu dùng.
Đối với nền kinh tế, quảng cáo thương mại là một hình thức xúc tiến
thương mại, đóng vai trò là cầu nối giữa người bán hàng với người mua, giữa
người sản xuất với người tiêu dùng. Với vai trò câu nối thông tin của mình,
quảng cáo đã góp phần thúc đẩy lưu thông và tiêu thụ các hàng hóa dịch vụ trên
thị trường. Thông qua quảng cáo, các sản phẩm của thương nhân bán được cho
khách hàng nhiều hơn, thu được lợi nhuận lớn hơn. Từ đó, họ có nguồn vốn để
có thể đầu tư mới hoặc tái đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng mẫu mã,
kiểu cách, nâng cao chất lượng các sản phẩm của mình. Quảng cáo giúp cho
khách hàng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của mình, kích thích việc tiêu dùng
của họ và gián tiếp thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao tính cạnh
tranh và tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế. Lịch sử của ngành
quảng cáo đã chứng minh vai trò không thể thiếu của quảng cáo trong việc kích
thích lợi nhuận cho doanh nghiệp nói riêng và trong sự phát triển của nền kinh tế
nói chung.
Với vai trò xúc tiến thương mại, kích thích nhu cầu tiêu dùng các hàng
hóa sản phẩm, quảng cáo thực sự đã đóng góp không nhỏ trong việc nâng cao
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
16 Khóa luận tốt nghiệp
tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Đặc biệt, với sự hình thành nghề quảng cáo với
tư cách là một hoạt động thương mại độc lập đã góp phần không nhỏ trong việc
tạo ra thu nhập cho các thương nhân kinh doanh ngành nghề này. Bên cạnh đó là
việc giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận dân cư, tăng nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước.
Như vậy, với yếu tố kích thích tiêu dùng và kích thích sự cạnh tranh,
quảng cáo thương mại đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế
thị trường của quốc gia, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển như Việt
Nam.
Quảng cáo thương mại, cũng như các lĩnh vực khác, luôn có hai mặt của
vấn đề, khi xét đến tác động của quảng cáo thương mại, cần có cái nhìn toàn
diện, khách quan. Vai trò tích cực của quảng cáo thương mại đối với nền kinh tế,
với thương nhân và người tiêu dùng là không thể phủ nhận. Song, bên cạnh đó,
quảng cáo thương mại cũng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực. Các thương nhân
có thể thực hiện các hoạt động quảng cáo thương mại xâm phạm đến quyền lợi
người tiêu dùng, xâm phạm đến trật tự quán lý kinh tế, văn hóa hoặc lợi dụng
quảng cáo thương mại như một biện pháp để cạnh tranh không lành mạnh gây
thiệt hại cho các thương nhân khác. Mặt tiêu cực đó của quảng cáo thương mại
đòi hỏi sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật từ phía Nhà nước.
Quy định về các hoat động quảng cáo thương mại bị cấm là một trong
những nội dung quan trọng và mang tính tất yếu trong hệ thống pháp luật điều
chỉnh hoạt động quảng cáo thương mại.
Đối với thương nhân, những người mong muốn đông đảo khách hàng
nhận biết được các thông tin về sản phẩm của mình thì việc sử dụng quảng cáo
thực sự là một giải pháp hữu hiệu. Nguồn lợi gián tiếp mà quảng cáo mang lại
cho công việc kinh doanh của thương nhân là rất lớn. Vì vậy, các thương nhân
có thể sử dụng quảng cáo như một công cụ để cạnh tranh không lành mạnh, điển
hình nhất của hoạt động quảng cáo gây hại đến thương nhân khác là quảng cáo
so sánh trực tiếp, dèm pha, hạ thấp uy tín của thương nhân khác. Qua đó, định
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
17 Khóa luận tốt nghiệp
hướng tiêu dùng, khiến người tiêu dùng có cái nhìn xấu về sản phẩm cùng loại
của thương nhân khác, dẫn đến loại bỏ bớt đối thủ cạnh tranh, ngăn cản được sự
gia nhập thị trường của thương nhân mới, tăng cơ hội chiếm lĩnh thị trường.
Hành vi này đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các thương nhân
khác.
Đối với người tiêu dùng, là những người mong muốn được tiếp nhận
những thông tin chính xác, trung thực về các hàng hóa dịch vụ họ có nhu cầu sử
dụng. Tuy nhiên, bản chất của quảng cáo thương mại là sự truyền tin một chiều
của thương nhân nên các thông tin truyền tải của quảng cáo phụ thuộc rất nhiều
vào ý muốn chủ quan của họ. Những thông tin không có lợi cho thương nhân
hoàn toàn có thể bị lược bỏ, không đề cập đến hoặc đề cập với mức độ giảm
nhẹ, sơ sài. Điều đó khiến cho người tiêu dùng khó có thể tiếp cận được với
thông tin đầy đủ, chính xác và khách quan về sản phẩm. Ngoài ra, một bộ phận
không nhỏ người tiêu dùng thường ít tìm hiểu cặn kẽ các thông tin quảng cáo về
sản phẩm mà cho rằng sản phẩm được quảng cáo là sản phẩm tốt và an toàn.
Thực tế không hoàn toàn như vậy, chính tâm lý phó mặc trách nhiệm kiểm soát
thông tin quảng cáo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã tạo kẽ hở để
thương nhân đưa thông tin quảng cáo sai lệch, giấu giếm, gây hại đến lợi ích
người tiêu dùng.
Đối với xã hội, với tư cách là một hoạt động xúc tiến thương mại, mục
đích của quảng cáo thương mại là kích thích tiêu dùng, qua đó gián tiếp kích
thích nguồn cung và từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên bản
chất kích thích tiêu dùng của quảng cáo có thể dẫn tới tình trạng kích thích tiêu
dùng các hàng hóa dịch vụ mà việc đưa nó vào thị trường gây tác động xấu đối
với con người và xã hội, gây ảnh hưởng đến lợi ích của nhà nước. Hoặc thương
nhân quảng cáo đưa các thông tin sai lệch, gây mất trật tự an toàn xã hội; những
thông tin đi ngược lại với truyền thống văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân
tộc. Việc lợi dụng quảng cáo để cạnh tranh không lành mạnh có thể dẫn tới hậu
quả thương nhân độc quyền trong sản phẩm của mình và lũng đoạn thị trường.
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
18 Khóa luận tốt nghiệp
Việc quy định các hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm một cách rõ
ràng sẽ giảm thiểu được các hoạt động quảng cáo vi phạm, góp phần hoàn thiện
khung pháp lý cơ bản điểu chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
quảng cáo thương mại. Qua đó thúc đẩy các vai trò tích cực mà quảng cáo mang
lại đối với thương nhân, người tiêu dùng và đối với nền kinh tế.
Với mục đích và ý nghĩa quan trọng như vậy, hệ thống pháp luật điều
chỉnh về hoạt động quảng cáo cần xây dựng các quy định điều chỉnh hoạt động
quảng cáo thương mại bị Cấm một cách chặt chẽ, phù hợp với sự phát triển của
dân trí, của xã hội, bảo đảm một số tiêu chí cơ bản:
- pháp luật về quảng cáo thương mại bị cấm phải đảm bảo tính cạnh tranh
lành mạnh của thị trường, tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng, phát huy
được tính chủ động và sáng tạo cho các thương nhân.
- pháp luật về quảng cáo thương mại bị cấm phải đảm bảo được quyền lợi
của người tiêu dùng trong việc nhận biết được các thông tin chính xác, đầy đủ về
sản phẩm; bảo vệ kịp thời quyền lợi của họ khi tiếp cận với quảng cáo.
- pháp luật về quảng cáo thương mại bị cấm phải rõ ràng, chặt chẽ nhưng
thuận tiện cho việc áp dụng, kiểm soát được hoạt động quảng cáo; giảm thiểu,
ngăn ngừa và tiến tới xóa bỏ được các hành vi vi phạm; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của xã hội [23-tr.20].
1.3.2. Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo
thương mại bị cấm
Có thể chia hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động quảng cáo
thương mại bị cấm hiện nay tại Việt Nam thành hai nhóm:
Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo nói chung:
- Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001.
- Nghị định số 24/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
Pháp lệnh Quảng cáo.
- Thông tư số 43/2003/TT-BVHTT của Bộ Văn hóa- Thông tin hướng dẫn
thực hiện hoạt động quảng cáo; Thông tư số 79/2005/TT-BVHTT vê việc sửa
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
19 Khóa luận tốt nghiệp
đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư 43/2003/TT-BVHTT.
- Nghị định số 56/2006/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động văn hóa thông tin.
Các văn bản pháp luật quy định về quảng cáo thương mại:
- Luật Thương mại 2005 (từ Điều 102 đến Điều 116).
- Nghị định số 37/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt
động xúc tiến thương mại.
Đây là những văn bản pháp luật chứa đựng các quy phạm pháp luật chủ
yếu điều chỉnh các hoạt động quảng cáo nói chung trên lãnh thổ Việt Nam.
Ngoài ra, còn có các văn bản pháp lý mang tính chất chuyên ngành quy
định các điều kiện đối với hoạt động quảng cáo trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ
cụ thể và các văn bản liên quan khác. Đó là:
-Luật Cạnh tranh 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành
-Luật Bảo vệ người tiêu dùng
-Nghị đinh số 59/2006/NĐ - CP về hàng hóa dịch vụ cấm kinh doanh, hạn
chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện
Và rất nhiều văn bản khác điều chỉnh hoạt động quảng cáo đối với một số
loại sản phẩm đặc biệt như: thuốc là, rượu, chất cồn, thuốc, sản phẩm trẻ em…
Qua những nghiên cứu, phân tích về hoạt động quảng cáo thương mại bị
cấm, có thể rút ra một số kết luận sau:
i) Pháp luật Việt Nam chỉ liệt kê các hành vi quảng cáo thương mại bị
cấm mà chưa có định nghĩa chính thức;
ii) Có nhiều tiêu chí để phân loại hoạt động quảng cáo thương mại, đó là:
theo mục đích của quảng cáo, theo nội dung của quảng cáo, theo phưong tiện
quảng cáo, theo cách thức truyền tải và theo tính hợp pháp;
iii) Sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động quảng cáo thương mại
bị cấm là cần thiết để bảo đảm lợi ích Nhà nước, xã hội, người tiêu dùng và
thương nhân.
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
20 Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG II
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI BỊ CẤM
Hoạt động quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam trong thời gian qua phát
triền mạnh, đáp ứng nhu cầu thúc đẩy quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ, kích thích sự phát triển kinh tế xã hội. Quàng cáo thưong mại
thực sự đã phát triển mạnh mẽ về cả chiều rộng lẫn chiều sâu [27].
Theo thống kê, trên toàn quốc hiện có hơn 700 đầu báo và tạp chí của các
cơ quan báo chí, trong đó hơn 50 báo có phạm vi phát hành toàn quốc. về phát
thanh truyền hình thì bên cạnh Đài Tiếng nói Việt Nam và Đài Truyền hình Việt
Nam có phạm vi phủ sóng toàn quốc thì tại mỗi tinh thành đều có đài phát thanh
và truyền hình địa phương. Thêm vào đó là sự phát triên mới mẻ của truyền hình
cáp, truyền hình kỹ thuật số và sự phổ biến của loại hình báo điện tử đã tạo ra sự
đa dạng của các phương tiện thông tin truyền thông, qua đó góp phần tạo nên sự
đa sắc màu trong thực tiễn hoạt động quảng cáo tại Việt Nam [19; tr.80].
Về phía các thương nhân kinh doanh dịch vụ quảng cáo, toàn quốc hiện
có hơn 3000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo, trong đó có hơn
100 công ty hoạt động thường xuyên. Trong số đó thì phần lớn các doanh nghiệp
Việt Nam chỉ thực thi những công đoạn hết sức cụ thể hoặc thuần túy kỹ thuật
do còn có nhiều hạn chế về kỹ năng và kinh nghiệm hoạt động. Thêm vào đó là
thực trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty quảng cáo trong nước
dẫn tới giá cả dịch vụ sụt giảm đáng kể. Do đó, gần đây nhiều công ty quảng cáo
nội địa phải thu hẹp hoặc hủy bỏ dịch vụ media [33].
Để đảm bảo trật tự trong hoạt động quảng cáo thương mại, đảm bảo lợi
ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng pháp luật quy định một số
hành vi bị cấm trong hoạt động quảng cáo thương mại. Trái với hoạt động quảng
cáo lành mạnh, hoạt động quảng cáo thương mại bị cấm gây ảnh hưởng tiêu cực
cho Nhà nước, xã hội, cho thương nhân khác và cho người tiêu dùng.
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063
21 Khóa luận tốt nghiệp
Luật thương mại 2005 quy định các hoạt động quảng cáo thương mại bị
cấm bao gồm:
Điều 109. Các quảng cáo thương mại bị cấm
1. Quảng cáo làm tiết lộ bí mật nhà nước, phương hại đến độc lập, chủ
quyền, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội.
2. Quảng cáo có sử dụng sản phẩm quảng cáo, phương tiện quảng cáo
trái với truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam và
trái với quy định của pháp luật.
3. Quảng cáo hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước cấm kinh doanh, hạn chế
kinh doanh hoặc cấm quảng cáo.
4. Quảng cáo thuốc lá, rượu có độ cồn từ 30 độ trở lên và các sản phẩm,
hàng hoá chưa được phép lưu thông, dịch vụ chưa được phép cung ứng trên thị
trường Việt Nam tại thời điểm quảng cáo.
5. Lợi dụng quảng cáo thương mại gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, tổ chức, cá nhân.
6. Quảng cáo bằng việc sử dụng phương pháp so sánh trực tiếp hoạt
động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của mình với hoạt động sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cùng loại của thương nhân khác.
7. Quảng cáo sai sự thật về một trong các nội dung số lượng, chất lượng,
giá, công dụng, kiểu dáng, xuất xứ hàng hóa, chủng loại, bao bì, phương thức
phục vụ, thời hạn bảo hành của hàng hoá, dịch vụ.
8. Quảng cáo cho hoạt động kinh doanh của mình bằng cách sử dụng sản
phẩm quảng cáo vi phạm quyền sở hữu trí tuệ; sử dụng hình ảnh của tổ chức, cá
nhân khác để quảng cáo khi chưa được tổ chức, cá nhân đó đồng ý.
9. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của pháp
luật.
ĐÀO HẢI LÂM – KT33G063