Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TINH THẦN độc lập, tự CHỦ, SÁNG tạo của ĐẢNG TA TRONG VIỆC lựa CHỌN PHƯƠNG PHÁP CÁCH MẠNG PHÙ hợp với CÔNG CUỘC đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.41 KB, 23 trang )

Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta
trong lựa chọn phương pháp cách mạng
phù hợp với quá trình đổi mới ở Việt Nam.


Bước sang thế kỷ XXI, nhân loại tiến bộ trên thế giới đã chứng kiến
những biến động lớn lao đầy kịch tính trên tất cả các bình diện của đời sống
kinh tế, chính trị - xã hội. Do sai lầm trong lựa chọn phương pháp cải tổ, cải
cách, Liên Xô và hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu nhanh chóng
sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa tan dã và lâm vào thoái trào, khiến cho nhiều
người nghi ngờ về sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội và nghi ngờ về tính cách
mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản với
việc “tự điều chỉnh, thích nghi” đã đạt được những kết quả to lớn trên một số
lĩnh vực, đồng thời chúng đang ráo riết thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà
bình” – một cuộc chiến không có khói súng, không có chiến tuyến, với những
“ngón đòn” tinh vi và xảo quyệt, tấn công mạnh mẽ vào các nước XHCN trên
thế giới, trong đó Việt nam là một trọng điểm, làm cho không ít người hoang
mang, dao động, nhận thức không đúng về bản chất của chủ nghĩa tư bản, để
rồi đẫn đến tán dương, ca ngợi chủ nghĩa tư bản cho đó là xã hội tuyệt đích,
vĩnh hằng và phủ nhận những chân lý khách quan của thời đại.
Trước bức tranh toàn cảnh đa màu sắc của tình hình thế giới, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, với những vấn đề
mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Vì vậy việc lụa chọn con đường và
phương pháp cách mạng đặt ra đòi hỏi cần có lời giải đáp khoa học. Đây là vấn
đề mang tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cả trên phương diện lý luậnvà
thực tiến trong tình hình hiện nay.
Văn kiện Đại hội IX của đảng đã khẳng định: “Thế kỷ XX là thế kỷ của
những biến đổi to lớn, thế kỷ đấu tranh oanh liệt giành độc lập tự do thống nhất
Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thế kỷ của những chiến công và thắng



-2lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại” . Một trong ba thắng lợi vĩ đại của cách mạng
1

Việt Nam là "Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội”2. Đánh giá 20 năm đổi mới đại hội X của Đảng đã
khẳng định: “Hai mươi năm qua, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” 3. Những thắng lợi và thành tựu
đó gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt và tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của
Đảng cộng sản Việt nam trong sự nghiệp đổi mới. Kế thừa những thành tựu và
kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc khi còn chiến tranh và
trong những năm đầu sau khi nước nhà thống nhất, trải qua quá trình tìm tòi,
khảo nghiệm sáng kiến của nhân dân, Đảng ta đã khởi sướng ra và lãnh đạo
thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù
hợp với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh tình hình quốc tế mới. Những thành
tựu của công cuộc đổi mới đã khảng định tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự
lực, tự cường trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới của đảng Cộng sản
Việt Nam.
Nội dung cốt lõi độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong công cuộc đổi
mới được thể hiện trên nhiều vấn đề: Độc lập, tự chủ, sáng tạo tìm con đường
quá độ thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội; độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc
xác định lực lượng cách mạng; độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc xác định
phương pháp cách mạng; độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa cách mạng Việt nam và cách mạng thế giới; độc lập, tự chủ, sáng
tạo trong việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong phạm vị có hạn bài thu hoạch xin phân tích làm rõ vấn đề: Lựa
chọn phương pháp cách mạng phù hợp với quá trình đổi mới ở Việt Nam.
1. Cơ sở và quá trình của việc lựa chọn phương pháp cách mạng
thích hợp trong quá trình đổi mới.
Quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng không có lĩnh vực nào đòi hỏi
tính độc lập, tự chủ, sáng tạo cao như việc xác định phương pháp cách mạng.

1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG,H2001, tr26

2

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG,H2001, tr6
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006 tr 17

3


-3Việc lựa chọn phương pháp cách mạng thích hợp là vấn đề hết sức quan trọng
trong, bảo đảm cho cách mạng giành được những thắng lợi to lớn.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Trong những nước khác nhau,
những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều" 4. Hai ông đã nêu ra một
luận điểm quan trọng có tính chất phương pháp luận cho việc vận dụng lý luận
cách mạng vào hoàn cảnh cụ thể. Hai ông đã giải thích rõ rằng, bất cứ ở đâu và
bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tuỳ theo hoàn cảnh
lịch sử đương thời và do đó, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách
mạng. V.I.Lê nin cũng đã chỉ rõ: "Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã
hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa
xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau. Mỗi dân tộc sẽ đưa đặc
điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào
loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ
khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống
xã hội"5.
Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê nin và vận dụng sáng tạo vào điều
kiện hoàn hoàn cảnh của nước ta, Hồ Chí Minh đã căn dặn chúng ta: "Học tập
chủ nghĩa Mác-Lê nin là học tập cái tinh thần xử trí mọi công việc, đối với mọi

người và đối với bản thân mình; là học tập chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác
-Lê nin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể nước ta. Học để mà
làm, lý luận đi đôi với thực tiễn" 6. Như vậy, linh hồn của chủ nghĩa Mác –
Lênin là tính cách mạng, khoa học, nhưng sức sống mãnh liệt của học thuyết
này lại phụ thuộc vào sự vận dụng của mỗi Đảng công sản ở mỗi quốc gia, nếu
Đảng nào không vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin, thì đảng đó sẽ tự
“bóp chết” chủ nghĩa Mác- Lênin.
Thực tế cho thấy, không bao giờ có phương pháp cách mạng đúng cho
mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện dù ở nước này hay nước khác, thời kỳ này hay
thời kỳ khác. Sự dập khuông, máy móc, giáo điều là nguyên nhân kéo lùi sự
Mác - Ăng ghen, toàn tập, Nxb Sự thật, H1987, tập 4, tr 595
V.I.Lê nin, toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, M1981, tr 160
6
HCM, toàn tập, Nxb CTQG, H1996, tập 9, tr 292
4
5


-4phát triển của xã hội và tất yếu sớm hay muộn cách mạng sẽ bị thất bại. Thực
tiễn ở Liên Xô và Đông Âu cho thấy các nước đó đã không có được một
phương pháp cách mạng thích hợp nên công cuộc cải tổ, cải cách đã thất bại,
Đảng Cộng sản đã mất quyền lãnh đạo đất nước.
Như vậy, việc xác định đúng mục tiêu, phương hướng của mỗi thời kỳ
cách mạng là vấn đề có ý nghĩa quyết định trước tiên bảo đảm cho cách mạng
thắng lợi. Nhưng bằng con đường nào, với những hình thức, bước đi, cách làm
như thế nào để thực hiện mục tiêu, phương hướng đã định, vấn đề này cũng rất
quan trọng. Kinh nghiệm cho thấy: "Phong trào cách mạng có khi dẫm chân tại
chỗ, thậm chí thất bại nữa, không phải vì thiếu phương hướng và mục tiêu rõ
ràng, mà chủ yếu vì thiếu phương pháp cách mạng thích hợp"7.
Phương pháp cách mạng đúng là phương pháp phải đáp ứng được nhu

cầu lịch sử đòi hỏi; phải cho phép huy động lực lượng lớn tham gia cách mạng;
phải triệt để lợi dụng mâu thuẫn, phân hoá kẻ thù và phải đưa cách mạng đến
thắng lợi nhanh nhất, đỡ tốn kém, đạt hiêụ quả cao.
Tư tưởng đó Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách
sáng tạo ngay từ ngày thành lập Đảng trong Cương lĩnh chính trị năm 1930 đã
thể hiện rõ tinh thần độc lập, tự chủ sáng tạo trong xác định con đường cứu
nước và phương pháp cách mạng của nước ta, trong đấu tranh tổng khởi nghĩa
giành chính quyền 1945, trong xác định hình thức đấu tranh trong kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ, nhất là về xác định hình thức đấu tranh vũ trang và
đấu tranh chính trị cho phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng và từng vùng
chiến lược của của mỗi miền.
Hiện nay, sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta lại diễn ra trong
bối cảnh tình hình có nhiều biến đổi sâu sắc: cách mạng khoa học công nghệ
tiếp tục phát triển với nhip độ ngày càng cao; xu thế toàn cấu hoá về kinh tế lôi
cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp
và cuộc chiến chống khủng bố vẫn tiếp tục diến ra gay gắt và phức tạp. Trong
bối cảnh đó, Đảng ta phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo để nắm
7

Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng… Nxb Sự thật, H1976, tr 34


-5được thời cơ, vượt qua thách thức đưa công cuộc đổi mới đi lên giành thắng
lợi. Có được thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới, là cả một quá trình lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải trải qua một quá trình tìm tòi, thử
nghiệm, đấu tranh tư tưởng và tổng kết thực tiễn rất gian khổ mới hình thành
đường lối đổi mới của Đảng, từ những bước đột phá cục bộ về đổi mới tư duy
kinh tế đến hình thành và từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện
đồng bộ và triệt để. Nghị quyết Trung ương 6 khoá IV (8/1979) được đánh dấu
là bước đột phá, nó là người mở đường cho quá trình đổi mới với chủ trương

và quyết tâm của Đảng làm cho sản xuất "bung ra" do đó đã giải quyết được
nhiều vấn đề về kinh tế đời sống, xã hội. Hội nghị đã tập trung vào những biện
pháp nhằm khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội
chủ nghĩa; điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ rào cản, mở
đường cho sản xuất phát triển. Trên lĩnh vực nông nghiệp: Năm 1980 Đảng có
chủ trương khoán thí điểm sau đó (1/1981) có chỉ thị 100CT/TW của Ban Bí
thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người
lao động. Khoán 100 đã bước đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông
nghiệp, song trong qua trình thực hiện đã bộc lộ những hạn chế mà cần phải
khắc phục. Do vậy đến tháng 4/1988 mới có chỉ thị khoán 10 để đảm bảo tính
ổn định trong sản xuất nông nghiệp. Trên lính vực công nghiệp, bước đầu xác
định quyền tự chủ của cơ sở trong sản xuất, kinh doanh với chủ trương ba phần
kế hoạch: Nhà nước giao có vật tư bảo đảm; xí nghiệp tự làm; phần sản phẩm
phụ theo Quyết định 25/CP (1/1981) của Hội động Chính phủ, cùng với quyết
định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận
dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh được áp dụng.
Như vậy trong giai đoạn 1979 đến 1981 những chủ trương giải quyết
những vấn đề cấp bách mang tính chất tình thế nhưng đưa lại hiệu quả rất cao,
nó hé mở những tư duy đầu tiên cho quá trình đổi mới: về tư tưởng sản xuất
hàng hoá, tư tưởng kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường. Những chủ
trương đều đạt những kết quả, nhưng chưa vững chắc, nẩy sinh tiêu cực mới,


-6nó chưa đủ sức tháo gỡ tình hình đặt ra, đòi hỏi phải tìm phương hướng đổi
mới tốt hơn. Từ yêu cầu trên đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ, toàn diện, triệt để.
Bước đột phát thứ hai là trên cơ sở Đại hội V của Đảng đã hình thành tư
duy mới và quan niệm mới về chủ nghĩa xã hội, Hội nghị Trung ương 8 khoá V
(6/1985) với chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,
thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp;
chuyển mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh

xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan
trọng là Hội nghị đã thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản
xuất hàng hoá. Tháng 9/1985 cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền được thực
hiện. Nhưng quá trình thực hiện: tiền, lương, giá không phù hợp làm cho đất
nước lún sâu vào khủng hoảng làm cho lạm phát năm 1986 lên đến 774,7%. Từ
tình hình kinh tế xã hội như vậy, tháng 8/1986 Bộ Chính trị đã có kết luận đối
với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế: Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ
cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công
nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng được phát triển có chọn lọc; trong cải tạo xã hội
chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; trong cơ chế quản lý kinh tế lấy kế hoạch làm
trung tâm, nhưng đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá- tiền tệ, dứt
khoát xoá cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chính sách giá phải vận dụng quy
luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá.
Đại hội VI (12/1986) đánh dấu bước đột phá lớn, thời kỳ đổi mới đồng
bộ triệt để và toàn diện đất nước, bao gồm đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức-cán
bộ, đổi mới phương pháp lãnh đạo và phong cách công tác. Đại hội đặc biệt
nhấn mạnh phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; phải nắm vững quy
luật khách quan, lấy dân làm gốc. Đường lối Đại hội VI được hình thành trên
cơ sở phát huy tinh thần độc lập, tự chủ và tổng kết những kinh nghiệm sáng
tạo của toàn đất nước, đã xác định: Đổi mới là vấn đề khách quan là vấn đề
sống còn của chủ nghĩa xã hội. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu chủ
nghĩa xã hội mà là nhận thức đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện


-7mục tiêu đó bằng những hình thức, bước đi thích hợp. Đổi mới phải biết kế
thừa phát huy những thành đã đạt được, đồng thời biết sửa chữa những khuyết
điểm, hạn chế.
Đại hội VII (6/1991) đã thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" và "Chiến lược ổn định và phát triển kinh

tế xã hội đến năm 2000". Thành công lớn nhất của Đại hội VII đã chỉ ra sáu đặc
trưng và bảy phương hướng giải pháp cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VIII (6/1996) tiến hành tổng kết 10 năm đổi mới và khảng định
nước ta đã ra khỏi cuộc khủng khoảng và ra khỏi chặng đường đầu tiên tiếp
bước chặng đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quyết định chuyển
giai đoạn chiến lược này không chỉ sửa lại tư duy cũ về công nghiệp hoá mang
tính cực đoan trước đây, mà còn nâng cao nhận thức mới về sự phân kỳ quá độ,
về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội một cách đúng đắn có cơ sở khoa học
của Đảng ta, tạo cho nhân dân ta niềm tin và hy vọng, chuẩn bị hành trang cho
đất nước vững bước vào thiên niên kỷ mới.
Đại hội IX (4/2001) là Đại hội mở đầu thế kỷ XXI ở Việt Nam, với
phương hướng tổng quát là "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa". Với mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong giai
đoạn hiện nay là "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Đảng đã xác định rõ nội hàm bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là "bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu
và kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa".
Đại hội X của Đảng tiến hành tổng kết 20 năm đổi mới và khảng định:
“Hai mươi năm qua, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử”8. Văn kiện Đại hội X của Đảng còn nhận mạnh:
“Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, có sự thay đổi cơ bản và
8

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006 tr 17


-8toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại

hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh.
đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn
kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị – xã hội ổn định. Quốc
phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không
ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra
thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với trieưẻn vọng tốt đẹp”9
Đó là những bước đột phá quan trọng làm cơ sở để Đảng ta tìm ra con
đường, bước đi thích hợp nhằm phát triển và đi lên từng bước phù hợp với điều
kiện của một nước chậm phát triển như nước ta.
Qua thực tiễn của quá trình đổi mới từng bước từ thấp đến cao, từ đổi
mới từng bộ phận, từng mặt đến đổi mới toàn diện cho thấy Đảng ta với tư duy
độc lập, sáng tạo, với thái độ khách quan, khoa học, bám sát sự vận động của
tình hình thực tiễn, Đảng ta đã lựa chọn được những hình thức, bước đi, cách
làm phù hợp cho cách mạng nước ta, từng bước đưa sự nghiệp đổi mới của đất
nước ta giành những thắng lợi to lớn hơn.
2. Những vấn đề cơ bản của việc lựa chọn phương pháp cách mạng
thích hợp trong quá trình đổi mới.
Từ yêu cầu bức thiết của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trên cơ
sở tổng kết thực tiễn, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của các nước khác,
Đảng ta đã lựa chọn hình thức, bước đi, cách làm ở nước ta một cách phù hợp.
Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đồng bộ và triệt để, trong giai
đoạn đầu, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời với đổi mới kinh tế,
từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị,
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Coi trọng phát triển kinh tế làm nhiệm vụ
trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Trong chặng đường đầu đi
vào ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cho công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước ở chặng đường tiếp theo. Thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhưng phải có nội dung, bước đi đúng
9


Sđ d tr 17


-9đắn. Trong những năm đầu phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn; kết hợp nhiều trình độ công nghệ, đi vào công
nghệ tiên tiến ở những lĩnh vực, những nơi có điều kiện; ưu tiên những công
nghệ tạo được nhiều việc làm. Nội dung thể hiện trên một số vấn đề lớn sau:
Một là: Tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế.
Đảng ta xác định trước hết phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế bởi
vì xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin đã chỉ ra nhân tố quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội, xét đến cùng là sự sản xuất và tái sản
xuất ra đời sống hiện thực. Thực tế, từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX, nền
kinh tế của nước ta đã lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng. Nhất là sau cuộc
tổng điều chỉnh giá, lương, tiền lần thứ 2 (9/1985) không thành công, lạm phát
tăng vọt lên 774,7%, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Nếu không
khắc phục tình trạng đó thì chẳng những đất nước ta bị kìm hãm trong nghèo
nàn lạc hậu, mà vận mệnh của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng đứng
trước những khó khăn, thử thách rất lớn. Chính vì vậy, Đảng ta lựa chọn tập
trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế
xã hội. Đây chính là yêu cầu bức thiết của cuộc sống đang đặt ra, là nhiệm vụ
chính trị đặc biệt quan trọng của Đảng ta.
Bên cạnh đó, tình hình trên thế giới có nhiều vấn đề rất phức tạp, nhất là
sự khủng hoảng và sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên
xô, thành trì của cách mạng thế giới, lại là nước chiếm trên 90% quan hệ kinh
tế đối ngoại của nước ta, làm cho kinh tế đối ngoại của nước ta bị đảo lộn.
Trong khi đó Mỹ và các nước Phương Tây vẫn tiếp tục bao vây cấm vận nước
ta. Quan hệ Việt Nam với các nước Trung Quốc, Căm pu chia và các nước
ASEAN vẫn chưa được bình thường, thậm chí còn đối đầu căng thẳng. Sự
nghiệp đổi mới kinh tế của đất nước ta đứng trước thử thách rất lớn, đòi hỏi
phải phát huy tinh thần độc lập tự chủ, ý thức tự lực, tự cường rất cao, phải xuất

phát và bám sát thực tiễn trong nước và những biến đổi của thế giới để vận
dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tìm


- 10 ra những hình thức, bước đi thích hợp để ổn định nền kinh tế vốn đang gặp rất
nhiều khó khăn.
Thực tiễn cho thấy ở những đơn vị cơ sở có những hiện tượng "khoán
chui" trong các hợp tác xã nông nghiệp, hiện tượng "xé rào" trong các xí nghiệp
quốc doanh, từ chủ trương "làm cho sản xuất bung ra", những vấn đề đó đặt ra
cho Đảng ta phải có những bước tổng kết rút kinh nghiệm để có những hình
thức bước đi phù hợp cho sự phát triển nền kinh tế của đất nước. Hội nghị
Trung ương 6 khoá IV (8/1979) tư duy kinh tế của Đảng đã từng bước được
hình thành và phát triển, đến Đại hội VI (1986) Đảng ta đã có quan điểm tương
đối toàn diện, nhất là đến Đại hội IX của Đảng đã xây dựng được mô hình kinh
tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam: "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa"10.
Trong mô hình kinh tế, Đảng có sự phát triển trong nhận thức tư duy.
Đảng chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nhưng các thành
phần kinh tế có vị trí vai trò khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Trong đó
kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đảng ta chủ trương xoá
bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường
nhưng không tuyệt đối hoá, coi thị trường là "liều thuốc vạn năng". Trong cơ
chế ấy, phải giữ vững vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước để vừa khuyến
khích mặt tích cực, vừa để hạn chế được mặt tiêu cực của cơ chế, kết hợp hài
hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Những chủ trương chính sách của Đảng được cụ thể hoá bằng hệ thống
pháp luật, quy định của Nhà nước, từng bước đi vào cuộc sống, ổn định tình
hình kinh tế, đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoàn thành những
những nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế trong chặng đường đầu và bước sang thời kỳ

mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thắng lợi trên
lĩnh vực kinh tế đã tạo ra những tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ
10

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H2001, tr 96


- 11 vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng, vào con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã lựa chọn, tạo điều kiện
thuận lợi cho đổi mới các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Bàn về bước đi của thời kỳ quá độ, Đảng ta cho rằng thời kỳ quá độ ở
nước ta chia làm nhiều chặng đường, nhưng cho đến nay có 2 chặng đường mà
chúng ta đã và đang phải trải qua. Đó là chặng đường đầu tiên kéo dài khoảng
20 năm (1975-1995) là chặng đường chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Chặng thứ 2: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dự kiến
kéo dài 25 năm (1996-2020), nhằm biến nước ta cơ bản thành một nước công
nghiệp.
Trong chặng đường thứ 2, Đảng ta phân ra những bước quá độ nhỏ.
Bước 1 từ 1996 đến 2000 nhằm đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nền kinh tế. Bước này mang tính chất bản lề, quá độ từ chặng đầu đến
chặng thứ hai, cần tập trung coi trọng đặc biệt công nghiệp hoá nông nghiệp,
nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến, công nghiệp hàng tiêu dùng nhằm vừa đáp ứng nhu cầu cần thiết của nhân
dân, vừa đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nhanh tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế khoảng
25%. Một loạt những biện pháp được thực hiện tương đối đồng bộ, toàn diện
như: Nâng cấp, hiện đại hoá có trọng điểm kết cấu hạ tầng, xây dựng hành lang
pháp lý và hình thành khung thể chế cho sự vận hành nền kinh tế thị trường, cải
cách cơ bản hệ thống tài chính và ngân hàng, tạo thị trường vốn và thị trường
các yếu tố sản xuất, giải quyết việc làm, khống chế tăng dân số, chuyển mạnh
chất lượng giáo dục đào tạo. Đó là bước chuyển mạnh sang nền kinh tế thị

trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bước hai từ năm 2001 đến 2010 là bước phát triển công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nền kinh tế. Bước này nhằm đưa nước ta trở thành nước có nền kinh tế
phát triển đạt trình độ trung bình thế giới, có mức tăng trưởng GDP bình quân
đầu người tăng gấp đôi năm 2000. Biện pháp lúc này là phát triển mạnh công
nghiệp, công nghệ, kết cấu hạ tầng, kinh tế đối ngoại, dịch vụ để bảo đảm nhịp
độ GDP tăng bình quân hàng năm 8-10%. Phấn đấu đến năm 2010, tỷ trọng


- 12 nông nghiệp trong GDP chiếm dưới 20%, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ
chiếm trên 80%, sử dụng 50% sức lao động cùng với công nghệ và phương
pháp công nghiệp tiên tiến, hiện đại.
Bước ba từ năm 2010 đến năm 2020 là bước đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, hoàn thành về cơ bản quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, đưa nước ta vượt trình độ trung bình của các nước phát triển, tạo cơ sở và
điều kiện để từ đó tiến vào xã hội thông tin.
Hình thức, bước đi, cách làm của chúng ta trong thực hiện nhiệm vụ
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa hoàn toàn phù hợp với Việt Nam. Nó không
giống các nước, mà cũng khác với lối tư duy kiểu cũ về công nghiệp hoá của
trước thời kỳ đổi mới.
Hai là: Đồng thời với đổi mới về kinh tế, tiến hành từng bước đổi mới về
chính trị.
Kinh tế và chính trị là hai vấn đề lớn trong đời sống xã hội của đất nước.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là điều kiện cơ bản để giải
quyết các vấn đề khác của đời sống xã hội. Cho nên, quan điểm và tư tưởng
chỉ đạo nhất quán của Đảng ta là kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế
với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước
đổi mới chính trị. Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị là khâu then chốt của quá trình đổi mới. Hai lĩnh vực này có quan hệ
biện chứng, tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Chỉ có tập trung sức làm tốt đổi mới

kinh tế và đổi mới kinh tế thành công mới tạo ra những tiền đề vật chất và tinh
thần cần thiết để giữ vững ổn định chính trị. Ngược lại, đổi mới chính trị thành
công sẽ tạo điều kiện, môi trường và động lực để đổi mới kinh tế thắng lợi.
Lĩnh vực chính trị vốn là lĩnh vực phức tạp và cực kỳ nhạy cảm, đụng
chạm đến nhiều mối quan hệ xã hội. Nó đòi hỏi quá trình đổi mới nhất thiết
phải tiến hành từng bước, phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị nghiêm túc,
không xới tung nhiều vấn đề cùng một lúc khi chưa đủ điều kiện chín muồi,
không cho phép để xảy ra mất ổn định chính trị dẫn tới rối loạn xã hội. Nếu
chính trị không ổn định, bị rối loạn thì toàn bộ công cuộc đổi mới sẽ gặp rất


- 13 nhiều khó khăn, chúng ta sẽ không thực hiện được bất cứ sự đổi mới nào khác
mà chỉ tạo điều kiện cho các thế lực thù địch lợi dụng phản kích, lật đổ chế độ
xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ mọi thành quả cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã
tốn bao xương máu mới giành được. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở các nước
Đông Âu và Liên Xô đã để lại cho chúng ta bài học về vấn đề này.
Nhưng đổi mới chính trị lại rất cần thiết để thúc đẩy đổi mới kinh tế.
Chính trị phải được ưu tiên hàng đầu so với kinh tế. Không vì tính chất nhạy
cảm và phức tạp của chính trị mà chần trừ do dự, chậm đổi mới, làm cản trở đổi
mới kinh tế và các lĩnh vực khác. Chỉ có điều phải làm từng bước, thận trọng và
vững chắc, hướng tới đổi mới kinh tế và phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm là đổi
mới kinh tế.
Quá trình đổi mới chính trị được Đảng ta bắt đầu từ việc đổi mới tư duy
chính trị, đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Từ sự đổi mới đó mới dẫn tới những sự đổi mới khác. Khi bắt
đầu đổi mới, mặc dù chịu sự tác động và ảnh hưởng của nhiều luồng tư tưởng
khác nhau nhưng Đảng vẫn khẳng định: "Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ
nhận những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã
được xác định, trái lại, chính là bổ sung và phát triển những thành tựu ấy"11.

Từ những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những yêu cầu
khách quan của sự nghiệp đổi mới ở trong nước, Đảng ta chủ trương đổi mới,
kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Song khác
với các nước xã hội chủ nghĩa khác trong cải tổ, cải cách lúc đó, đổi mới hệ
thống chính trị ở nước ta không có nghĩa là thay đổi chế độ chính trị này bằng
chế độ chính trị khác, mà vấn đề cốt lõi là nhằm tăng cường sức mạnh hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính trị và chế độ của ta. Mấu chốt trong
đổi mới hệ thống chính trị nước ta là phân định rõ chức năng, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, bảo đảm cho quá trình hoạt động của các tổ
chức này không bị trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ. Vì vậy, một mặt phải
11

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H1987, tr 125


- 14 nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, bảo đảm cho Đảng vừa là một bộ phận
của hệ thống chính trị, không đứng trên, không đứng ngoài mà đứng trong hệ
thống chính trị. Đồng thời phải tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước cũng
như phát huy vai trò tích cực, chủ động của các đoàn thể nhân dân tham gia vào
quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính trị.
Cùng với việc đổi mới hệ thống chính trị, Đảng ta quan tâm mở rộng dân
chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" nhằm khơi dậy và
phát huy mọi tiềm năng của mỗi người, mỗi tổ chức tham gia vào quá trình đổi
mới, phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Mở rộng dân chủ phải kết hợp với tăng cường kỷ luật, kỷ cương.
Dân chủ phải có lãnh đạo. Kiên quyết xử lý mọi biểu hiện, hành động vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân, cũng như mưu toan lợi dụng "dân chủ", "nhân
quyền" để chống phá hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
Khi Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới, những tư tưởng đa nguyên

chính trị, đa đảng đối lập trên thế giới đã tác động mạnh và ảnh hưởng xấu đến
tình hình chính trị, tư tưởng ở nước ta. Các thế lực thù địch được dịp phản kích
quyết liệt hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Song với tư duy nhạy bén về
chính trị và bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng ta kiên quyết đấu tranh chống
lại những luồng tư tưởng sai trái, phản động, khẳng định đổi mới có nguyên
tắc, kiên định chủ nghĩa Mác-Lê nin, kiên định con đường mà Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Thắng lợi từng bước của sự nghiệp đổi mới, bản
lĩnh chính trị của Đảng đã giúp cho đất nước giữ được sự ổn định về chính trị
trong bối cảnh một thế giới đầy biến động. Đó là một thành công lớn của Đảng
ta.
Ba là: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt.
Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, Đảng ta xác định trước hết
phải làm tốt việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng, phát huy tốt hơn vai trò Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị. Đảng ta cho rằng, trong giai đoạn hiện nay, xây
dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt,


- 15 nhằm tăng cường và giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao
bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ đảng viên. Đảng phải được
xây dựng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ, kiên quyết khắc
phục các khuyết điểm, các biểu hiện tiêu cực, yếu kém, nhằm nâng cao nâng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng lên ngang tầm nhiệm vụ chính trị giai
đoạn mới. Trong xây dựng Đảng, Đảng đã từng bước phân định rõ chức năng
nhiệm vụ của mình trong hệ thống chính trị để bảo đảm cho Đảng lãnh đạo
hiệu quả hơn. Đảng đề ra đường lối, chủ trương chính sách và những giải pháp
lớn về những nhiệm vụ quan trọng để chính quyền Nhà nước tổ chức thực hiện.
Đảng chỉ quyết định những vấn đề về đường lối, quan điểm, phương hướng
lớn, Đảng không quyết định những chính sách và biện pháp cụ thể. Nhưng có
một số nhiệm vụ cụ thể có ý nghĩa quyết định đến sinh mệnh chính trị của quốc
gia, dân tộc, Đảng phải trực tiếp lãnh đạo như: Quốc phòng, an ninh, đối ngoại,

công tác lý luận, tư tưởng. Nhà nước thể chế hoá đường lối của Đảng thành
pháp luật, cụ thể hoá thành kế hoạch, chính sách, giải pháp cụ thể. Đảng kiểm
tra uốn nắn những sai sót, lệch lạc trong hoạt động của các cơ quan nhà nước,
các đoàn thể quần chúng. Điều có ý nghĩa quyết định để bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước là phải xây dựng các tổ chức của Đảng, đội ngũ
đảng viên trong sạch vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền
Nhà nước có phẩm chất, năng lực tốt để hoàn thành chức trách được giao.
Cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng mà Hội nghị Trung ương 6 lần
2 khoá VIII đã quyết đã được cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm sâu sắc
và tích cực hưởng ứng. Chúng ta cũng tạo ra được những chuyển biến lớn trong
toàn Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên so với
yêu cầu đề ra cũng còn nhiều mặt hạn chế, chưa đạt được. Phương hướng
chung của việc xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay: Tiếp tục phát huy truyền
thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên
phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch vững mạnh cả về chính trị,
tư tưởng, phẩm chất đạo đức, tổ chức cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo,
tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng làm tròn


- 16 trách nhiệm là đội tiên phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn mới.
Bốn là: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Trong quan hệ đối ngoại Đảng ta chủ trương: "Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các
quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển"12.
Nguyên tắc đối ngoại của Đảng ta là tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ
lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết các bất đồng
và tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành

động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Đại hội IX của Đảng đã xác định một nội dung rất quan trọng là phải xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh,
có hiệu quả và bền vững, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp.
Đại hội X của Đảng xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở,
đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác,
Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham
gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”13
Về nội dung xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đã được đề cập ở phần
đổi mới kinh tế. Đảng ta nhấn mạnh phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
nhưng không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Trái lại, Đảng
luôn luôn kết hợp nội lực với ngoại lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp của sự
nghiệp phát triển đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng chính là nhằm xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đáp ứng yêu cầu và lợi ích quốc gia, đồng thời
thông qua hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy vai trò và tiềm năng của nước ta
12
13

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H2001, tr 119
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H2006, tr 112


- 17 trong quá trình hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới, tranh thủ các
nguồn vốn, thiết bị, vật tư, thành tựu khoa học công nghệ, kiến thức và kinh
nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, tăng cường quan hệ hợp tác cùng có lợi.
Trong hội nhập kinh tế quốc tế phải nắm vững phương châm chủ động,
vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo, nhằm bảo vệ được lợi

ích chính đáng của ta, đồng thời tranh thủ được các thời cơ thuận lợi trong hội
nhập. Trong bất cứ tình huống nào cũng phải luôn luôn chủ động, giành thế chủ
động. Chủ động ngay từ nội dung, chủ trương, quyết sách, phạm vi, mức độ lộ
trình. Không để ai lôi kéo hoặc xô đẩy, chống lại các âm mưu lợi dụng nhằm
phá hoại chế độ ta. Trong hội nhập và trong quan hệ đối ngoại còn có một
nhiệm vụ phải thường xuyên chú trọng là nhằm tăng cường sức mạnh bảo vệ
Tổ quốc. Ông cha ta từ xa xưa đã biết dùng ngoại giao như một phương thức để
bảo vệ đất nước cả trong thời chiến cũng như trong thời bình. Từ khi nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời cho đến nay, tư duy đối ngoại Việt nam có bước
nhảy vọt về chất về tư duy chính trị: Tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh, đó
là phong cách ngoại giao kết hợp cổ, kim, đông, tây với những nét tinh hoa văn
hoá hết sức phong phú, tinh tế, độc đáo, đáp ứng yêu cầu đấu tranh của một dân
tộc nhỏ yếu, bảo vệ nền độc lập non trẻ. Tư duy ngoại giao Hồ Chí Minh đã tỏ
ra cực kỳ sắc bén, đã kết hợp thành công của nguyên tắc chiến lược với sự linh
hoạt về sách lược theo công thức: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến", đã có những
bước đi mà ngày nay chúng ta gọi là: "đa phương hoá" và "đa dạng hoá", thực
hiện được cao nhất yêu cầu "thêm bạn bớt thù" mà tình thế có thể cho phép.
Thực tiễn những năm đổi mới, Đảng ta đã chủ động đề xuất và thực hiện
nhiều giải pháp cho những vấn đề phức tạp nhất để phá vỡ sự bao vây cấm vận
của các thế lực thù địch: Bình thường hoá quan hệ Việt - Trung, chuyển từ đối
đầu sang đối thoại và hợp tác với các nước ASEAN, bình thường hoá quan hệ
với Mỹ, quan hệ hợp tác với các nước lớn, các tập đoàn kinh tế, các tổ chức
chính trị lớn, Sự kiện lớn nhất trong năm 2006 là nước ta đã trở thành, thành
viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Nhờ đó, chúng ta đã tạo


- 18 ra được môi trường thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa.
Năm là: Thường xuyên coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng an ninh.
Sau khi kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, Tổ quốc thống

nhất, giang sơn thu về một mối cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng chủ
nghĩa đế quốc đứng đầu là đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch chưa từ bỏ âm
mưu xâm lược Việt Nam, chúng tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta
trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Từ những năm 80 của thế
kỷ XX, nhất là sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước ở Đông Âu sụp
đổ, chúng ngày càng thúc đẩy chiến lược "diễn biến hoà bình" đối với cách
mạng nước ta. Đây là một chiến lược cơ bản, nhằm lật đổ chế độ chính trị xã
hội của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong,
chủ yếu bằng biện pháp phi quân sự. Việc phòng và chống chiến lược "diễn
biến hoà bình" để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân
dân, bảo vệ thành quả cách mạng, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới vì
mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là vấn đề
có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, là trách nhiệm của
cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trước những diễn biến mới của tình hình, Đảng ta đã kịp thời thay đổi tư
duy về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay có bước
phát triển. Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế,
quân sự, khoa học - công nghệ, văn hoá, đối ngoại; bảo vệ Đảng, Nhà nước và
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân, tạo thế chủ động chiến lược, đẩy lùi
ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình", đẩy lùi
và khắc phục nguy cơ đe doạ an ninh đất nước và toàn vẹn lãnh thổ, giữ môi
trường hoà bình ổn định lâu dài là nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách hàng đầu trong
bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: "Bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá, bảo vệ


- 19 Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự nghiệp đổi
mới và lợi ích quốc gia, dân tộc"14. Đảng ta cũng khẳng định: "Sức mạnh bảo

vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức
mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với
quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế trong các chiến lược,
quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Phối hợp hoạt động quốc
phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại"15.
Đại hội X của Đảng khảng định: “Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc độc lập chủ
quyền; thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an nhinh kinh tế, an ninh tư
tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ
vững ổn định chính trị của đất nước; ngăn lừa và đẩy lùi làm thất bại mọi âm
mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ”16
Đảng ta đã tích cực chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh, coi
đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân
ta. Xác định là lực lượng nòng cốt, Đảng luôn quan tâm xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân và công an nhân dân về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đồng
thời thực hiện có hiệu quả về điều chỉnh chiến lược và bố trí thế trận, tổ chức
biên chế lực lượng vũ trang trong thời bình. Xây dựng được mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh, đối phó có hiệu quả
âm mưu thủ đoạn "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của địch, làm vô hiệu
hoá các hoạt động chống đối trong và ngoài nước, kịp thời ngăn chặn và dập tắt
các vụ gây rối, bạo loạn chính trị.

14
15

16


ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H2001, tr 117
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H2001, tr 117
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H2001, tr 108-109


- 20 Việc kết hợp nhiệm vụ quốc phòng an ninh đã được kết hợp chặt chẽ
trong một chiến lược chung thống nhất và gắn bó mật thiết với các nhiệm vụ
kinh tế, chính trị, đối ngoại…
Sáu là: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu,
vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động của văn hoá nhằm
xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Văn hoá trở thành nhân tố
thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng
của dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Những phẩm chất trong con người Việt Nam vừa là sự tiếp nối
các giá trị truyền thống tốt đẹp và bền vững của dân tộc, vừa là đòi hỏi mới của
con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Độc lập tự chủ trong xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc làm cho nền văn hoá đủ sức ngăn ngừa, đẩy lùi sự xâm nhập của văn hoá
xấu độc, ngoại lai, ảnh hưởng tới đạo đức, lối sống, nhân cách con người và
truyền thống Việt Nam. Quá trình xây dựng nền văn hoá mới cũng là quá trình
không ngừng giới thiệu, quảng bá phát huy ảnh hưởng nền văn hoá Việt Nam
ra các nước trong khu vực và trên thế giới.
Bảy là: Giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Vấn đề xã hội là những vấn đề của từng quốc gia dân tộc. Đảng ta cho
rằng chỉ có độc lập, tự chủ sáng tạo, dựa vào sức mình là chính và xuất phát từ
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mình mới giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Quá trình lãnh đạo xây dựng phát triển kinh tế - xã hội, Đảng luôn xác
định tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Mọi chủ
trương chính sách của Đảng, Nhà nước phải xuất phát từ mục đích vì con

người, chăm sóc, bồi dưỡng, phát triển con người; đặt con người vào vị trí
trung tâm phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội. Thực hiện chính sách xã hội
hướng vào việc phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong
phân phối, tạo động lực phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, bình đẳng
trong quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp. Phát huy


- 21 truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong thực hiện chính sách xã hội. Thực hiện
xã hội hoá trong giải quyết chính sách xã hội, trong đó Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Chính sách xã hội trong những năm trước mắt cần tập trung giải quyết
vần đề dân số và việc làm; chính sách xoá đói giảm nghèo; chính sách tiền
lương và thu nhập; chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân; đấu
tranh phòng, chống tội phạm, các tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn mại dâm, ma tuý,
HIV, AIDS, xây dựng đời sống văn minh lành mạnh.
Nhìn lại 20 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân công cuộc đổi mới nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn
và có ý nghĩa lịch sử.. Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và có
sự thay đổi cơ bản và toàn diện; kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa được đẩy mạnh; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; hệ thống chính
trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc do Đảng lãnh đạo được củng cố và tăng
cường; sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên; vị thế nước ta trên
trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Những thành tựu đó chứng tỏ
đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Điều rất quan
trọng là sau 20 năm lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước
ta ngày càng tích luỹ thêm nhiều kinh nghiệm. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn.
Thực tiễn hơn 20 năm đổi mới, đảng ta đã tổng kết những bài học cực kỳ
quý báu: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách

làm phù hợp. Phải đổi mới toàn diện, từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực
tiễn, từ kinh tế, chính trị, quan hệ đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước đến hoạt động cụ thể
trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Phải đổi mới đồng bộ tất cả các mặt
của đời sống xã hội, nhưng không có nghĩa là làm đồng loạt, dàn đều, mà phải
có trọng tâm, trọng điểm, có sự tính toán cẩn thận các bước đi, hình thức, biện
pháp thích hợp. Lúc đầu, tập trung vào đổi mới kinh tế và từng bước đổi mới hệ


- 22 thống chính trị; tiếp theo, phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với đổi mới
hệ thống chính trị. Không xác định đúng bước đi, vội vã, hấp tấp sẽ gây mất ổn
định, thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công
cuộc đổi mới; ngược lại, quá chậm chạp trong việc đổi mới hệ thống chính trị
sẽ cản trở sự phát triển kinh tế cũng như toàn bộ công cuộc đổi mới. Phải bảo
đảm sự gắn kết, đồng bộ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây
dựng Đảng là then chốt với phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội.
Tư tưởng độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường được xuyên suốt trong các
bài học đó
Những thành tựu đạt được trên đây là kết quả của một quá trình tìm tòi,
đổi mới, bám sát thực tiễn, phấn đấu gian khổ của Đảng và nhân dân ta. Với
đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ, triệt để từ Đại hội VI của Đảng, đã phát
huy tinh thần độc lập, tự chủ, tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo của nhân
dân, của các cấp, các ngành, hợp quy luật, thuận lòng dân nên đã nhanh chóng
đi vào cuộc sống.Những thành tựu quan trong đó đã khẳng định đường lối đổi
mới là đúng đắn, hình thức bước đi, cách làm trong đổi mới là phù hợp, đồng
thời là cơ sở giúp Đảng ta có thêm nhận thức mới, kinh nghiệm mới về con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam. Những vấn đề cơ bản
liên quan trực tiếp đến lý luận và thực tiễn về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, đã được Đảng chỉ ra những điều đã rõ, đã sáng tỏ hơn và cả
những điều còn phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung và phát

triển hoàn thiện thêm.
Sự lựa chọn bước đi, hình thức, cách làm phù hợp, đúng đắn của Đảng
trong quá trình đổi mới vừa mang những đặc điểm chung, vừa thể hiện những
nét riêng biệt, khác với cải cách, cải tổ ở các nước xã hội chủ nghĩa. Lựa chọn
hình thức, bước đi, cách làm thực chất là lựa chọn phương pháp, cách thức tiến
hành đổi mới sao cho có hiệu quả. Quá trình đó luôn phải đối mặt với những
lực cản, trở ngại, thậm chí là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch,
phản cách mạng. Vì vậy, một mặt phải kiên định lập trường, dựa chắc trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm của


- 23 nước ngoài nhưng không giáo điều, dập khuôn máy móc. Đồng thời phải bám
sát thực tiễn, kịp thời xử lý đúng đắn những vấn đề mới nẩy sinh. Kiên quyết
đấu tranh chống lại mọi khuynh hướng giáo điều, bảo thủ, cơ hội, xét lại, chủ
quan, duy ý chí. Đó là những khuynh hướng gây tổn hại, thậm chí là đổ vỡ sự
nghiệp đổi mới, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Quá trình đổi mới mà do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong một bối
cảnh thế giới đầy biến động thực sự là một cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện
và triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng ta mới chỉ đi qua
chặng đường đầu và đang tiến sang bước thứ hai của chặng đường thứ hai. Chỉ
mới những bước khởi đầu ấy, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn,
đem lại niềm phần khởi, tin tưởng cho toàn Đảng, toàn dân tộc tiếp tục vững
bước trên con đường mà Đảng, Bác Hồ, lịch sử đã chọn, nhằm xây dựng Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa sánh vai với các cường quốc năm châu, mang
lại độc lập vững chắc cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho nhân dân. Chúng ta tự
hào về Đảng ta, một Đảng cách mạng, kiên cường, tài giỏi. Với tinh thần độc
lập, tự chủ sáng tạo, Đảng ta đã nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, lựa chọn bước đi, hình thức,
cách làm phù hợp, từng bước đưa cách mạng nước ta tiến từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng,

toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng thành công và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đưa sự nghiệp đổi mới
của Đảng đi đến thắng lợi cuối cùng.



×