Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO LỊCH sử ĐẢNG tập bài GIẢNG ĐƯỜNG lối và PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG của ĐẢNG TRONG CÁCH MẠNG dân tộc dân CHỦ NHÂN dân SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.85 KB, 103 trang )

MỤC LỤC
Chuyên đề 1

1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
1.5.

Chuyên đề 2
2.1.
2.2.
2.3.
Chuyên đề 3

3.1.
3.2.
3.3.
3.4

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN,
HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN
TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN
Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng thuộc
địa và cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt - Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng
Luận cương Chính trị (tháng 10 năm 1930) bổ sung,
phát triển Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Nghị quyết Trung ương 6, 7, 8 (năm 1939, năm 1940,
năm 1941) chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II năm 1951 của
Đảng phát triển, hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân
CÁC ĐẢNG PHÁI TRONG THỜI KỲ 1945-1946
Sự hình thành và ảnh hưởng của các đảng phái trong
thời kỳ 1945 – 1946
Hoàn cảnh lịch sử phải chấp nhận các đảng phái đối lập
và đối sách của ta
Một số kinh nghiệm từ trong thực hiện đa đảng thời kỳ
1945-1946
ĐẢNG LÃNH ĐẠO GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
RUỘNG ĐẤT TRONG CÁCH MẠNG DÂN TỘC
DÂN CHỦ NHÂN DÂN
Một số vấn đề chung về ruộng đất
Quan hệ ruộng đất và các hình thức bóc lột nhân dân trong
xã hội Việt Nam trước năm 1945
Chủ trương của Đảng về giải quyết vấn đề ruộng đất
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Một số nhận xét, đánh giá và kinh nghiệm về cải cách

Trang
5

5
7
9
14
17

22

22
29
31
35

35
40
44


Chuyên đề 4

cách ruộng đất

52

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN

49

CHỦ NHÂN DÂN TRONG ĐIỀU KIỆN MỚI
CỦA CÁCH MẠNG MIỀN NAM
4.1.

Hoàn cảnh lịch sử cách mạng miền Nam sau Hiệp định
Giơnevơ (1954)
4.2. Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam trong điều kiện mới

49


PHƯƠNG PHÁP PHÁT HUY SỨC MẠNH

87

Chuyên đề 5

66
71

TỔNG HỢP TRONG CÁCH MẠNG DÂN TỘC
DÂN CHỦ NHÂN DÂN
5.1. Một số vấn đề chung về phương pháp cách mạng
5.2. Quá trình hình thành, phát triển phương pháp phát huy
sức mạnh tổng hợp trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân
5.3. Vận dụng phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

87
90

101


Chun đề 1
Q TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN, HỒN CHỈNH
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN
MỤC TIÊU

- Về kiến thức: giúp người học nắm được quá trình phát triển nhận thức
và xác định đường lối cách mạng DTDCND của Đảng qua các thời kỳ lịch sử,
nhất là việc giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp được biểu hiện tập
trung trong xác định vị trí, vai trò, mối quan hệ chống đế quốc và chống
phong kiến trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
- Về kỹ năng: giúp học viên phát triển phương pháp tư duy khoa học
độc lập, nâng cao khả năng vận dụng, giải quyết các vấn đề về mối quan hệ
giữa mục tiêu, nguyên tắc chiến lược và chỉ đạo chiến lược, giữa nhiệm vụ
cơ bản với nhiệm vụ chủ yếu; vị trí, vai trị khác nhau của các giai cấp, tầng
lớp trong lực lượng cách mạng; lựa chọn phương pháp cách mạng phù hợp;
công tác xây dựng Đảng; mối quan hệ của cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới.
- Về tư tưởng: Qua nghiên cứu chuyên đề này, học viên khẳng định trí
tuệ, bản lĩnh của Đảng trong xác định đường lối CMDTDCND tuy cam go,
phức tạp, thậm chí thụt lùi tạm thời nhưng đường lối đúng đắn của Đảng là
cội nguồn của những thắng lợi trong CMDTDCND; qua đó củng cố niềm tin,
tích cực tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận chống những quan
điểm sai trái, thù địch, tích cực bảo vệ và xây dựng Đảng.
NỘI DUNG
1. Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng thuộc địa và cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
* Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng thuộc địa
Từ tháng 12 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin chuyển biến lập trường từ chủ nghĩa yêu nước chân chính sang lập
trường giai cấp vô sản và trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Từ
quá trình nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, khảo nghiệm các cuộc cách mạng
5


trên thế giới và thực tiễn cách mạng thuộc địa trên thế giới, Đơng Dương và
Việt Nam, Người đã hình thành những quan điểm về cách mạng thuộc địa.

Theo Người: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản. Vấn đề dân tộc phải kết kợp chặt với vấn đề
giai cấp của giai cấp công nhân, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã
hội. Cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng thuộc địa đều có tầm chiến
lược quan trọng ngang nhau, khơng thể coi nhẹ cuộc cách mạng này hay cuộc
cách mạng kia. Các dân tộc thuộc địa phải tự giải phóng mình, khơng ỷ lại, trơng
chờ ở lực lượng bên ngồi. Cách mạng một số nước thuộc địa có khả năng thắng
lợi trước cách mạng chính quốc, khơng những khơng lệ thuộc, chờ đợi vào cách
mạng chính quốc mà cịn tác động tích cực đến cách mạng vơ sản ở chính quốc.
Cách mạng ở các nước Đơng Dương có cùng hồn cảnh, quan hệ khăng khít với
nhau, mỗi dân tộc phải tự giải quyết vấn đề của dân tộc mình, phải thực hiện
quyền dân tộc tự quyết, phải phát huy tinh thần dân tộc của từng nước, nhưng
cần phải xây dựng khối đoàn kết chiến đấu giữa ba nước anh em. Những người
yêu nước chân chính cần phải tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin để trở thành người
cộng sản. Đạo đức cách mạng là cái gốc của người cách mạng. Trước hết phải
rèn luyện tư cách người cách mạng.
Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam
Ở Việt Nam, làm dân tộc cách mạng luôn gắn liền với làm giai cấp cách
mạng. Ách áp bức dân tộc là đế quốc Pháp, kẻ thù của cách mạng là thực dân
Pháp (kẻ thù của dân tộc và giai cấp là thực dân Pháp và các thế lực phong
kiến phản động).
Mục tiêu của cách mạng là đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh
phúc cho nhân dân. Quyền lợi của cách mạng phải đem lại cho dân chúng số
nhiều, chớ để trong tay bọn ít người, thế mới khỏi hy sinh làm cách mạng
nhiều lần, dân chúng mới được hạnh phúc.
Về lực lượng cách mạng: Công nông là gốc của cách mạng, là chủ cách
mạng, giai cấp cơng nhân phải giữ vai trị lãnh đạo cách mạng, cịn học trị,
nhà bn, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Sĩ, nông, công, thương,
phụ nữ, trẻ em đều tham gia cách mạng được, không phân biệt giai cấp, tuổi
6



tác. Do đó, phải làm cho nhân dân hiểu cách mạng là việc chung của cả dân
chúng, không phải việc của một hai người.
Về đoàn kết quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới, ai làm cách mạng trên thế giới đều là đồng chí của cách mạng Việt Nam.
Về phương thức hoạt động: Phải giác ngộ, tổ chức quần chúng giảng
giải lý luận và chủ nghĩa Mác - Lênin cho dân hiểu. Người cho rằng dân khí
mạnh thì súng ống nào cũng khơng chống lại nổi.
Về vai trò lãnh đạo của Đảng: Cách mạng phải có Đảng cách mạng
lãnh đạo để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc
với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng là nhân tố
quyết định thành công của cách mạng.
Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc về cách mạng thuộc địa, về cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam được Đảng ta kế thừa hoạch định
Cương lĩnh đầu tiên.
2. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt - Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Chánh
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt do
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh và Điều lệ đầu tiên của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh đã trình bày những nội dung cơ bản
nhất về con đường cách mạng Việt Nam, về đường lối “tư sản dân quyền cách
mạng” và “thổ địa cách mạng” ở Việt Nam.
Cương lĩnh xác định cách mạng Việt Nam làm “tư sản dân quyền cách
mạng”… và “thổ địa cách mạng”… để đi tới xã hội cộng sản.
Nhiệm vụ của “tư sản dân quyền cách mạng” và “thổ địa cách mạng”là
đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam hoàn
toàn độc lập. Thâu hết sản nghiệp lớn… của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp
để giao cho Chính phủ cơng nơng binh. Quốc hữu hóa tồn bộ đồn điền và đất
đai của bọn đế quốc và tay sai phản cách mạng Việt Nam chia cho nông dân

nghèo. Tổ chức quân đội công nông. Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư
7


sản, trí thức, trung nơng, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vơ
sản giai cấp. Cịn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam
mà chưa ra mặt phản cách mạng thì lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ… Phải
đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai
cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp. “Đảng là đội tiền phong của vô sản
giai cấp phải thu phục cho được bộ phận mình, phải làm cho giai cấp mình
lãnh đạo được dân chúng” 1. Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên
của Đảng đã phản ánh sự vận dụng đúng đắn sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa
phong kiến; kết hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp
truyền thống yêu nước và tinh thần cách mạng của nhân dân ta với những
kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ
nghĩa quốc tế vô sản và kết hợp thực tiễn, yêu cầu của Cách mạng Việt Nam
với tư tưởng tiên tiến, cách mạng thời đại. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là
đường lối chính trị phản ảnh đúng qui luật khách quan, phù hợp nguyện
vọng của nhân dân, đáp ứng yêu cầu của dân tộc, vạch ra mục tiêu, phương
hướng cơ bản của Cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cùng với Cương lĩnh đúng đắn đã chấm
dứt thời kỳ khủng hoảng đường lối cách mạng kéo dài hơn 7 thập kỷ, mở ra
thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam, thời kỳ độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới.
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng xác định những vấn đề
cơ bản, định hướng sự phát triển đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam.
Nhưng là văn kiện vắn tắt, nên chưa thể bao quát hết những vấn đề lý luận, thực
tiễn vốn rất phức tạp của cuộc cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong kiến

như nước ta. Do đó, sau Hội nghị thành lập Đảng, đòi hỏi Đảng tiếp tục bổ sung,

1

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 4.

8


phát triển, từng bước hoàn thiện đường lối cách mạng của Đảng. Đó là nhu cầu
khách quan của cách mạng, và của chính bản thân Đảng.
3. Luận cương Chính trị (tháng 10 năm 1930) bổ sung, phát triển
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng
Đồng chí Trần Phú, sau khi nghiên cứu, học tập ở nước ngoài về nước,
được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương và được giao nhiệm vụ chuẩn bị
Luận cương Chính trị của Đảng. Đồng chí đã nghiên cứu khảo sát thực tiễn
phong trào cách mạng trong nước; tham khảo tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm
cách mạng của các nước anh em; vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin vào
thực tiễn Việt Nam; kế thừa Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng để
viết Luận cương Chính trị. Luận cương Chính trị do đồng chí Trần Phú soạn thảo
được thơng qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(tháng 10 năm 1930).
Luận cương Chính trị tiếp tục khẳng định sự đúng đắn của con đường
cách mạng trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đề cập và có sự bổ
sung, phát triển mới. Luận cương khẳng định: “Trong lúc đầu cuộc cách mạng
Đông Dương sẽ là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền... Tư sản dân quyền
cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”2. Sau khi hoàn thành cách
mạng tư sản dân quyền (kiểu mới) tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Xác định hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng
tư sản dân quyền là chống đế quốc và phong kiến; mục tiêu là thực hiện độc lập

và dân chủ; chủ lực qn là cơng nơng; phải đồn kết quốc tế, giành chính
quyền bằng khởi nghĩa vũ trang; cách mạng phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Luận cương Chính trị tháng 10 năm
1930 đều thống nhất khẳng định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai
đoạn, cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai
đoạn có mối quan hệ khăng khít với nhau, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội. Luận cương bổ sung, phát triển một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, Luận cương Chính trị chỉ rõ lúc đầu là cách mạng tư sản dân
quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo, sau đó bỏ qua thời kỳ tư bản chuyển
sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Luận cương xác định
2

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 93.

9


những điều kiện bỏ qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Những điều kiện đó là: Về chủ quan, cách mạng tư sản dân quyền đã thắng
lợi, chính quyền cách mạng do giai cấp cơng nhân lãnh đạo đã được thiết lập
trên phạm vi toàn quốc; khối liên minh công nông được xây dựng và củng cố
vững chắc; vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản được xác lập trên thực tế. Về
điều kiện khách quan bảo đảm cho sự chuyển biến từ cách mạng tư sản dân
quyền lên cách mạng xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước phải có sự giúp đỡ quốc tế
của các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên thế giới. Luận cương cũng chỉ rõ,
giai đoạn đầu đấu tranh giành độc lập dân tộc, ruộng đất cho dân cày là mục
tiêu trực tiếp, tất yếu phải đi qua, nhiệm vụ giai đoạn này thực hiện càng triệt
để càng tạo điều kiện cho giai đoạn sau phát triển vững chắc. Giai đoạn xây
dựng chủ nghĩa xã hội là phương hướng tiến lên quyết định phát triển của
cách mạng Việt Nam, đồng thời có giá trị củng cố, giữ vững thành quả cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân, quyết định tính chất triệt để của giai đoạn
đầu. Việc xác định đúng phương hướng cách mạng có ý nghĩa hết sức quan
trọng, là ngọn cờ tập hợp lực lượng cách mạng, là cơ sở giải quyết đúng đắn
các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, định hướng sự phát triển đúng
đắn của cách mạng.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Luận cương Chính trị (tháng
10 năm 1930) về con đường cách mạng Việt Nam đã được Đảng Cộng sản
Việt Nam thực hiện đối với miền Bắc sau năm 1954, tiến lên chủ nghĩa xã
hội; đối với cả nước sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, chuyển sang giai đoạn cả nước xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều đó
khẳng định giá trị lý luận, ý nghĩa lịch sử, hiện thực về con đường tiến lên của
cách mạng Việt Nam mà các văn kiên đầu tiên của Đảng đã đề cập. Với ý nghĩa
đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12 năm 1976)
đã khẳng định: Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội không thể tách rời nhau, ở nước ta khi giai cấp cơng nhân giữ vai
trị lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của

10


thời kỳ quá độ tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự bắt đầu của thời kỳ
thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản.
Thứ hai,Luận cương Chính trị phát triển về phương pháp cách mạng
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã xác định cách mạng nước ta
phải được tiến hành bằng phương pháp cách mạng bạo lực mới lật đổ được
chính quyền của bọn thực dân, phong kiến; dựa vào sức mạnh của quần chúng
nhân dân được tổ chức lại dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trung thành với quan
điểm đó, Luận cương Chính trị tháng 10 năm 1930 bổ sung, phát triển phương

pháp cách mạng bạo lực giành chính quyền phải bằng khởi nghĩa vũ trang,
khơng thể là con đường hịa bình, cải lương. Luận cương chỉ rõ, khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền khơng phải là việc bình thường, mà là một nghệ
thuật, phải theo “khn phép nhà binh”; phải đề phịng, ngăn ngừa thái độ
“đùa với khởi nghĩa”; phải đặt khởi nghĩa vũ trang của quần chúng trong
khn khổ tình thế cách mạng và theo quy luật của đấu tranh cách mạng.
Khởi nghĩa phải dựa trên một cao trào cách mạng của quần chúng, nổ ra đúng
thời cơ. Thời cơ đó là: Khi kẻ thù hoang mang cực độ, các tầng lớp trung gian
ngả về phía cách mạng, quần chúng cách mạng và đội tiền phong đã sẵn sàng.
Đồng thời, Luận cương cũng chỉ rõ: Lúc thường, chưa có tình thế cách mạng
trực tiếp chỉ sử dụng những hình thức đấu tranh thấp, nhằm đấu tranh giành
quyền dân sinh, dân chủ, thực hiện “đấu tranh phần ít”, qua đó mà tập hợp, tổ
chức quần chúng và rèn luyện Đảng. Khi tình thế cách mạng xuất hiện thì
khẩu hiệu và hình thức đấu tranh phải cao hơn, từng bước đưa quần chúng ra
đấu tranh từ thấp đến cao, tiến hành khởi nghĩa tồn dân, lập Xơ viết, lập hội
đồng tịch ký ruộng đất, sản nghiệp của bọn bóc lột, do giai cấp cơng nhân
kiểm sốt…
Nội dung bổ sung, phát triển về phương pháp cách mạng bạo lực trong
Luận cương đã thể hiện sự tiếp thu sâu sắc tư tưởng bạo lực cách mạng và
khởi nghĩa vũ trang của chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp thực tiễn nhu cầu
xã hội Việt Nam. Phương pháp cách mạng đó đã giúp cho những người cách
mạng và quần chúng nhân dân chủ động tiến hành đấu tranh, khi tình thế,
thời cơ cách mạng xuất hiện kịp thời lãnh đạo tiến hành khởi nghĩa giành
thắng lợi.
11


Thứ ba, Luận cương Chính trị bổ sung, phát triển lý luận về xây dựng
Đảng kiểu mới ở Việt Nam. Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt khẳng định vai trò, vị trí của Đảng “là đội tiền

phong của vơ sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình,
phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng” 3. Đảng có vững, cách
mạng mới thành cơng. Kế thừa, phát triển tư tưởng cơ bản ấy, Luận cương Chính
trị một mặt tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò của Đảng đối với cách mạng Việt
Nam, mặt khác, Luận cương đã chỉ ra những nguyên lý về xây dựng Đảng kiểu
mới ở một nước thuộc địa nửa phong kiến như nước ta:“Điều kiện cốt yếu cho sự
thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản,
có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần
chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản
giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc” 4. Sự phát triển về những
nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới do Luận cương Chính trị nêu ra đảm bảo cho
Đảng luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức, đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ chính trị của Đảng qua các thời kì, giai
đoạn cách mạng.
Lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đã chứng minh, công
tác xây dựng Đảng luôn bám sát những nguyên tắc do Luận cương Chính
trị đã chỉ ra, đảm bảo cho Đảng ta ln là Đảng chân chính, cách mạng
lãnh đạo cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và
không ngừng lớn mạnh, trưởng thành.
Bên cạnh những nội dung bổ sung, phát triển nêu trên, Luận cương
Chính trị cịn một số hạn chế so với Cươnglĩnh đầu tiên được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng.
Hạn chế thứ nhất, Luận cương không nêu mâu thuẫn chủ yếu giữa dân
tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó khơng đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên
hàng đầu. Luận cương mới giải quyết được về vấn đề chiến lược, chưa giải
quyết đúng vấn đề sách lược với kẻ thù; chưa xác định được nhiệm vụ, mục
tiêu cụ thể trước mắt. Đó là hạn chế mang tính “tả” khuynh, nóng vội.
3

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4.

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 100.

4

12


Hạn chế thứ hai, Luận cương đánh giá không đúng khả năng cách
mạng của giai cấp tiểu tư sản và mặt yêu nước của giai cấp tư sản dân tộc,
một bộ phận địa chủ nhỏ, chỉ thấy mặt do dự, cải lương của các giai cấp đó, từ
đó khơng coi họ là lực lượng của cách mạng tư sản dân quyền. Từ hạn chế đó,
Luận cương Chính trị chưa đưa ra được chủ trương thành lập một mặt trận
thống nhất rộng rãi để phát huy sức mạnh của cả dân tộc vào nhiệm vụ chống
đế quốc, phong kiến, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc, người cày có ruộng.
Những hạn chế trên, có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân
chủ quan, trước hết là do trình độ của Đảng lúc đó cịn hạn chế, chưa từng
trải, chưa nắm vững thực tiễn cách mạng ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến, chưa nhận thức sâu sắc đặc điểm truyền thống đấu tranh của dân tộc;
đặc biệt, chưa nghiên cứu kỹ và tiếp thu được những tư tưởng cơ bản trong
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng; có biểu hiện vận dụng máy
móc quan điểm của Quốc tế Cộng sản và kinh nghiệm của nước ngoài.
Về nguyên nhân khách quan, do tình hình thực tiễn thế giới và ở Việt
Nam vào thời điểm đó cũng tác động đến nhận thức của những người được
giao nhiệm vụ soạn thảo Luận cương Chính trị. Trên thế giới, giai cấp tư sản
đã trở thành giai cấp phản động, chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa
đế quốc. Giai cấp tư sản đã phản bội lại lợi ích của dân tộc mình, đang ráo riết
chuẩn bị chiến tranh xâm lược các nước khác. Vào thời điểm lịch sử đó, cách
mạng vơ sản trên thế giới chưa có tiền lệ về sự liên minh thành công giữa giai
cấp vô sản với giai cấp tư sản. Thực tiễn cách mạng Nga, cách mạng Trung
Quốc, cách mạng Ấn Độ đã chứng minh điều đó.

Ở Việt Nam, vào thời điểm của những năm 30 thế kỷ XX, mặt tích cực
của giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc chưa bộc lộ rõ, trong khi đó một số
đảng phái của các giai cấp đó lại theo khuynh hướng quốc gia cải lương, có
biểu hiện ngăn cản sự phát triển của phong trào vô sản, phong trào giải phóng
dân tộc.
So với Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt thì
Luận cương Chính trị có sự bổ sung, phát triển rất cơ bản và quan trọng. Luận
cương Chính trị đã kế thừa, phát triển những nội dung cơ bản của Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt. Bên cạnh đó Luận
13


cương Chính trị có những hạn chế nhất định, do những ngun nhân chủ quan
và khách quan nói trên. Khơng vì thế mà cho rằng Luận cương Chính trị đối lập
với Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt . Khơng nên
cho rằng Luận cương Chính trị nhấn vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt nhấn vấn đề dân tộc và
đấu tranh dân tộc. Cần khẳng định, Luận cương Chính trị và Chính cương, Sách
lược vắn tắt thống nhất trên những vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng Việt
Nam. Cả hai văn kiện trên đều giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp,
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã
hội, đó là đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam, sợi chỉ đỏ xuyên suốt,
nguồn gốc, nguyên nhân dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ khi
có Đảng đến nay.
4. Nghị quyết Trung ương 6, 7, 8 (năm 1939, năm 1940, năm 1941)
chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ (tháng 9 năm 1939) tác động
mạnh mẽ đến cách mạng Việt Nam, tạo điều kiện trực tiếp cho cách mạng
Việt Nam bùng nổ. Nước Pháp tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ hai ngay
từ đầu. Ở trong nước, Chính phủ Pháp thi hành chính sách phát xít, giải tán

Đảng Cộng sản Pháp và các Đảng Cộng sản ở các nước thuộc địa, thủ tiêu
luật xã hội, các quyền tự do dân chủ. Ở Đông Dương, chúng thi hành chính
sách khủng bố, ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, cướp bóc của
cải của nhân dân Đông Dương để cung cấp cho chiến tranh, làm cho mâu
thuẫn giữa toàn thể các dân tộc ở Đông Dương với đế quốc Pháp ngày càng
sâu sắc hơn. Tình thế cách mạng xuất hiện. Đảng kịp thời chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược, đưa cách mạng tiến lên từng bước vững chắc. Trước tình hình
mới, Đảng đã họp Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (tháng 11 năm 1939), Hội
nghị Trung ương lần thứ bảy (tháng 11 năm 1940) và Hội nghị Trung ương
lần thứ tám (tháng 5 năm 1941), tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối giải phóng
dân tộc trên những nội dung sau:
Đảng chủ trương đặt nhiệm vụ chống đế quốc, tay sai, giải phóng dân
tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất.

14


Cách mạng Đông Dương lúc này phải là cách mạng giải phóng dân tộc,
đó là một kiểu của cách mạng tư sản dân quyền. Chống đế quốc và chống
phong kiến là hai nhiệm vụ cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền ln quan
hệ khăng khít với nhau. Nhiệm vụ cốt yếu trước mắt là đánh đổ đế quốc vàtay
sai giải phóng Đơng Dương, làm cho Đơng Dương hồn toàn độc lập. Nghị
quyết nêu: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đơng Dương khơng có con
đường nào khác là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại
xâm vô luận là da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng dân tộc” 5. Về hậu
quả của Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Đảng chỉ rõ: “Cuộc khủng hoảng
kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách
mạng Đông Dương bùng nổ và tiền đồ cách mạng Đông Dương nhất định sẽ
vinh quang rực rỡ”6. Đồng thời, Đảng khẳng định: “Cách mạng phản đế và
cách mạng giải phóng dân tộc cao hơn, thiệt dụng hơn, song nếu khơng làm

được cách mạng thổ địa thì cách mạng phản đế khó thành cơng. Tính chất cơ
bản của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương không thay đổi”7.
Mục tiêu trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đế quốc tay sai,
giải phóng dân tộc làm cho Đơng Dương hồn tồn độc lập. Cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc Đông Dương vẫn bao gồm hai nội dung chống đế quốc và
chống phong kiến. Đó là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân
quyền. Nhưng lúc này phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ chống đế quốc tay sai
giải phóng dân tộc. Đảng xác định: Trong lúc này nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc,
thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà
quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.
Trong lúc đặt nhiệm vụ chống đế quốc, tay sai, giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, Đảng chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch
thu ruộng đất của đế quốc Pháp và những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc
chia cho nông dân nghèo, chưa đánh đổ toàn bộ giai cấp địa chủ phong kiến;
thực hiện giảm tơ, giảm tức, xóa nợ, hỗn nợ cho nông dân.

5

. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 536.
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Tồn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 112-113.
77.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 536.
66

15


Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược trên là hồn tồn đúng đắn,
đáp ứng địi hỏi của các giai tầng trong xã hội lúc bấy giờ, cho phép tập hợp,

mọi giai cấp tầng lớp trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để thực
hiện nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng đề ra.
Vấn đề dân tộc được giải quyết trong phạm vi từng nước trên nguyên
tắc tôn trọng độc lập, tự do, bình đẳng và tự nguyện của các dân tộc Đơng
Dương. Chủ trương này hồn tồn phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin về quyền dân tộc tự quyết, vừa phù hợp với tư tưởng của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Giải quyết vấn đề
dân tộc trong từng nước là để khai thác, phát huy sức mạnh của từng dân
tộc trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng thời khơng ngừng tăng cường,
đồn kết liên minh chiến đấu giữa các dân tộc Đông Dương chống kẻ thù
chung, giải phóng các dân tộc ở Đơng Dương.
Thực hiện chủ trương trên, mỗi nước trên bán đảo Đông Dương thành
lập một Mặt trận dân tộc thống nhất riêng. Ở Việt Nam thành lập Việt Nam
độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh. Ở Lào thành lập Ai Lao độc
lập đồng minh và ở Campuchia thành lập Cao Miên độc lập đồng minh. Chủ
trương đó phù hợp với nguyện vọng của nhân dân các dân tộc Đông Dương,
phù hợp với cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới chống phát xít và
xâm lược, bảo đảm cho cách mạng ở các nước Đông Dương thành công.
Về lực lượng cách mạng, Đảng chủ trương: Công nông phải đưa cao cây
cờ dân tộc lên, vì quyền lợi sinh tồn của dân tộc mà sẵn sàng bắt tay với tiểu tư
sản và những tầng lớp tư sản bản xứ, trung, tiểu địa chủ cịn căm tức đế quốc,
vì sự căm tức này có thể làm cho họ có ít nhiều tinh thần chống đế quốc.
Đảng còn chủ trương thành lập các hội cứu quốc thay cho các hội phản
đế trước đây. Do đó các tổ chức quần chúng đều lấy tên là cứu quốc: Nông dân
cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc… Trên
cơ sở xây dựng lực lượng chính trị, tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang làm
nịng cốt cho tồn dân khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Về vấn đề khởi nghĩa, các Hội nghị Trung ương lần thứ sáu, Trung
ương lần thứ bảy đã có những dự kiến và đưa ra phác thảo đầu tiên về khởi
nghĩa giành chính quyền. Sau này, căn cứ vào kinh nghiệm các cuộc khởi

16


nghĩa Bắc Sơn (ngày 27 tháng 9 năm 1940), Nam Kỳ (ngày 23 tháng 11 năm
1940) và cuộc nổi dậy của binh lính Đơ Lương (ngày 13 tháng 1 năm 1941),
Hội nghị Trung ương lần thứ tám (tháng 5 năm 1941) đã xác định rõ điều kiện
và hình thái khởi nghĩa ở Việt Nam.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn, Đảng xác định chuẩn bị khởi nghĩa
là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân, dự báo thời cơ đến với lực
lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng
địa phương cũng có thể giành thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng
khởi nghĩa to lớn. Hình thái khởi nghĩa ở nước ta sẽ đi từ khởi nghĩa từng
phần, tiến lên tổng khởi nghĩa.
Về vấn đề xây dựng Đảng, các nghị quyết Trung ương lần thứ sáu,
Trung ương lần thứ bảy và Trung ương lần thứ tám đều nêu chủ trương nhanh
chóng chuyển hoạt động của Đảng từ cơng khai, bán công khai của những
năm 1936 - 1939, sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp. Tập trung xây dựng
Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đủ sức lãnh đạo tồn dân tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nước. Tập trung xây dựng cơ sở đảng ở các trung
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, chủ động, kịp thời lãnh đạo khởi nghĩa khi thời
cơ đến.
Những nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược thời kỳ 1939 - 1945
đánh dấu sự trưởng thành của Đảng giải quyết mối quan hệ giữa nhiệm vụ
chiến lược và chỉ đạo chiến lược. Về nhiệm vụ chiến lược: Kiên định nhiệm
vụ chống đế quốc và chống phong kiến giành độc lập cho dân tộc, ruộng đất
cho dân cày. Về chỉ đạo chiến lược: Đặt nhiệm vụ chống đế quốc, tay sai, giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất. Đó là
chủ trương đúng đắn, sáng tạo, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành chính quyền trong cả nước.
5. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II năm 1951 của Đảng phát

triển, hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Sau 16 năm kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng
(tháng 3 năm 1935), tình hình thế giới, trong nước có nhiều thay đổi. Cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta có bước phát
triển mới, triển vọng giành thắng lợi đã rõ ràng. Để tiếp tục lãnh đạo kháng
17


chiến đến thắng lợi hoàn toàn, Đảng kịp thời tổng kết thực tiễn hơn 20 năm
đấu tranh cách mạng (1930 - 1951), tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh
đường lối cách mạng, kịp thời đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo đưa
kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 2 năm
1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được tiến hành tại xã
Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Đại hội đã thảo luận Báo
cáo Chính trị của đồng chí Hồ Chí Minh, Báo cáo “Bàn về cách mạng Việt
Nam” của đồng chí Trường Chinh và các văn kiện quan trọng khác của Đảng.
Đại hội đã bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trên những nội dung chủ yếu sau:
Đại hội phát triển, hoàn chỉnh mối quan hệ giữa hai giai đoạn cách
mạng. Lần đầu tiên Đảng đưa ra khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân thay cho khái niệm cách mạng tư sản dân quyền trước đây. Xét về bản
chất, hai khái niệm này khơng có gì khác nhau, nhưng xác định cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân để nói rõ tính chất của cuộc cách mạng, nhằm giải
quyết mâu thuẫn xã hội lúc bấy giờ là xã hội dân chủ nhân dân, một phần
thuộc địa nửa phong kiến. Yêu cầu khách quan phải giải quyết mâu thuẫn
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân với những lực lượng phản động ngăn cản
mục tiêu ấy. Cuộc cách mạng đó, cho phép huy động lực lượng của cả dân
tộc để thực hiện mục tiêu chung: độc lập dân tộc, người cày có ruộng, đất
nước thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời Đảng còn chỉ rõ mỗi
giai đoạn cách mạng có đối tượng, nhiệm vụ, lực lượng, phương pháp cách

mạng, hình thức tổ chức nhà nước khác nhau. Song, giữa hai giai đoạn có
mối quan hệ khăng khít với nhau khơng thể tách rời. Kết thúc giai đoạn một
là sự mở đầu của giai đoạn hai, giữa hai giai đoạn cách mạng khơng có bức
tường ngăn cách.
Về mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến,
Đảng khẳng định về mặt chiến lược chống đế quốc, chống phong kiến phải
kết hợp đồng thời, song song với nhau. Về chỉ đạo chiến lược, hai nhiệm vụ
đó tiến hành khơng nhất loạt ngang nhau, phải đặt nhiệm vụ chống đế quốc,
tay sai, giải phóng dân tộc lên hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến rải ra
từng bước có kế hoạch, phục tùng, phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc. Đại hội
18


chỉ rõ ba bước chống phong kiến là: Bước một, đánh đổ chính quyền thực dân
phong kiến, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc, Việt gian, chia lại ruộng công
cho dân cày nghèo. Bước hai, thực hiện giảm tô, giảm tức làm suy yếu các thế
lực địa chủ phong kiến. Bước ba, thực hiện cải cách ruộng đất, giải quyết triệt
để khẩu hiệu “người cày có ruộng”.
Về sắp xếp lực lượng cách mạng, Báo cáo “Bàn về cách mạng Việt
Nam” đã chỉ rõ: lực lượng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân bao
gồm bốn giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Động lực
chính của cách mạng là cơng nhân, nơng dân, tiểu tư sản. Động lực chủ yếu là
công nhân, nông dân, do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng chủ trương
tiếp tục con đường cách mạng bạo lực để tiến hành kháng chiến. Bạo lực được
sử dụng với hai lực lượng, lực lượng chính trị, lực lượng quân sự, với hai hình
thức đấu tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự. Trong đó, lực lượng
quân sự và đấu tranh quân sự giữ vai trò quyết định, lực lượng chính trị, đấu
tranh chính trị giữ vai trị hỗ trợ quan trọng. Phương thức đấu tranh từ chiến
tranh du kích phát triển lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh du kích

với chiến tranh chính quy; kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ; phương
châm chiến lược là đánh lâu dài; chủ động giành thắng lợi càng sớm càng tốt.
Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội đã quyết định đưa Đảng ra hoạt
động công khai, trực tiếp lãnh đạo kháng chiến. Ở mỗi nước trên bán đảo
Đông Dương sẽ thành lập một Đảng Cộng sản riêng, trực tiếp lãnh đạo cách
mạng nước mình, đồng thời các Đảng ở mỗi nước phải phối hợp, giúp đỡ
nhau trong sự nghiệp chống kẻ thù chung, giải phóng dân tộc.
Thực hiện chủ trương đó, ở Việt Nam đổi tên Đảng Cộng sản Đông
Dương thành Đảng Lao động Việt Nam, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Sau đó ở Lào và ở Campuchia thành lập Ban vận động thành lập Đảng ở
mỗi nước. Đến ngày 28 tháng 6 năm 1951, Đảng Nhân dân cách mạng
Campuchia ra đời. Ngày 22 tháng 3 năm 1955, Đảng Nhân dân cách mạng Lào
được thành lập. Từ đó, cách mạng ba nước Đơng Dương bước vào thời kỳ phát
triển mới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi
nước.
19


Đại hội lần thứ II (tháng 2 năm 1951) của Đảng đánh dấu một mốc
quan trọng trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Đường lối cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân được Đại hội bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh, đáp ứng
yêu cầu trước mắt và lâu dài của cách mạng Việt Nam, cách mạng ba nước
Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ hai của Đảng là Đại hội kháng chiến; nhiệm vụ chính của Đại
hội là đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Đảng Lao
động Việt Nam vững mạnh toàn diện.
Đại hội đánh dấu sự hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, theo đường lối cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, tồn dân, tồn qn đã đẩy mạnh cơng cuộc kháng chiến chống

thực dân Pháp và can thiệp Mỹ thắng lợi, góp phần thúc đẩy cách mạng Đơng
Dương, cách mạng thế giới phát triển.
Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng được
hình thành từ Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, lần lượt được bổ
sung, phát triển qua các văn kiện: Luận cương Chính trị (tháng 10 năm
1930), các nghị quyết: Nghị quyết Trung ương lần thứ sáu, lần thứ bảy,
lần thứ tám (năm 1939, năm 1940, năm 1941), đến Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II của Đảng phát triển và hoàn chỉnh. Đó là q trình tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận của Đảng, để lại cho Đảng ta nhiều kinh
nghiệm q, có thể vận dụng trong việc hình thành, phát triển, hoàn chỉnh
đường lối xây dựng đất nước sau này.
CÂU HỎI ƠN TẬP
1. Tính tất yếu xây dựng, bổ sung, phát triển đường lối cách mạng
DTDCND của Đảng?
2. Qúa trình phát triển nhận thức của Đảng về giải quyết mối quan hệ
chống đế quốc và chống phong kiến trong cách mạng DTDCND?
3. Sự phát triển về phương pháp cách mạng bạo lực trong đấu tranh
giành chính quyền của Luận cương Chính trị tháng 10-1930 so với Cương
lĩnh đầu tiên tháng 2-1930 ?
4. Ý nghĩa quá trình bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh đường lối trong
cách mạng DTDCND?
20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tham khảo bắt buộc
1. Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, VKĐ, Tồn tập, tập 2, Nxb
Chính trị Quốc gia, H. tr.2-9.
2. Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, sơ thảo tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 19981

3. Luận cương chánh trị của Đảng, VKĐ, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tr.88-103.
4. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 (11-1939,
tr.509-567),7 (11-1940, tr. 20-82), 8 (5-1941, tr. 96-136), VKĐ, Toàn tập, tập
6,7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (21951), VKĐ, Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 427-496.
* Tài liệu tham khảo không bắt buộc
1. Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Vấn đề dân cày, Nhà xuất bản Sự
thật, Hà Nội, 1959.
2. Lâm Quang Huyên, Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007.
3. Lê Quỳnh Nga, Tìm hiểu chính sách ruộng đất của Đảng trong kháng
chiến chống Pháp (1930-1954), Tạp chí Lịch sử Đảng tháng 3/2007.
4. Trịnh Nhu, Lịch sử phong trào nông dân và Hội nơng dân Việt Nam
(1930-1945), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
5. Tổng kết cuộc kháng chiến chống Pháp, Thắng lợi và bài học, Nxb
CTQG, H.1996
6. Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Thắng lợi và bài
học, Nxb CTQG, H.1995

21


Chuyên đề 2
CÁC ĐẢNG PHÁI TRONG THỜI KỲ 1945-1946
MỤC TIÊU
- Về kiến thức: Trang bị cho người học nắm được sự hình thành các
đảng phái và ảnh hưởng của nó đối với cách mạng thời kỳ 1945-1946; Nắm
được những kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện đa đảng.
Ý nghĩa lịch sử và hiện thực.

- Về kỹ năng: Tạo cho học viên tư duy khoa học độc lập, biết vận dụng
giải quyết các vấn đề thực tiễn hiện nay.
- Về tư tưởng: Kiên định, giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam; tích cực đấu tranh chống lại các quan điểm, nhận thức sai
trái
NỘI DUNG
1. Sự hình thành và ảnh hưởng của các đảng phái
trong thời kỳ 1945 – 1946
Thời kỳ 1945-1946 diễn ra trong khoảng thời gian hơn một năm nhưng
có nhiều sự kiện lịch sử in đậm dấu ấn trong lịch sử cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là thời kỳ tồn tại chế độ đa đảng duy nhất ở
Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại. Các đảng phái chính trị thời kỳ này bao
gồm các đảng phái cách mạng và các đảng phái phản cách mạng.
1.1. Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh
Đảng Cộng sản Đông Dương, được thành lập đầu năm 1930. Đảng ra
đời cùng với đường lối chính trị đúng đắn đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng
về đường lối cách mạng Việt Nam, mở ra bước ngoặt lịch sử của cách mạng
Việt Nam. Trải qua 15 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam (1930-1945), Đảng
đã khẳng định vai trị độc tơn lãnh đạo cách mạng, uy tín của Đảng được
khẳng định trên thực tế thông qua những thắng lợi của cách mạng, trong đó
thắng lợi vĩ đại nhất là Đảng lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền
trong cả nước (8/1945). Với thắng lợi đó, Đảng ta từ hoạt động bí mật, bất
hợp pháp trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo chính quyền trong cả nước.
Do so sánh lực lượng còn bất lợi cho cách mạng trong những năm
1945-1946 và thực hiện sách lược hồ hỗn có nguyên tắc trong thời kỳ đó,
22


ngày 11/11/1945 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán và thành
lập “Hội Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác”. Thực chất, Đảng rút vào hoạt động bí

mật, nhưng vẫn lãnh đạo cách mạng, Đảng vẫn tồn tại cùng với mặt trận Việt
Minh và các đảng phái chính trị khác.
Mặt trận Việt Minh, được thành lập ngày 19/5/1941 theo Quyết
định của Hội nghị Trung ương VIII (5/1941). Ngày 25/10/1941, Mặt trận
tun bố Tun ngơn, Chương trình và Điều lệ của mình. Mặt trận đã
đồn kết rộng rãi các tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam, phấn đấu:
“Làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập” và “Làm cho dân Việt Nam
được sung sướng, tự do”.
Mặt trận Việt Minh là một tổ chức chính trị có uy tín và ảnh hưởng rất
sâu rộng trong nước và quốc tế.
Mặt trận là nền tảng của chính quyền cách mạng, là người đại diện cho
Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua hoạt động của Mặt trận, Đảng thực
hiện vai trò lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam.
Mặt trận là người đứng ra tiếp nhận quân Đồng minh vào nước ta giải
giáp vũ khí qn đội Nhật.
Mặt trận đảm nhiệm vai trị giải quyết các mối quan hệ và công việc đối
với các đảng phái chính trị thời kỳ này.
Thí dụ: Ngày 29/9/1945, Mặt trận Việt Minh đã ký với Việt Nam Quốc
dân Đảng một bản thoả hiệp với các nguyên tắc: 1. Đình chỉ các xung đột
giữa hai đồn thể cách mạng. 2. Thả những đảng viên hai bên đã bị bắt và giữ
lại những tang vật đã bị tịch thu. 3. Bãi bỏ những cuộc bắt bớ và bỏ thái độ
tun truyền cơng kích lẫn nhau. Hai bên đã thống nhất chương trình này phải
được thi hành ngay để đi đến một cuộc hợp tác chặt chẽ giữa hai đoàn thể
cách mạng (Đại diện Việt Minh: ông Nguyễn Lương Bằng, đại diện Việt Nam
Quốc dân Đảng: ông Chu Bá Phượng đã ký).
1.2. Đảng Dân chủ Việt Nam
- Ngày 3/6/1944, Việt Nam Dân chủ Đảng được thành lập tại Thanh
Xuân, Hà Nội. Đến Đại hội II (Tháng 2/1951) đổi tên thành Đảng Dân chủ
Việt Nam. Đây là đảng Cách mạng của tư sản dân tộc, trí thức tiểu tư sản yêu
23



nước tiến bộ. Đảng Dân chủ ra đời tham gia Mặt trận Việt Minh, mở rộng
thêm Mặt trận Dân tộc thống nhất, đồng thời đập tan âm mưu của Phát xít
Nhật định lơi kéo học sinh, sinh viên, trí thức theo Nhật.
Từ khi thành lập (Tháng 3/1944) đến khi kết thúc hoạt động (1989),
Đảng Dân chủ luôn nằm trong Mặt trận dân tộc thống nhất, thừa nhận sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản và đi theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tuy nhiên, trong từng thời kỳ, Đảng này có những diễn biến phức tạp,
họ nhất trí trên mặt trận chống đế quốc, còn một số mặt khác thì có nhiều vấn
đề chưa thống nhất hồn tồn với ta.
Ví dụ: Năm 1945, xứ uỷ Nam Bộ giao cho họ phụ trách một số đơn vị
quân đội ở phía Nam. Khi Đảng có chủ trương thực hiện nguyên tắc Đảng
lãnh đạo tuyệt đối Quân đội, một số đảng viên Đảng Dân chủ bất mãn, khơng
tán thành chủ trương đó lợi dụng vấn đề này để chia rẽ nội bộ Mặt trận.
Ở miền Bắc, từ khu IV trở ra đã xảy ra sự chống đối, bất đồng giữa một
số đảng viên Đảng Dân chủ với Đảng Cộng sản Việt Nam…
Ở các thời kỳ sau này, nhất là khi chúng ta gặp nhiều khó khăn thì diễn
biến tư tưởng của số đảng viên Đảng Dân chủ càng phức tạp. Điển hình là thời kỳ
1949-1957, họ đấu tranh đòi liên minh lãnh đạo, chia sẻ quyền lãnh đạo với Đảng
Cộng sản. Họ địi mở rộng chính phủ, địi được một ghế Phó Thủ tướng. Về chính
trị, họ muốn tự do theo kiểu tư sản, khơng tán thành chun chính vơ sản. Về kinh
tế, họ muốn phát triển tư bản chủ nghĩa. Về văn hố, họ đồng tình với phái “Nhân
văn Giai phẩm”, khơng muốn Đảng can thiệp vào văn hố, văn nghệ. Muốn thực
hiện phương châm “Trăm hoa đua nở”, gây tình hình xã hội phức tạp hơn.
Nhưng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà nội bộ Đảng
Dân chủ đã đi dần vào đúng quỹ đạo, chịu sự lãnh đạo của Đảng. Sau cuộc
đấu tranh nội bộ của Đảng Dân chủ (tháng 3/1957 đến tháng 5/1957), những
phần tử cơ hội trong Đảng Dân chủ đã bị phát hiện, xử lý kịp thời. Từ đó trở
đi, Đảng Dân chủ hoạt động mãnh mẽ.

Đến năm 1989, Đảng Dân chủ tuyên bố kết thúc hoạt động.
Mặc dù có những lệch lạc, sai lầm nhất định trong từng thời gian cụ
thể. Nhưng với tinh thần dân tộc của Đảng Dân chủ và đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, Đảng Dân chủ đã góp phần vào thắng lợi to lớn của dân tộc ta.

24


Từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Đảng Dân
chủ cho thấy: tuy là Đảng Cộng sản Việt Nam giúp họ tổ chức ra chính đảng của
họ và lãnh đạo họ, nhưng nếu không khôn khéo thì chính họ lại gây cho ta thêm
nhiều khó khăn, phải ln cảnh giác, tích cực, chủ động nắm bắt những vấn đề
mới nảy sinh trong Đảng Dân chủ và xử lý kịp thời, nhất là khi cách mạng gặp
khó khăn.
1.3. Đảng Đại Việt
Là tên gọi chung của nhiều tổ chức Đại Việt do một số đảng viên của
Việt Nam Quốc dân Đảng cũ. Đó là các tổ chức thối hố, một số tri thức,
quan lại phong kiến, cơng chức phản động lập ra.
- Đại Việt Quốc dân đảng, do Trương Tử Anh thành lập, năm 1938;
- Đại Việt Dân chính, do Nguyễn Tường Tam thành lập, năm 1940;
- Đại Việt Ái quốc, do Nguyễn Xuân Chữ thành lập, năm 1941;
- Đại Việt Quốc xã, do Trương Đình Vũ thành lập, năm 1941.
Đây là những tổ chức Đại Việt ở từng địa phương, ảnh hưởng của họ
không lớn nên lực lượng xã hội đi theo họ không nhiều và các thế lực phản
động thực dân phong kiến cũng không hồn tồn tin vào Đại Việt. Khi Nhật
đảo chính Pháp (9/3/1945), các tổ chức Đại Việt nhập lại thành Đại Việt quốc
gia liên minh phát triển lực lượng, nhất là lực lượng vũ trang để chống lại ảnh
hưởng của Mặt trận Việt Minh.
Về lực lượng, Đại Việt chủ yếu phát triển trong đội ngũ trí thức, quan
lại, cơng chức bất mãn, đồng thời cịn lơi kéo một số học sinh, sinh viên. Lực

lượng của Đại Việt phát triển mạnh hơn là ở vùng Trung du miền núi phía Bắc
như ở : Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc…
Cách mạng Tháng Tám thành công ngày 5/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký sắc lệnh giải tán Đại Việt Quốc dân đảng và Đại Việt Quốc gia xã
hội đảng là hai tổ chức Đại Việt chính trong thời kỳ này.
1.4. Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), đây là tổ chức phản
động đáng chú ý nhất trong thời kỳ 1945-1946. Chúng có tổ chức, lực
lượng và thực hiện chống phá cách mạng một cách quyết liệt, gây cho ta
nhiều khó khăn.

25


Vào đầu năm 1927, một số thanh niên trí thức, nhà báo đã lập ra “Nam
Đồng thư xá” ở Hà Nội. Tại đây, họ bán sách, báo nói về Cách mạng Tân Hợi
Trung Quốc, nói về Tơn Trung Sơn để tuyên truyền dân chúng về cách mạng
dân chủ cũ và tập hợp thanh niên có khuynh hướng quốc gia và yêu nước.
Ngày 23/12/1927, chính thức thành lập Việt Nam Quốc dân đảng. Sáng
lập ra Đảng này phần lớn là các thành viên của “Nam Đồng Thư xá” như:
Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính, Phạm Tuấn Tài…
Người đứng đầu là Nguyễn Thái Học.
Ngay từ khi mới ra đời Việt Nam Quốc dân đảng có Chương trình và
Điều lệ như sau:
- Lý thuyết chính trị là xã hội dân chủ.
- Mục đích thành lập là: tập hợp các lực lượng trong dân tộc Việt Nam
làm cách mạng quốc gia, thành lập ngay một nền dân chủ, giúp đỡ các dân tộc
còn đang bị áp bức.
- Việt Nam Quốc dân Đảng chủ trương làm cách mạng xã hội nhưng
không tán thành đấu tranh giai cấp; làm cách mạng dân chủ chỉ đánh đổ ngôi
vua, không đánh đổ giai cấp địa chủ, phong kiến nói chung.

- Phương pháp cách mạng nặng về ám sát cá nhân, bạo động, đảo chính.
Về tổ chức của Việt Nam Quốc dân Đảng, lấy chi bộ làm căn bản, mỗi chi
bộ có trên dưới hai mươi người. Trên chi bộ có huyện bộ, tỉnh bộ, kỳ bộ và
tổng bộ.
Mỗi chi bộ có các uỷ viên, tuyên truyền, tổ chức, tài chính, trinh thám,
lên tới Tổng bộ thì tổ chức thành các ban như: Ban Tuyên truyền, huấn luyện,
Ban Tổ chức, Ban Kinh tế tài chính…
Việt Nam Quốc dân đảng chú trọng phát triển đảng viên trong giai cấp
tư sản, tiểu tư sản, trung nông, phú nông, địa chủ, binh lính. Đến đầu năm
1929, Việt Nam quốc dân đảng có 120 chi bộ, 1500 đảng viên và cảm tình của
Đảng (trong đó có 120 binh sĩ).
Hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng:
- Mới đầu, họ tổ chức ra “Nhà hàng Việt Nam” tại phố Hàng Bông, Hà
Nội, để buôn bán, tạo quỹ hoạt động của Đảng và là nơi đặt trụ sở của Việt
Nam Quốc dân Đảng.
26


- Đầu năm 1929, họ tổ chức phong trào chống bắt phu và tổ chức ám
sát tên mộ phu Ba – zanh.
- Tháng 6/1929, Nguyễn Thái Học rút kinh nghiệm chấn chỉnh lại tổ
chức theo hướng nguyên tắc tự do, bình đẳng, bác ái.
Mục đích làm cách mạng dân tộc, cách mạng chính trị và cách mạng
xã hội.
Hoạt động Việt Nam quốc dân đảng phân làm 4 thời kỳ: Thời kỳ ni
dưỡng (Hết sức bí mật); Thời kỳ chuẩn bị (Tương đối bí mật); Thời kỳ hoạt
động cơng khai, bạo động; Thời kỳ kiến thiết lại, nắm chính quyền.
- Tháng 2/1930, Việt Nam Quốc dân đảng lãnh đạo khởi nghĩa Yên Bái
nhưng bị thất bại. Thất bại này đánh dấu sự chấm dứt về vai trò lãnh đạo của
giai cấp tư sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam thông qua Việt Nam

Quốc dân đảng.
- Việt Nam Quốc dân Đảng tan rã, hàng ngũ bị phân hoá, một số chạy
sang Trung Quốc tập hợp nhau lại thành lập nên Việt Nam Quốc dân đảng,
nhưng bản chất đã thay đổi, chúng trở thành tay sai của Tưởng, sau này trở về
hoạt động chống phá cách mạng, đứng đầu là Vũ Hồng Khanh.
Tháng 8 năm 1945, theo chân quân Tưởng, Vũ Hồng Khánh và Nguyễn
Tường Tam cầm đầu Việt Nam Quốc dân Đảng về nước ta. Chúng dựa vào quân
Tưởng tìm cách lật đổ chính quyền cách mạng, thành lập chính phủ do bọn phản
động cầm đầu.
Về nước, Việt Nam Quốc dân Đảng sát nhập với Đảng Đại Việt nhưng
vẫn lấy tên là Việt Nam Quốc dân Đảng. Thời kỳ này, cơ quan lãnh đạo tối
cao (bí mật) của Việt Nam Quốc dân Đảng có: Trương Tử Anh, Nguyễn Tiến
Kỷ, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ và Nguyễn Tường Tam
Cơ quan lãnh đạo công khai của Việt Nam Quốc dân Đảng gồm:
- Chủ tịch đồn có:
+ Chủ tịch: Trương Tử Anh
+ Bí thư Trung ương: Vũ Hồng Khanh
+ Ủy viên Chủ tịch đoàn: Xuân Tùng, Nguyễn Tường Long (người của
Đại Việt), và Phạm Khải Hoàn (Đại Việt Quốc dân Đảng)
27


×