Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

báo cáo đề tài môn triết tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.71 KB, 34 trang )

BÁO CÁO ĐỀ TÀI MÔN
TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI 1:
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, trong
các cơ sở đó, cơ sở nào quyết định bản chất cách mạng
và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đề tài 2:
Vận dụng những chuẩn mực đạo đức trong tư
tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đạo đức lối sống
cho sinh viên hiện nay
1
MỤC LỤC
Trang
Đề tài 1…………………………………………………………………….4
A. Mở đầu 4
B. Nội dung 5
I. Khái quát về tư tưởng hồ chí minh 5
1. Khái niệm tư tưởng 5
2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh 5
II Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh …….5
1. Nhân tố khách quan 5
1.1 Bối cảnh xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh 5
a. Tình hình thế giới 6
b. Tình hình Việt Nam 7
1.2 Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh 8
a. Giá trị truyền thống dân tộc 8
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại 9
2
c. Chủ nghĩa Mác -Lênin 11
2. Nhân tố chủ quan …12
III. Nhân tố quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí


Minh 12
1. Chủ nghĩa Mác -Lênin 12
2. Con người Hồ Chí Minh 15
a. Khả năng tư duy và trí tuệ của Hồ Chí Minh 15
b. Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn 16
C. Kết luận 18
Đề tài 2……………………………………………………………………19
Lời mở đầu……………………………………………………………… 20
I. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên………… 21
1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức…………………………21
2. Sinh viên học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh ……………… 21
2.1. Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức cá nhân………………… 21
2.2. Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh…………… 22
2.3. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh…………… ……23
II. Xây dựng lối sống mới phù hợp cho sinh viên hiện nay………………25
1. Thực trạng đạo đức, lối sống sinh viên hiện nay…………… 25
1.1. Những ảnh hưởng tích cực…………………… ………………………… 25
1.2. Những ảnh hưởng tiêu cực…………………………………………………28
2, Xây dựng đạo đức, lối sống mới phù hợp cho sinh viên hiện nay………… 28
3
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………32

ĐỀ TÀI 1:
Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, trong các cơ sở đó, cơ sở nào
quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
A. MỞ ĐẦU

Hồ Chí Minh đã có những đóng góp to lớn về lý luận và tư tưởng cho nhân loại . Tư
tưởng đó vẫn vẹn nguyên giá trị thời đại.
Trong thế giới ngày nay, khó tìm đâu ra một nhân vật đã "trở thành huyền thoại ngay khi

còn sống", một con người hội đủ khát vọng của các dân tộc dù màu da, tiếng nói, chủng tộc, tôn
giáo, văn hóa khác nhau….
Tổng bí thư Nông Đức Mạnh nêu rõ: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn, là ngọn cờ chói
lọi lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên
những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc. Tư tưởng Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô giá sẽ
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, của nhân dân ta. Chúng ta phải tiến
hành cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” một cách sâu rộng,
4
thiết thực, hiệu quả trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội, khơi dậy và phát huy các giá trị
đạo đức, truyền thống tốt đẹp, đấu tranh khắc phục sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống; chặn đứng, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội.
Để “Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, chúng ta cần nắm được cơ sở hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh, trong các cơ sở đó, cơ sở nào quyết định bản chất cách mạng và
khoa của tư tưởng Hồ Chí Minh.
B. NỘI DUNG

I. Khái quát về tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Khái niệm tư tưởng.
Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm “tư tưởng” không phải là ý thức tư
tưởng của một cá nhân, một cộng đồng mà có nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan
niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học (thế giới qua và phương pháp luận)
nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, được hình thành trên
cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
2. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh.
Dựa trên những định hướng cơ bản của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng Cộng Sản Việt Nam, các nhà khoa học đã dưa ra định nghĩa: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt
Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, là kết quả của sự
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác -Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng
thời là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai

cấp và giải phóng con người”.
5
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: tư tưởng về vấn đề dân tộc; về chủ nghĩa vã hội và con
đường đi lên chú nghĩa xã hội; về Đảng Cộng Sản Việt Nam; về đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết
quốc tế; về dân chủ, Nhà nước của dân, do dân, vì dân; về văn hóa, đạo đức,v.v
II. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
1. Nhân tố khách quan.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là sản phẩm chủ quan, phản ánh tâm lý, nguyện vọng
của nhân dân Việt Nam đổi với lãnh tụ kính yêu của mình. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm
tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan và sự giải đáp những nhu cầu bức
thiết do cách mạng đặt ra từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác động, ảnh hưởng của những điều kiện
lịch sử - xã hội cụ thể của dân tộc và thời đại mà Ngừơi đã sống và hoạt đông. Thiên tài của Hồ
Chí Minh là ở chỗ Người đã nắm bắt chính xác xu hướng phát triển của thời đại để tìm ra con
đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc mình.
1.1. Bối cảnh xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Tình hình thế giới.
Hồ Chí Minh bước vào vũ đài chính trị khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã bước
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Năm 1912, Hốp-xơn (người Anh) đã mô tả tường tận đặc điểm
kinh tế - chính trị của chủ nghĩa đế quốc. Lênin dựa trên quan điểm của Hốp-xơn đưa ra định
nghĩa nói về bản chất của chủ nghĩa đế quốc gắn liền đặc điểm kinh tế là các nước lớn xâm
chiếm thuộc địa và chia nhau xong đất đai thế giới. Theo Lênin, thế giới phân chia đa số (70%)
các dân tộc bị áp bức, số ít (30%) các dân tộc đi áp bức. Đặc điểm chung là diện tích và dân số
các thuộc địa lớn gấp nhiều lần so với diện tích và dân số các nước chính quốc. Đây là tư tưởng
cơ bản của Quốc tế cộng sản và là cơ sở để chỉ đạo cách mạng thế giới. Tại Đại hội V quốc tế
cộng sản (1924) Hồ Chí Minh đã đưa ra con số đầy thuyết phục như: thuộc địa của Anh lớn gấp
252 lần diện tích nước Anh, dân số thuộc địa Anh lớn gấp 8,5 lần dân số nước Anh.
Bên cạnh mâu thuẫn vốn có là mâu thuẫn giữa Tư sản và Vô sản, khi chủ nghĩa tư bản
chuyển tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa vừa tranh giành, xâm chiếm thuộc địa
vừa nô dịch các dân tộc thuộc địalàm sâu sắc hơn cái mâu thuẫn vốn có, làm nảy sinh mâu thuẫn

mới là mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa và các nước Chủ nghĩa Đế quốc, phong trào giải
phóng dân tộc dâng lên mạnh mẽ nhưng chưa ở đâu giành được thắng lợi. Chủ nghĩa Mác-Lê nin
6
phát triển mạnh mẽ, sâu rộng, thâm nhập vào phong trào cách mạng thế giới, trở thành hệ tư
tưởng tiên tiến của thời đại.
Chủ Nghĩa Tư bản phát triển không đều, một số nước Tư bản gây chiến tranh chia lại
thuộc địa dẫn tới Chiến tranh thế giới thứ nhất (8-1914 đến 11-1918), và nó là một nguyên nhân
bùng nổ cuộc Cách Mạng Tháng 10 (1917). Thắng lợi của Cách Mạng Tháng 10 Nga với sự ra
đời của nhà nước công nông đầu tiên đã mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ Chủ Nghĩa Tư
Bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội trên phạm vi quốc tế thúc đẩy sự phát triển của phong trào giải phóng
dân tộc trên toàn thế giới, làm phát sinh mâu thuẫn mới giữa Chủ Nghĩa Tư Bản và Chủ Nghĩa
Xã hội.
Sự xuất hiện chủ nghĩa Lênin có vai trò quan trọng đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minhvà tạo tiền đề bỏ qua Chủ Nghĩa Tư Bản lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam.Tư tưởng Hồ Chí
Minhđược hình thành dần dần từ cảm tính đến lý tính nhằm tìm ra con đường giải phóng cho dân
tộc Việt Nam. Việc xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh là nhu cầu tất yếu khách quan của cách
mạng Việt Nam.
b. Tình hình Việt Nam
* Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Xã hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược là xã hội phong kiến độc lập, nền nông nghiệp
lạc hậu, trì trệ.Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản
động… không mở ra khả năng cho Việt Nam cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế
giới. Không tạo ra tiềm lực vật chất và tinh thần đủ sức bảo vệ Tổ quốc, chống lại âm mưu xâm
lược của chủ nghĩa thực dân.
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam (1858) và Hiệp định Patơnốt (1884) được ký kết,
xã hội Việt Nam bước sang giai đoạn mới và trở thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Trong
lòng xã hội thuộc địa, mâu thuẫn mới bao trùm lên mâu thuẫn cũ, nó không thủ tiêu mâu thuẫn
cũ mà là cơ sở để duy trì mâu thuẫn cũ, làm cho xã hội Việt Nam càng thêm đen tối. Các phong
trào vũ trang kháng chiến chống Pháp rầm rộ, lan rộng ra cả nước… lãnh đạo họ là các sĩ phu
văn thân mang cốt cách phong kiến nhưng đều thất bại: như Trương Định, Đồ Chiểu, Thủ Khoa

Huân. Nguyễn Trung Trực (Nam Bộ); Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng, Trần Tấn, Đặng Như
Mai.
Đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có sự phân hóa sâu sắc: giai cấp công nhân, Tư sản dân
tộc, tiểu tư sản ra đời, các cuộc cải cách dân chủ tư sản ở Trung Quốc của Khang Hiểu Vi, La
7
Khải Siêu (dưới hình thức Tân Thư, Tân Sinh) tác động vào Việt Nam làm cho phong trào yêu
nước chống Pháp chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản gắn với phong trào Đông Du, Việt
Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu, Đông Kinh Nghĩa Thục của Lương Văn Can, Nguyễn
Quyền, Duy Tân của Phan Chu Trinh,… do các sĩ phu phong kiến lãnh đạo. Nhưng do bất cập
với xu thế lịch sử nên đều thất bại. Tình hình đen tối như không có đường ra.
Chính lúc đó Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện. Mặc dù rất khâm phục, nhưng người không
đồng tình với con đường cứu nước của các sĩ phu, văn thân yêu nước. Người đã quyết tâm ra đi
tìm con đường cứu nước mới.
* Quê hương và gia đình
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, gần gũi với nhân dân, cụ Phó bảng
Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Người là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân
sâu sắc… Ông chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách về chính trị, xã hội của
mình.Hồ Chí Minh đã tiếp thu một cách sâu sắc tư tưởng thương dân của người cha. Sau này gặp
trào lưu tư tưởng mới của thời đại đã được nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính
trị của Người “lấy dân làm gốc”. Bà Hoàng Thị Loan là một người phụ nữ Việt Nam giàu lòng
nhân hậu, chịu thương chịu khó. Các anh và chị của Người cũng tham gia các hoạt động yêu
nước chống Pháp, bị bắt, giam cầm và lưu đầy nhiều năm.
Nghệ Tĩnh, nơi Người sinh ra cũng là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống giặc
ngoại xâm và cũng là quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử chống giặc ngoại
xâm (Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung…); các lãnh tụ yêu nước cận đại (Phan Đình
Phùng, Phan Bội Châu,…) và biết bao con người ưu tú khác của dân tộc VN.
Hơn nữa ngay từ nhỏ Người đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị bóc lột đến
cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương.Những năm ở Huế, Người đã tận
mắt nhìn thấy tội ác của bọn thực dân và thái độ ươn hèn, bạc nhược của bọn quan lại Nam triều.
Tất cả những điều đó đã thôi thúc Người phải sớm ra đi tìm một con đường mới để cứu

dân, cứu nước
1.2. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
a. Giá trị truyền thống dân tộc.
Dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho
mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống tốt đẹp, cao quý.
8
- Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước. Từ văn
hóa dân gian đến văn hóa bác học, từ nhân vật truyền thuyết đến các tên tuổi sáng ngời trong lịch
sử: Hai Bà Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,… đều đã phản ánh chân lý đó một
cách hùng hồn. chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam. Chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam được hun đúc nên bởi cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân
dân Việt Nam. Bởi vậy, ở mỗi người dân Việt Nam gắn mình với vận mệnh của Tổ quốc, của dân
tộc thì chủ nghĩa yêu nước ấy lại nhân sức mạnh của bản thân, biến thành một sức mạnh thúc đẩy
mình vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm, mọi thử thách gian nan. Chính từ thực tiễn, Hồ Chí
Minh đã đúc kết chân lý ấy: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống
quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trở
thành động lực tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời Hồ Chí
Minh - Nguyễn Ái Quốc, là cơ sở dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác -Lênin, tiếp thu lý luận cách
mạng và khoa học đó, để thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, hoài bão của các thế hệ cách
mạng Việt Nam. “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã
đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Và khi Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường
cứu nước đúng đắn thì chủ nghĩa yêu nước được nâng lên một tầm cao mới: giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người.
- Tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá rách”
trong hoạn nạn, khó khăn. Truyền thống này được hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ
hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Bước sang thế
kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam có sự phân hóa về giai cấp, truyền thống này vẫn bền vững. Vì
vậy Người đã chú ý kế thừa, phát huy sức mạnh của truyền thống nhân nghĩa, nhấn mạnh bốn

chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
- Truyền thống đoàn kết, đoàn kết là sự gắn bó, hợp tác với nhau để tạo nên sức
mạnh. Truyền thống đoàn kết được hình thành cùng với sự hình thành của dân tộc Việt Nam và là
nguồn cội của sức mạnh dân tộc Việt: Đoàn kết gia đình, đoàn kết cộng đồng và dòng họ, đoàn
kết trong cộng đồng làng xã, đoàn kết quốc gia dân tộc,…
- Dân tộc Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong sản
xuất và chiến đấu, đồng thời cũng là một dân tộc ham học hỏi, cầu tiến bộ, không ngừng mở
9
rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại, từ Nho, Phật, Lão của phương Đông đến tư
tưởng văn hóa hiện đại của phương Tây. Trên cơ sở giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã
biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị của
riêng mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó.
b. Tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hồ Chí Minh xuất thân trong gia đình khoa bảng, từ nhỏ Người đã được hấp
thụ một nền Quốc học và Hán học khá vững vàng.Khi ra nước ngoài, Người không ngừng làm
giàu trí tuệ mình bằng tinh hoa văn hóa của nhân loại.
∗ Văn hoá phương Đông: Người đã tiếp thu tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, và tư
tưởng tiến bộ khác của văn hoá phương Đông.
- Nho giáo: Nho giáo nói chung và Khổng giáo nói riêng là khoa học về đạo đức và
phép ứng xử, tư tưởng triết lý hành động, lý tưởng về một xã hội bình trị. Đặc biệt, Nho giáo đề
cao văn hoá, lễ giáo và tạo ra truyền thống hiếu học trong dân. Đây là tư tưởng tiến bộ hơn hẳn
so với các học thuyết cổ đại. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng phê phán Nho giáo có tư tưởng tiêu
cực duy tâm, lạc hậu, như bảo vệ chế độ phong kiến, phân chia đẳng cấp -quân tử và tiểu nhân,
trọng nam khinh nữ, chỉ đề cao nghề đọc sách. Hồ Chí Minh đã chịu ảnh hưởng của Nho giáo rất
nhiều dựa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
- Phật giáo: Phật giáo vào Việt Nam từ sớm và có ảnh hưởng rất mạnh đối với Việt Nam.
Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu
nạn, thương người như thể thương thân ; là nếp sống có đạo đức,trong sạch, giản dị,chăm lo
làm việc thiện; là tinh thần bình đẳng, dân chủ, chống phân biệt đẳng cấp; là việc đề cao lao
động, chống lười biếng “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”;là chủ trương sống không xa lánh

việc đời mà gắn bó với các dân, với nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân chống
kẻ thù dân tộc.
Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn kế thừa nhiều tư tưởng của các nhà tư tưởng phương Đông
như: Lão tử, Mặc tử, Quản tử. Đặc biệt là tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn (dân tộc độc lập,
dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc).
Người viết : “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo
Giê xu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.Chủ nghĩa Mác –Lê nin có ưu điểm là phương pháp
làm việc biện chứng.Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều
kiện nước ta.
10
∗ Không những vậy, Hồ Chí Minh còn nghiên cứu tiếp thu ảnh hưởng của nền văn hóa
dân chủ và cách mạng phương Tây.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách mạng phương
Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách
mạng Pháp (1791), tư tưởng dân chủ, về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc
trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776). Trước khi ra nước ngoài, Bác đã nghe thấy ba từ Pháp:
tự do, bình đẳng, bác ái. Lần đầu sang Pháp Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh, nhân cách phẩm
chất cao thượng, tư duy độc lập tự chủ. Người đã nhìn thấy mặt trái của “lý tưởng” tự do, bình
đẳng, bác ái. Người cũng tiếp thu tư tưởng của những nhà Khai sáng Pháp như: Voltaire, Rousso,
Montesquieu.
Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn của phương Tây, Người quan niệm Tôn giáo là văn hoá.
Điểm tích cực nhất của Thiên chúa giáo là lòng nhân ái. Hồ Chí Minh tiếp thu có chọn lọc tư
tưởng văn hoá Đông - Tây để phục vụ cho cách mạng Việt Nam. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ
có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời
trước để lại.”
c. Chủ nghĩa Mác -Lênin.
Chủ nghĩa Mác Lê Nin là đỉnh cao trí tuệ nhân loại bao gồm 3 bộ phận cấu thành:
Triết học giúp Hồ Chí Minh hình thành thế giới quan, phương pháp biện chứng, nhân
sinh quan, khoa học, cách mạng, thấy được những quy luật vận động phát triển của thế giới và xã
hội loài người.

Kinh tế chính trị học vạch rõ các quan hệ xã hội được hình thành phát triển gắn với quá
trình sản xuất, thấy được bản chất bốc lột của chủ nghĩa Tư bản đối với công nhân, xóa bỏ bóc
lột gắn liền với xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và sự chuyển biến tất yếu của xã hội
loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Chủ Nghĩa xã hội khoa học vạch ra quy luật phát sinh, hình thành, phát triển của hình thái
kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, những điều kiện, tiền đề, nguyên tắc, con đường, học thức,
phương pháp của giai cấp công nhân, nhân dân lao động để thực hiện sự chuyển biến xã hội từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cộng sản.
Như vậy, chủ nghĩa Mác Lê Nin với bản chất Cách mạng và khoa học của nó giúp Người
chuyển biến từ Chủ nghĩa yêu nước không có khuynh hướng rõ rệt thành người cộng sản, chủ
nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
11
thấy vai trò của quần chúng nhân dân, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, liên minh công
nông trí thức và vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản trong cách mạng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, bảo đảm thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản.
2. Nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh là người có đầu óc thông minh sáng suốt, năng lực tư duy độc lập, sáng
tạo, học vấn uyên bác, năng lực phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp sâu sắc suốt trong việc
nghiên cứu, tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới.
- Có ý chí nghị lực kiên cường, những phẩm chất được tôi luyện đã quyết định việc Hồ
Chí Minh tiếp thu, chọn lọc, chuyển hóa, phát triển những tinh hoa của dân tộc, thời đại thành
những tư tưởng đặc sắc độc đáo của mình.
- Có tấm lòng yêu nước, thương dân, thương yêu những con người cùng khổ vô bờ bến,
một chiến sĩ cộng sản quả cảm, nhiệt thành sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc, nhân dân, dân tộc và
nhân loại.
- Người không ngừng học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức vốn trí thức đồ sộ của nhân
loại, tiếp thu kinh nghiệm, bề dày của phong trào cộng sản và chủ nghĩa quốc tế, phong trào giải
phóng dân tộc. Nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của Hồ Chí Minh đã giúp Người đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu được các giá trị văn hoá nhân loại.

III. Nhân tố quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư
tưởng Hồ Chí Minh.
1. Chủ nghĩa Mác -Lênin
Chủ nghĩa Mác -Lênin là nhân tố ảnh hưởng và tác động quyết định đến quá
trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cơ sở hình thành
thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ Chí Minh, nhờ đó mà Nguyễn
ái Quốc -Hồ Chí Minhđã có bước phát triển về chất từ một người yêu nước trở
thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn. Chính
trên cơ sở của lý luận Mác -Lênin đã giúp Người tiếp thu và chuyển hoá những
nhân tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và của nhân loại để
tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử. Vì vậy, trong
12
quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác –Lê nin có vai trò to
lớn, là cơ sở, nguồn gốc chủ yếu nhất.
Chủ nghĩa Mác -Lênin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, của các Đảng cộng sản và công nhân trong đấu tranh xóa bỏ
mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác -Lênin. Đối với Người,
đến với chủ nghĩa Mác -Lênin cũng có nghĩa là đến với con đường cách mạng vô
sản. Từ đây, Người tìm thấy con đường cứu nước chân chính, triệt để: "Muốn cứu
nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô
sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai
cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách
mạng thế giới".
Đến với chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có bước
nhảy vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp dân
tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa yêu nước lên
một trình độ mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác -Lênin.Trong suốt cuộc đời

hoạt động của mình, Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Chủ nghĩa Mác -Lênin là chủ
nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất, "muốn cách mạng thành
công, phải đi theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và chủ nghĩa Lê-nin". Đối với Người, chủ
nghĩa Mác -Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để giải quyết
những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ xa rời chủ nghĩa Mác –Lê
nin, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác -Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại"
Ở luận điểm này, có hai vấn đề cần làm rõ:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác -Lênin, lấy chủ
nghĩa Mác -Lênin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự kế thừa,
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật là chủ nghĩa yêu
13
nước, tinh thần đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương
Đông và phương Tây. Hồ Chí Minh đã từng tỏ rõ thái độ của mình đối với việc học
tập, tiếp thu những học thuyết của các lãnh tụ chính trị, xã hội, tôn giáo trong lịch
sử. Người nói: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân.
Tôn giáo Giê su có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn
Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác -Lênin, bắt nguồn chủ
yếu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng không hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa Mác
- Lênin, mà là sự tổng hòa, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa truyền thống Việt
Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác -Lênin, trên nền tảng chủ nghĩa
Mác -Lênin.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác -Lênin Vậy sự vận dụng và phát triển sáng tạo đó như thế
nào?
Luận điểm sáng tạo lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh là luận điểm về chủ nghĩa thực

dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Những tác phẩm của Người là "Bản án chế độ
thực dân Pháp" (xuất bản năm 1925) và "Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông
Dương" đã vạch trần bản chất và những thủ đoạn bóc lột, đàn áp, tàn sát dã man
của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa, nêu rõ nỗi đau khổ, của
kiếp nô lệ, nguyện vọng khát khao được giải phóng và những cuộc đấu tranh của
các dân tộc thuộc địa.
Khi phân tích xã hội của các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng
quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin một cách
sáng tạo, chủ yếu xuất phát từ mâu thuẫn cơ bản của các nước thuộc địa, đó là mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc, thực dân thống trị và bè lũ tay sai với toàn thể nhân
dân, dân tộc, không phân biệt giai cấp, tôn giáo Theo Người, ở Việt Nam cũng
như ở các nước phương Đông, do trình độ sản xuất kém phát triển nên sự phân hóa
giai cấp và đấu tranh giai cấp không giống như ở các nước phương Tây. Từ đó,
Người có quan điểm hết sức sáng tạo là gắn chủ nghĩa dân tộc chân chính với chủ
nghĩa quốc tế, và nêu lên luận điểm: "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất
14
nước". Người còn cho rằng, chủ nghĩa dân tộc nhân danh Quốc tế Cộng sản là "một
chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời".
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp.Người khẳng định, phải đi từ giải
phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp; dân tộc không thoát khỏi kiếp ngựa trâu thì
ngàn năm giai cấp cũng không được giải phóng. Đường lối của cách mạng Việt Nam
là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến lên
chủ nghĩa xã hội; kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ bản
của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên
minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Cũng từ luận điểm cơ bản đó, Hồ Chí Minh đã có những phát hiện sáng tạo về Đảng
Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông dân chiếm đa số dân cư; xác
định quy luật hình thành của Đảng là kết hợp chủ nghĩa Mác -Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước". Đảng vừa đại diện cho lợi ích của giai cấp,

vừa đại diện cho lợi ích của dân tộc.
Xuất phát từ nhiệm vụ cơ bản, hàng đầu của Cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế
quốc, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã
xác định: phải giành chính quyền bằng bạo lực, bằng khởi nghĩa vũ trang và chiến
tranh cách mạng nếu kẻ thù ngoan cố, không chịu hạ vũ khí.
Kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc, học tập kinh nghiệm hoạt động quân sự
của thế giới và của các Đảng anh em, tổng kết thực tiễn đấu tranh vũ trang, chiến
tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Người đã
sáng tạo ra học thuyết quân sự hiện đại của Việt Nam. Trong đó, nổi bật là quan
điểm về chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân, toàn diện, trường kỳ; về xây
dựng lực lượng vũ trang toàn dân với ba thứ quân chủ lực, địa phương, dân quân tự
vệ; về nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, hiện đại
Về vấn đề chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, trước hết, Người khẳng định: Sau khi cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ, chúng ta nhất định phải quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chúng ta mới thực sự giải phóng được dân tộc, xã hội và con người.
Vì vậy, chủ trương tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (miền Bắc quá độ
15
lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc
và cách mạng dân tộc dân chủ) là một sáng tạo lớn, có tính cách mạng cao và phù
hợp với thực tiễn đất nước.
Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là "từ
một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng
ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền
Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại,
có văn hóa và khoa học tiên tiến".

2. Con người Hồ Chí Minh.
a. Khả năng tư duy và trí tuệ của Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm phong phú thêm hiểu biết
của mình, hình thành nên những cơ sở quan trọng để tạo nên những thành công trong những lĩnh
vực hoạt động lý luận.
Người cũng đã khám phá ra quy luật hoạt động vận động của xã hội, đời sống văn hóa
và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, đem lý luận
cỉ đạo thực tiễn và được chỉ đạo trong thực tiễn. Nhờ vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá
trị khách quan, cách mạng và khoa học.
b. Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt đông thực tiễn
Phong cách độc lập, tự chủ, sáng tạo là đặc trưng nổi bật, bao trùm nhất, điển hình cho
phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Đặc trưng này được thể hiện ngay khi người còn ngồi trên ghế
nhà trường, cho đến khi lựa chọn con đường cứu nước.Chính nét đặc sắc này đã làm nên phong
cách tư duy của người vừa mang tính độc lập vừa có tính thời đại, vừa có giá trị phổ biến bền
vững vừa có tính độc lập rất riêng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một người giàu trí tuệ mà còn là một người giàu tình
cảm, có ý chí nghị lực phi thường. Ở người, ý chí, tình cảm cách mạng và tri thức khoa học
thống nhất trong tư duy, trong hành động và trong quá trình vạch ra đường lối cho cách mạng
Việt Nam.
16
Mọi suy nghĩ, sáng tạo của người đều xuất phát từ thực tiễn, cách mạng và thời đại. Xuất
phát từ yêu cầu của thực tiễn mà người đưa ra những luận điểm đúng đắn nhằm giải quyết
những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một vĩ nhân với phong cách tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo gắn với thực tiễn là bởi vì người “đã biết làm giàu vốn trí tuệ của mình bằng những di
sản quý báu của văn hóa nhân loại. Người biết kế thừa các học thuyết một cách có phê phán,
chọn lọc, không bao giờ sao chép máy móc cũng không bao giờ phủ nhận một cách giản đơn mà
có sự phân tích sâu sắc để tìm ra yếu tố tích cực, làm giàu thêm vốn kiến thức và hành trang tư
tưởng của mình”.
Quan điểm biện chứng của Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét trong cách tiếp cận với các học
thuyết cách mạng. Hồ Chí Minh luôn coi các học thuyết chỉ là công cụ để thực hiện mục tiêu giải
phóng dân tộc và đem lại hào bình, tự do, hanh phúc cho nhân dân. Trong “con đường dẫn tôi

đến chủ nghĩa Mác-Lênin” Hồ Chí Minh viết “tôi tham gia Đảng xã hội Pháp chẳng qua là vì các
ông bà ấy đã tỏ ra đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức…hồi ấy trong
các chi bộ của Đảng xã hội, người ta bàn cãi sôi nổi về vấn đề có nên ở lại trong quốc tế thứ hai,
hay là nên tổ chức một quốc tế thứ hai rưỡi, hoặc tham gia quốc tế thứ ba của Lê-nin. Điều mà
tôi muốn biết hơn cả mà cũng chính là điều mà mà người ta không thảo luân trong cuộc họp là:
Vậy thì quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa? … trong một cuộc họp tôi đã nêu
câu hỏi ấy lên, câu hỏi quan trọng nhất đối với tôi. Có mấy đồng chí đã trả lời: đó là quốc tế thứ
ba, chứ không phải quốc tế thứ hai và một đồng chí đã đưa cho tôi đọc” Luận cương của Lê- nin
về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” đăng trên báo Nhân Đạo …Luận cương của Lê- nin làm cho
tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao. Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo” Hỡi đồng bào
bị đày đọa đau khổ ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”
Cùng với tư tưởng đạo đức tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một đóng góp có giá trị
vào triết học về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin. Hồ Chí Minh nói “Tôi chỉ có một ham
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”
17

C. KẾT LUẬN
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện
khách quan và chủ quan, của truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại.
cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hóa sắc
sảo, tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã
trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại. Chúng ta phải biết coi trọng, học tập và làm
theo tư tưởng Hồ Chí Minh như Đảng và Nhà nước đã phát động. Biết phát huy
cao độ những thứ quý giá trong di sản tinh thần vô giá đó. Làm cho tư tưởng của
Người sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân ta.







18
Đề tài 2:
Vận dụng những chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng Hồ
Chí Minh để xây dựng đạo đức lối sống cho sinh viên
hiện nay
19
Lời mở đầu
Hồ Chí Minh đi vào cõi vĩnh hằng, sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã gần 20 năm, tính từ Đại hội VI ( l2 /l986 ) đến nay.
Khoảng thời gian đó đã đủ để sinh thành một thế hệ. Người đã đi xa nhưng ai cũng cảm thấy
như Người vẫn ở bên cạnh chúng ta, cổ vũ khuyến khích những việc làm tốt, nhắc nhở giúp đỡ
chúng ta những yếu kém, hạn chế, sửa chữa những khuyết điểm sai lầm để tiến bộ trưởng
thành.
Trong thời kỳ phát triển mới hiện nay của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã xác định:
Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá trở thành nền tảng tinh thần của xã hội.
Bất cứ một lĩnh vực nào của đời sống xã hội, bất cứ một hoạt động nào của tổ chức và cá
nhân một người, đạo đức cũng thể hiện vai trò quan trọng của nó.Thiếu vắng hoặc yếu kém về
đạo đức, con người không có nhân tính đầy đủ, không phát triển được nhân tính để thành
người và làm người. Suy thoái đạo đức, xã hội không thể phát triển bền vững trên tất cả các
lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, văn hoá và xã hội.
Trong hệ thống các động lực phát triển xã hội, đạo đức là một động lực tinh thần không
thể thiếu. Và chúng ta, thế hệ của tương lai, những sinh viên phải làm gì để có thể duy trì một
nếp sống đạo đức tốt đẹp hơn. Vậy ta hãy vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đạo
đức lối sống cho sinh viên hiện nay.
20
I. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên

1, Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người,
trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời
về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chuyên về đạo đức. Ngay trong
tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi,
cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên Người đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm
sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành
lập Đảng (3-2-1969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn Đảng phải
rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên.
- Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng. Theo Hồ Chí
Minh, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi thử thách. Người viết : “có
đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước”; “khi gặp
thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước
thiên hạ, vui sau thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng
thụ; không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
- Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu đạo đức
đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong mọi
phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối với
người, đối với việc.
2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
2.1. Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức cá nhân
Đạo đức hiểu một cách tổng quát là toàn bộ những chuẩn mực, những quy tắc, những
21
quan niệm về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, danh dự, hạnh phúc, công bằng…
được xã hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ giữa con người với sự nghiệp, giữa con
người với nhau và giữa con người với xã hội. Xuất phát từ bản chất, con người luôn có khát
vọng hướng tới chân, thiện, mĩ nhằm hoàn thiện bản thân. Để vươn tới sự hoàn thiện, trước
hết con người phải tự tu dưỡng hoàn thiện mình về đạo đức. Do vậy đạo đức là yếu tố cơ bản
của nhân cách tạo nên giá trị con người, vì vậy ai cũng phải tu dưỡng hoàn thiện mình về đạo

đức. Riêng đối với thế hệ trẻ, việc tu dưỡng này còn quan trọng hơn, vì họ là “người chủ tương
lai của nước nhà”, là cái cầu nối các thế hệ – “người tiếp sức cách mạng cho thế hệ già, đồng
thời là người phụ trách, dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”. Chính vì vậy, từ rất sớm Hồ Chí
Minh đã đặc biệt quan tâm giáo dục đạo đức, chăm lo rèn luyện đạo đức cho sinh viên. Nói
chuyện với sinh viên, Người khẳng định: “Thanh niên phải có đức, có tài. Có tài mà không có
đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những
không làm được gì có ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có
tài ví như ông Bụt không làm hại gì nhưng cũng không có lợi gì cho loài người”.
2.2. Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh
Cũng như cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân khác, đối với tầng lớp sinh viên,
thanh niên trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất đạo đức tối cần thiết để
họ có phương hướng phấn đấu, rèn luyện. Trong Bài nói tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần
thứ hai (ngày 7–5–1958), những phẩm chất đó được Người tóm tắt trong “sáu cái yêu”: yêu
Tổ quốc; yêu nhân dân; yêu chủ nghĩa xã hội; yêu lao động; yêu khoa học và kỉ luật: Bởi vì tiến
lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học và kỉ luật”.
Theo Hồ Chí Minh, để có được những phẩm chất như vậy, sinh viên phải rèn luyện cho
mình những đức tính như: Trung thành, tận tụy, thật thà, trung thực và chính trực, phải xác
định rõ nhiệm vụ của mình, “không phải là hỏi nước nhà đã cho mình những gì. Mà phải tự
hỏi mình đã làm gì cho nước nhà? Mình phải làm thế nào cho ích nước lợi nhà nhiều hơn?
Mình đã vì lợi ích nước nhà mà hi sinh phấn đấu chừng nào”. Trong học tập, rèn luyện, phải
kết hợp lí luận với thực hành, học tập với lao động; phải chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa
cá nhân, chống tư tưởng háo danh, hám lợi. “Chống tâm lí ham sung sướng và tránh khó
nhọc. Chống thói xem khinh lao động, nhất là lao động chân tay. Chống lười biếng xa xỉ, chống
cách sinh hoạt ủy mị. Chống kiêu ngạo, giả dối, khoe khoang”. Phải trả lời được câu hỏi: Học
để làm gì? Học để phục vụ ai? Phải xác định rõ tác nào là tốt, thế nào là xấu? Ai là bạn, ai là
22
thù?”… Người chỉ rõ: “Đối với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn.
Bất kì là ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quát ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những
tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành
động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù… Điều gì phải, thì phải cố làm cho kì được, dù

là việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”.
2.3. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà, thế hệ trẻ Việt
Nam nói chung và sinh viên, thanh niên trí thức nói riêng cần phải học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện ở một số nội dung cơ bản sau:
+ Một là, học trung với nước, hiếu với dân suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
Ngay từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rõ ràng và dứt khoát mục
tiêu hiến dâng cả cuộc đời mình cho cách mạng. Người đã chấp nhận một sự hi sinh, luôn kiên
định, dũng cảm và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”,
“giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục” nhằm thực
hiện bằng được mục tiêu đó Người nói: “Bài học chính trong đời tôi là tuyệt đối và hoàn toàn
cống hiến đời mình cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất Tổ quốc giải phóng giai cấp công
nhân và dân tộc bị áp bức, cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, cho sự hợp tác anh em và
hòa bình giữa các dân tộc”; “Một ngày đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon,
ngủ không yên”. Đến lúc phải rời thế giới này, điều luyến tiếc duy nhất của Người là “không
được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Tấm gương vì nước, vì dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, giải phóng con người của Hồ Chí Minh đã được nhân dân thế giới và bạn bè quốc tế
thừa nhận và kính phục. Họ đã dùng những lời lẽ đẹp đẽ và trang trọng nhất để ca ngợi Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Nhà cách mạng triệt để”, “nhà hoạt động quốc tế thần thoại”, “một nhân
vật nổi bật nhất trong thời đại của chúng ta”, “một tấm gương sáng chói những phẩm chất
cách mạng và nhân đạo cao cả nhất”. Hiếm có một nhà lãnh đạo nào trong những giờ phút
thử thách lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách
phi thường như vậy”, một con người “mà cái chết là mầm sống của sự sống và nguồn cổ vũ
đời đời bất diệt”.
23
+ Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị
và đức khiêm tốn phi thường
Hồ Chí Minh thường dạy cán bộ, đảng viên phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ít

lòng ham muốn vật chất. Đó là tư cách người cán bộ cách mạng, và tự mình Người đã gương
mẫu thực hiện. Suốt đời, Người sống trong sạch thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, luôn vì nước, vì dân, vì con người, không gợn chút riêng tư. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
viết: “Hồ Chủ tịch không có cái gì riêng. Cái gì của nước, của dân là của Người. Quyền lợi tối
cao của nước, lợi ích hàng ngày của dân là sự lo lắng đêm ngày của Người. Gia đình của
Người là đại gia đình Việt Nam.
Là lãnh tụ cách mạng, Hồ Chí Minh luôn coi khinh mọi sự xa hoa, không ưa chuộng những
nghi thức trang trọng cầu kì, suốt đời giữ một nếp sống thanh bạch tao nhã, giản dị, khiêm
tốn, khắc khổ, cần lao và tranh đấu để mưu cầu hạnh phúc cho dân. Nói về những đức tính vĩ
đại của Hồ Chí Minh, X. Agienđê – vị Tổng thống anh hùng của nước Cộng hoà Chilê đã khái
quát: “Nếu như muốn tìm một sự tiêu biểu cho tất cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì đó
là đức tính vô cùng giản dị và sự khiêm tốn phi thường”.
+ Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết
lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn thân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la đối với con người. Tình thương đó gắn liền với niềm
tin tuyệt đối vào sức mạnh và trí tuệ của nhân dân. Người luôn dạy cán bộ, đảng viên việc gì
có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh; phải gần dân, hiểu
dân, phải học dân, kính trọng nhân dân; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Người phê phán
quyết liệt đầu óc “quan cách mạng” và tự mình thường xuyên đi xuống cơ sở để tìm hiểu “lắng
nghe ý kiến của đảng viên, của nhân dân, của những người không quan trọng”. Là người có
uy tín rất cao và sức hấp dẫn rất lớn, song không bao giờ Hồ Chí Minh đặt mình cao hơn nhân
dân, chỉ tâm niệm suốt đời là công bộc của nhân dân, “như một người lính vâng lệnh quốc dân
ra trước mặt trận”.
Với tình thương yêu bao la, Hồ Chí Minh giành cho tất cả, chia sẻ với mọi người những nỗi
đau riêng. Người nói, trong “mỗi người, mỗi gia đình có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả
những nỗi đau khổ riêng của mọi người, mọi gia đình thì thành nỗi đau khổ của tôi”.
Lòng nhân ái, khoan dung, nhân hậu của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ đại nghĩa của dân tộc, nên
có sức mạnh và cảm hoá to lớn trong việc xây dựng và tái tạo lương tri. Ở Hồ Chí Minh,
24
thương người là một tình cảm lớn. Cho nên, khi làm cách mạng, Hồ Chí Minh đặt vấn đề tự do

và hạnh phúc đi đôi. Đó chính là biểu hiện chủ nghĩa nhân văn cộng sản vừa thánh thiện, vừa
gần gũi đã làm xúc động trái tim nhân loại và Người được suy tôn “một ông thánh cộng sản”,
“một con người của huyền thoại”. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã bình luận: Lòng nhân
đạo, tình thương đồng bào, đó là điều sâu sắc nhất, tốt đẹp nhất trong con người Hồ Chủ tịch.
+ Bốn là, ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy
để đạt được mục đích cuộc sống.
Cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh là một chuỗi năm tháng vô cùng gian khổ. Hai lần ngồi
tù, một lần đã nhận án tử hình, có giai đoạn hoạt động rất sôi nổi, được đánh giá rất cao, có
giai đoạn bị hiểu nhầm, nghi kị, không được giao nhiệm vụ… Song, nhờ ý chí và nghị lực tinh
thần to lớn, Hồ Chí Minh đã bình tĩnh, kiên cường, chủ động vượt qua thử thách gian nguy,
kiên trì mục đích cuộc sống, bảo vệ chân lí, giữ vững quan điểm cách mạng của mình. Người
đã làm thơ để tự răn:
“Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phải cao”
Dũng cảm, quyết tâm, bền bỉ, bất khuất là những đặc trưng trong nhân cách Hồ Chí Minh.
Một tờ báo nước ngoài viết: “Đằng sau cái cốt cách dịu dàng của Cụ Hồ là một ý chí sắt thép.
Dưới cái bề ngoài giản dị là một tinh thần quật khởi anh hùng không có gì uy hiếp nổi”.
Để cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có hiệu quả, đòi
hỏi phải có sự phối kết hợp của nhiều nhân tố: sự giáo dục và việc tự bồi dưỡng, rèn luyện của
sinh viên, sự nêu gương của mọi người trong xã hội, trong gia đình, của cán bộ, đảng viên, của
các thầy, cô giáo, các cán bộ quản lí giáo dục và sự hướng dẫn của dư luận xã hội và pháp
luật. Nếu coi thường một trong những nhân tố trên, việc học tập và rèn luyện sẽ khó đạt được
kết quả như mong muốn.
II. Xây dựng đặc điểm lối sống mới cho sinh viên hiện nay
1. Thực trạng đạo đức lối sống sinh viên hiện nay
1.1. Những ảnh hưởng tích cực
Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, một nền
đạo đức mới đã và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng là nguồn động lực
25

×