Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

chương trình dân tộc và miền núi trên sóng đài truyền hình việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (960.32 KB, 91 trang )






LUẬN VĂN:
Chương trình Dân tộc và Miền
núi trên sóng Đài Truyền hình
Việt Nam







MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước Việt Nam ta có 54 dân tộc anh em. Trong số hơn 86 triệu dân số thì đồng
bào các dân tộc thiểu số và miền núi chiếm tới 14, 2 triệu người. Vùng có nhiều đồng bào
các dân tộc thiểu số và miền núi sinh sống là Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và
miền Trung. Đây cũng là vùng có nhiều khó khăn về địa hình, về điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội (KT-XH) và vùng bị tranh chấp thông tin.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách lớn
khẳng định tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược của vấn đề dân tộc và miền núi trong sự
nghiệp bảo vệ tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đổi mới đất nước. Sự quan tâm
đó được tiến hành trên tất cả các lĩnh vực chính trị, KT-XH. Đời sống vật chất, tinh thần
của đồng bào dân tộc từng bước được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được giữ vững.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch trong nước và quốc tế luôn tìm cách lợi dụng


những khó khăn, hạn chế của đồng bào và những yếu kém, sai sót của các cấp, các ngành
về công tác dân tộc và miền núi để tuyên truyền xuyên tạc, kích động, chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chúng triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại
chúng, gây mất ổn định an ninh chính trị. Nhiều đài phát thanh nước ngoài phát chương
trình tiếng Việt như: Đài Châu Á Tự do (RFA), Đài VOA, BBC v.v Đặc biệt Đài
Manila (Philippin) phát chương trình tiếng H’Mông nhằm xuyên tạc đường lối, chính
sách dân tộc của Đảng ta.
Trong tình hình bùng nổ thông tin hiện nay, nhiều sản sản phẩm văn hoá không lành
mạnh, với nhiều hình thức khác nhau đã đưa vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trên mạng
internet, nhiều trang web phản động của các thế lực thù địch lập ra nhằm bôi xấu chế độ, hạ
bệ lãnh tụ, kích động quần chúng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ly khai, chống lại Nhà
nước. Điển hình là vụ xúi giục hình thành nhà nước Đề Ga ở Tây Nguyên. Mặc dù chúng ta
đã ngăn chặn, nhưng chiến dịch "chuyển lửa về quê hương" với tần suất ngày càng dày gây
tâm lý hoang mang, không tin tưởng vào chế độ khiến không ít thanh thiếu niên, người dân

bi quan. Đặc biệt do phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số học vấn thấp, hiểu biết còn hạn hẹp
nên họ là đối tượng dễ bị các thế lực thù địch xúi giục, kích động. Trước tình hình phức tạp
như vậy, với tư cách là một cơ quan báo chí chính thống, có trách nhiệm tuyên truyền, phổ
biến chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đồng bào hiểu, không tin theo kẻ xấu
phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, trách nhiệm của Đài Truyền hình Việt Nam (THVN) nói
chung, Ban truyền hình tiếng dân tộc nói riêng càng khó khăn và nặng nề hơn bao giờ hết.
Chính vì vậy, việc nâng cao nhận thức chính trị của người làm báo và sự cần thiết phải đổi
mới thông tin là yêu cầu cấp bách đối với báo chí nói chung, trong đó có Đài THVN.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác dân tộc trong tình hình mới, Nghị
quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã nêu mục tiêu cụ
thể đến năm 2010:
Phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% được nghe đài
phát thanh; các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc thiểu
số sẽ được bảo tồn và phát triển.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh

truyền hình: tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát
thanh truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số [6].
Đổi mới thông tin nói chung, trong đó tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng
thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số là một trong những yêu cầu cấp thiết hiện
nay đối với Đài THVN. Trước hết cần đánh giá đúng thực trạng, tìm ra những ưu điểm,
nhược điểm; đồng thời, đề ra những giải pháp khắc phục, nâng cao hơn nữa chất lượng và
hiệu quả của thông tin tuyên truyền phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp
phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với những lý do trên, chúng tôi đã chọn đề tài: "Chương trình Dân tộc và Miền
núi trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam" cho luận văn Thạc sỹ Truyền thông đại
chúng của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Những năm qua, vấn đề dân tộc và miền núi đã được nhiều tác giả, nhiều công
trình nghiên cứu đề cập với nhiều góc độ khác nhau.

Trên lĩnh vực báo chí truyền thông, đáng chú ý có các công trình sau:
- Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Xuân An Việt về "Thông tin về dân tộc miền núi
trên VTV1- Đài Truyền hình Việt Nam" năm 2001, tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền,
đã khảo sát chương trình về đề tài dân tộc miền núi của Đài THVN trong 3 năm 1999 -
2001. Qua khảo sát, tác giả đưa ra các giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng chương trình,
nhằm tăng cường hiệu quả thông tin về vấn đề dân tộc miền núi của Đài THVN.
- Năm 2005, tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Phạm Ngọc Bách đã bảo vệ luận văn
thạc sỹ với tiêu đề "Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng VTV1- Đài Truyền hình
Việt Nam". Trong luận văn này, tác giả đã khảo sát các chương trình dân tộc và miền núi từ
tháng 01-2004 đến tháng 06-2005 đồng thời đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng
chương trình.
Trong cuốn “Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX” Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội xuất bản năm 2001, gồm nhiều bài viết của một số tác giả về sự phát triển các dân
tộc thiểu số; chính sách dân tộc; xây dựng phát triển kinh tế, đời sống văn hoá - xã hội,
bảo vệ tổ quốc của đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong đó có bài "Sự nghiệp phát

triển truyền hình ở vùng dân tộc thiểu số" của ông Hồ Anh Dũng, Nguyên Tổng Giám
đốc Đài THVN. Bài viết cho thấy sự cần thiết và dự báo khả năng đóng góp, tăng cường
đầu tư cho công tác thông tin tuyên truyền của Đài THVN đối với vùng dân tộc thiểu số
trong tình hình mới.
Năm 2001, Hội thảo tổng kết "Tăng cường và đổi mới công tác thông tin phục vụ
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi" do Bộ Văn hóa - Thông tin tổ chức, đề cập nhiều
về yêu cầu đổi mới công tác thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Tuy nhiên, các tham luận còn nặng về việc trình bày các báo cáo, tổng kết của đại diện
các cơ quan báo chí, chưa đi sâu kiếm tìm giải pháp tăng cường đổi mới nội dung, hình
thức, chất lượng của từng ngành, từng đơn vị mình.
Năm 2007, Ủy ban Dân tộc đã sơ kết đánh giá tiến độ thực hiện Quyết định
975/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc cấp một số báo, tạp chí cho đồng bào
dân tộc thiểu số. Hội nghị mới dừng lại đánh giá mặt tốt, chưa cụ thể từng nội dung và
hình thức tuyên truyền, công tác phát hành đến đồng bào các dân tộc thiểu số.

Từ năm 2006, khi “Chương trình Dân tộc và Miền núi” từ Ban chuyên đề Đài
THVN được chuyển về Ban truyền hình tiếng dân tộc, thì tên gọi, nội dung và kết cấu của
chương trình này đã có sự thay đổi.
Trong xu thế phát triển của đất nước, để đáp ứng nhu cầu bạn xem truyền hình,
nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; chúng tôi nhận thấy cần tiếp tục
nghiên cứu sâu, từ đó có các giải pháp điều chỉnh chương trình để đạt hiệu quả hơn
trong thời đại bùng nổ và cạnh tranh thông tin.
Kế thừa kết quả của các tác giả nghiên cứu đi trước, đề tài nghiên cứu “Chương
trình Dân tộc và miền núi trên sóng Đài truyền hình Việt Nam” của chúng tôi sẽ đi sâu
nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền
núi trong năm vừa qua. Trên cơ sở đó, có cái nhìn tổng quát về Chương trình Dân tộc và
Miền núi của Đài THVN, làm rõ những ưu điểm và nhược điểm, đề xuất những giải pháp
nâng cao chất lượng công tác thông tin về lĩnh vực này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận báo chí và thực tiễn sản xuất, phát sóng các sản phẩm của
chương trình Dân tộc và Miền núi, luận văn để xuất giải pháp nhằm góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả của việc tuyên truyền đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
trên sóng Đài THVN.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề Dân tộc và
Miền núi
- Khảo sát Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng VTV1 và thực tế
hoạt động sản xuất chương trình Dân tộc và Miền núi nói chung trên sóng Đài THVN.
- Phân tích kinh nghiệm, phát hiện vấn đề và những yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng chương trình, đề xuất các giải pháp, nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng Chương trình
Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên sóng Đài THVN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Chương trình Dân tộc và Miền núi trên sóng
Đài truyền hình Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi giới hạn phạm vi khảo sát các chương
trình được phát sóng trong Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên của Đài
THVN do Ban truyền hình tiếng dân tộc đảm nhiệm.
Thời gian khảo sát từ tháng 05-2008 đến tháng 05-2009.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Phương pháp luận của luận văn dựa trên cơ sở quan điểm triết học Mác - Lênin,
mà nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phân tích
đánh giá trong đề tài dựa trên quan điểm báo chí vô sản, tư tưởng Hồ Chí Minh về đường
lối dân tộc; dựa vào đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề
dân tộc và miền núi; cũng như quan điểm của Đảng về vai trò của báo chí trong đời sống
văn hóa xã hội để làm căn cứ trong quá trình nghiên cứu.

Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở của lý luận báo chí truyền thông và lý
luận của báo chí truyền hình để phân tích, đánh giá từng khía cạnh cụ thể của thông
tin về vấn đề dân tộc thiểu số và miền núi trên sóng truyền hình Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
Phương pháp khảo sát thực tế, khảo sát Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát
triển trên sóng VTV1 - Đài Truyền hình Việt Nam.
Phương pháp điều tra xã hội học: phương pháp này chọn đối tượng khảo sát là đồng bào
dân tộc thiểu số ở 4 tỉnh là: Hà Giang, Điện Biên, Cần Thơ và Gia Lai.
Phương pháp thống kê, phân loại nhằm tổng hợp, phân tích vấn đề một cách cụ
thể, khách quan. Qua đó, tìm ra những điểm nổi bật về nội dung, hình thức, thế mạnh của
chương trình phát trên sóng Đài THVN phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Phương pháp phỏng vấn sâu những người am hiểu, quan tâm đến chương trình, cùng
ý kiến của các đồng nghiệp, của nội bộ lãnh đạo, phóng viên, biên tập viên Ban truyền hình
tiếng dân tộc cũng như lãnh đạo Đài THVN.
Phương pháp đối chiếu, so sánh: để rút ra những ưu nhược điểm của chương trình
so với yêu cầu và nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Từ đó, xác định rõ vai trò, đặc điểm của
thông tin phục vụ đồng bào trong hệ thống báo chí.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn hoàn thành sẽ góp phần tổng kết thực tiễn và lý luận về thông tin phục
vụ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là việc nâng cao chất lượng và hiệu quả
thông tin phục vụ đồng bào. Đồng thời, luận văn cũng có thể là tài liệu để cán bộ, phóng
viên trực tiếp làm công tác thông tin về lĩnh vực này tham khảo, vận dụng. Luận văn cũng
có thể là tài liệu cho các cơ quan chức năng, các cơ sở giáo dục - đào tạo và những ai quan
tâm tham khảo đến vấn đề dân tộc và miền núi nói chung, vấn đề tuyên truyền đề tài này trên
sóng truyền hình Việt Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết, 83 trang.























Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI Ở NƯỚC TA


1.1. DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN ĐẤTNƯỚC
1.1.1. Khái niệm về Dân tộc và Miền núi
Hiện nay, khái niệm “dân tộc” còn có nhiều ý kiến khác nhau. Điều đó một
phần là do vấn đề dân tộc được xem xét từ nhiều quan điểm, lập trường và giác độ

khác nhau; phần khác là do hiện thực phong phú, phức tạp của các loại hình dân tộc
đang tồn tại ở các quốc gia, khu vực trên thế giới. Sự phong phú, phức tạp đó làm
cho nhiều định nghĩa được nêu ra, cho đến nay chưa diễn đạt được đầy đủ, trọn vẹn
các thuộc tính của các loại hình dân tộc đã xuất hiện trên thế giới. Tìm kiếm một
định nghĩa chuẩn xác về dân tộc đang là đòi hỏi của lý luận và thực tiễn, cần được
quan tâm.
Từ điển Bách khoa Việt Nam đưa ra định nghĩa như sau:
1. Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là một cộng đồng chính trị - xã hội
được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban đầu
được hình thành do sự tập hợp của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này
của nhiều cộng đồng mang tính người (ethnie) của bộ phận tộc người. Tính
chất của dân tộc phụ thuộc vào những phương thức sản xuất khác nhau…
2. Dân tộc (ethnie) còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người…
Cộng đồng này có thể là bộ phận chủ thể hay thiểu số của một dân tộc (nation)
sinh sống ở nhiều quốc gia dân tộc khác nhau được liên kết với nhau bằng
những đặc điểm ngôn ngữ, văn hóa và nhất là ý thức tự giác tộc [35, tr. 655].
Từ điển Tiếng Việt nêu định nghĩa dân tộc như sau:
1. Cộng đồng người hình thành trong lịch sử có chung một lãnh thổ, các
quan hệ kinh tế, một ngôn ngữ văn học và một số đặc trưng văn hóa và tính
cách…

2. Tên gọi chung những cộng đồng người cùng chung một ngôn ngữ,
lãnh thổ, đời sống kinh tế và văn hóa, hình thành trong lịch sử từ sau bộ lạc…
3. Cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về
sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế,
truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung [50, tr. 255].
Và định nghĩa dân tộc thiểu số như sau: "Dân tộc chiếm số ít so với dân tộc chiếm
số đông nhất trong một nước có nhiều dân tộc".
Giáo trình triết học Mác - Lênin, do Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình quốc gia các bộ sách khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh xuất bản, nói về

khái niệm dân tộc như sau:
Khái niệm dân tộc thông thường được dùng để chỉ hầu như tất cả các
hình thức cộng đồng người (bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Cần phân biệt "dân tộc"
theo nghĩa rộng trên đây với "dân tộc" theo nghĩa khoa học: đó là hình thức
cộng đồng người cao hơn các hình thức cộng đồng trước đó, kể cả bộ tộc.
Cũng như bộ tộc, dân tộc là hình thức cộng đồng người gắn liền với xã
hội có giai cấp, có nhà nước và các thể chế chính trị. Dân tộc có thể từ một bộ
tộc phát triển lên, song, đa số trường hợp được hình thành trên cơ sở nhiều bộ
tộc và tộc người hợp nhất lại. Từ hình thức cộng đồng trước dân tộc phát triển
lên dân tộc là một quá trình vừa có tính liên tục vừa là bước nhảy vọt lớn [34,
tr. 475-476].
Từ những nội dung trên có thể khái quát rằng: dân tộc là một khái niệm đa nghĩa,
nhưng có hai nghĩa chính: hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một quốc gia, hoặc để chỉ
cộng đồng dân cư của một tộc người. Sự liên kết cộng đồng dân tộc được tạo nên từ yếu
tố có chung ngôn ngữ, văn hóa, lãnh thổ và biểu hiện thành ý thức tự giác tộc người. Xét
cho cùng, nền tảng của sự liên kết mà các yếu tố trên tạo nên là trình độ phát triển kinh
tế. Bởi vì, tính chất của dân tộc bao giờ cũng phụ thuộc vào phương thức sản xuất.
Ngoài ra nhiều ý kiến còn nhấn mạnh, dù hiểu theo nghĩa nào thì dân tộc cũng vừa
là một cộng đồng người, vừa là một cộng đồng chính trị- xã hội-tộc người. Có thể định
nghĩa khái quát: dân tộc là một cộng đồng chính trị-xã hội- tộc người. Quan niệm này tạo

nên một ranh giới rõ rệt để phân biệt khái niệm dân tộc với sắc tộc, bởi vì khái niệm sắc
tộc thường dùng để chỉ các tộc người da màu [53, tr. 199]. Quan niệm này cũng cho phép
phân biệt khái niệm dân tộc với khái niệm chủng tộc, vì khái niệm chủng tộc thường dùng
để chỉ sự khác nhau về cấu tạo tự nhiên của con người [35, tr. 529].
Dân tộc và Miền núi - đây là cách gọi ngắn gọn khi chúng ta dùng để chỉ toàn bộ
các dân tộc thiểu số và các vấn đề liên quan đến miền núi, cao nguyên, vùng cao. Gọi
như thế này để dễ dàng trong giao tiếp và nhằm khu biệt với những nội dung khác. Hiện
nay, cụm từ này đang được dùng phổ biến trong các đường lối chính sách của Đảng, Nhà
nước ta.

1.1.2. Đặc điểm về dân tộc thiểu số và miền núi ở Việt Nam
1.1.2.1. Những đặc điểm chung
Cộng đồng văn hóa Việt Nam rất đa dạng, bao gồm 54 dân tộc và bảy hệ ngôn
ngữ chính tìm thấy từ Tây Á tới khu vực Thái Bình Dương. Nhiều nhóm dân tộc đã tồn
tại rất lâu đời và thậm chí trước cả khi người Việt tới định cư; một số khác thì mới nhập
cư gần đây. Dân tộc thiểu số và miền núi đông nhất là người Tày, với gần 1,5 triệu người.
Trong khi dân tộc thiểu số nhỏ nhất là người Ơ Đu với con số vừa vặn 300 người.
Các dân tộc thiểu số và miền núi có một vài đặc điểm chung: 75% người dân tộc
thiểu số ở Việt Nam sống ở hai vùng: miền núi phía Bắc giáp với Trung Quốc và vùng
Tây Nguyên giáp Lào và Cam-pu-chia. Hầu hết các dân tộc thiểu số đều sống ở vùng
nông thôn. Các vùng khác cũng có người dân tộc thiểu số sinh sống, ví dụ như: người
Khơ - me, người Hoa và người Chăm thấy ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên nhìn chung là những tỉnh nghèo, kinh
tế chậm phát triển, đời sống vật chất, văn hóa, xã hội còn nhiều khó khăn. Các tỉnh này
cũng là nơi tập trung chủ yếu đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Theo thống kê, số hộ
nghèo ở vùng núi và trung du phía Bắc là 48,5% và ở Tây Nguyên hơn 48,4%.
Mặt khác, sự đa dạng cũng tồn tại nhiều trong nội bộ các cộng đồng dân tộc thiểu
số: họ rất khác nhau về sự đồng hóa, khác cả cấp độ thành công về kinh tế. Một số dân
tộc như: Tày và Mường, có mức thu nhập hộ gia đình và sự giáo dục tương đương với
người Kinh, trong khi ở một nhóm dân tộc khác thì thậm chí lại không có thành viên nào

theo học được tới bậc trung học phổ thông. Tính đa dạng về văn hóa và địa lý này khiến
cho việc xây dựng chương trình của Chính phủ và các chương trình khác đáp ứng được
nhu cầu về ngôn ngữ và văn hóa của từng cá thể trở nên vô cùng khó khăn. Điều này cho
thấy sự cần thiết phải có những nghiên cứu nhân học đầy đủ trong tương lai về mối tương
đồng và khác biệt dân tộc.
Mặc dù được sự quan tâm đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà nước, song đến nay
vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta vẫn là khu vực chậm phát triển về mọi mặt.
Khoảng cách chênh lệch phát triển giữa miền núi và miền xuôi có xu hướng ngày càng
tăng. Tính bền vững của quá trình phát triển giữa các vùng miền chưa được bảo đảm bởi

còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hiện nay, đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đang phải
đối mặt với nhiều cam go, thách thức, trước hết là đói nghèo. Ba vùng nghèo nhất là Tây
Nguyên, Bắc Trung Bộ và miền núi phía Bắc.
1.1.2.2. Những khác biệt
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo, lạc hậu ở hầu hết các
vùng dân tộc thiểu số và miền núi nước ta là: sự khác biệt về năng lực, và sự khác biệt về
ngôn ngữ.
Sự khác biệt về năng lực
- Rào cản lớn nhất để đạt tới sự thành công chính là giáo dục. Các dân tộc thiểu số
và miền núi được tiếp cận ít hơn nền giáo dục có chất lượng. Do vậy, kết quả học tập của
họ cũng thấp hơn. Tỷ lệ học sinh bỏ học vẫn còn cao trong cộng đồng các dân tộc thiểu
số và miền núi. Họ có xu hướng đi học muộn hơn ở bậc tiểu học và còn thiếu tiếp cận
giáo dục bậc mầm non. Kết quả là tỷ lệ mù chữ và không thông thạo tiếng Việt ở người
dân tộc thiểu số cao, từ đó cản trở khả năng tương tác của họ.
Nhiều người dân tộc thiểu số, đặc biệt là người già và phụ nữ, không biết đọc biết
viết, thậm chí không biết nói tiếng Việt. Điều này hạn chế khả năng tiếp cận và chia sẻ
thông tin; đồng thời là trở lớn trọng tới năng lực của họ trong suốt cả cuộc đời.
- Rào cản khác ngăn cản khả năng mở rộng năng lực là việc thiếu tính di chuyển
và ít kinh nghiệm hòa nhập về một thế giới rộng lớn. Các dân tộc thiểu số và miền núi ít

di chuyển hơn so với người Kinh. Điều đó hạn chế tới khả năng quan sát, học hỏi các ý
tưởng và công nghệ mới của họ.
- Khả năng hành động cũng bị hạn chế bởi yếu tố văn hóa. Nhiều người dân tộc
thiểu số tự nhận ra những khác biệt về văn hóa giữa người Kinh và người dân tộc thiểu số
trong các hoạt động giao dịch mua bán ở chợ, ở trường học hay ở các hoạt động xã hội
khác.
Sự khác biệt về ngôn ngữ
Trong "các cuộc thảo luận nhóm tập trung trên khắp cả nước, các nhóm
dân tộc thiểu số thường bày tỏ rằng họ "không tự tin" và "e ngại" khi lui tới
các khu chợ, đòi giá cao hơn cho hàng hóa của mình, đòi hỏi các dịch vụ của

Chính phủ mà họ được quyền hưởng lợi" [33, tr.13].
Sự e ngại này cùng với những hạn chế về tiếp cận giáo dục đã khiến người dân
tộc thiểu số cảm thấy bị hạn chế về khả năng ngôn ngữ. Cùng với đó, việc thiếu tính di
chuyển cũng khiến cho họ ít kinh nghiệm và ít sẵn sàng tiếp cận với thế giới xung quanh.
Một trở ngại nữa hạn chế việc tăng tiếng nói và quyền tự quyết của các dân tộc
thiểu số là lối suy nghĩ rập khuôn phổ biến hiển thị về sự kém cỏi của người dân tộc thiểu
số trong con mắt của những người khác. Lối suy nghĩ rập khuôn này có thể dẫn tới những
hậu quả xấu, đặc biệt là ảnh hưởng nghiêm trọng đến lòng tự trọng và sự tự tin của người
dân tộc thiểu số trong việc sử dụng tiếng nói và quyền lực riêng của họ.
Thay đổi nhận thức của số đông về người dân tộc thiểu số đòi hỏi phải chú ý đến
sự đại diện của các dân tộc thiểu số trong những công trình nhân học, đặc biệt trong các
phương tiện truyền thông đại chúng.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ CÔNG TÁC
TUYÊN TRUYỀN VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI
1.2.1. Vị trí, vai trò, mục tiêu, nhiệm vụ của công tác dân tộc và miền núi
1.2.1.1. Vị trí
Ngay từ khi mới ra đời, vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc được nhà nước ta
đặt ở vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng

ta đã đề ra chính sách dân tộc và công tác dân tộc phù hợp với từng giai đoạn lịch sử và
đã đạt được những kết quả quan trọng.
Cùng với sự phát triển của cách mạng, báo chí nước ta ngày càng khẳng định được
vai trò là cầu nối tin cậy giữa Đảng với dân, dân với Đảng. Nước ta có 54 dân tộc anh
em, trong đó có 53 dân tộc thiểu số sống trải đều từ Bắc vào Nam. Từ khi ra đời đến nay,
Đảng ta luôn coi miền núi dân tộc thiểu số có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp
cách mạng của dân tộc. Trong mọi thời điểm phát triển, Đảng và Nhà nước vẫn tập trung
mọi nguồn lực để đầu tư phát triển miền núi và vùng đồng bào dân tộc.
Cách mạng xã hội, đó là sự nghiệp của quần chúng. Vì vậy, về cơ bản mọi chính
sách của Đảng và Nhà nước đến với các vùng và đồng bào các dân tộc là nhằm hỗ trợ,

giúp đỡ, tạo điều kiện để đồng bào các dân tộc phát huy được nội lực, phấn đấu vượt qua
đói nghèo, vươn lên từng bước hòa nhập vào sự phát triển chung của cả nước.
Nghị quyết 22/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 27-11-1989 "Về chủ trương chính
sách lớn phát triển kinh tế- xã hội miền núi" đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong
quá trình tổ chức thực hiện chính sách dân tộc và miền núi, Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) đã có quyết định số 72/QĐ-HĐBT, ngày 13-3-1990 "Về một số chủ trương,
chính sách cụ thể phát triển KT-XH miền núi" quy định rõ những nội dung đổi mới cơ
cấu kinh tế và tổ chức sản xuất ở miền núi theo hướng chuyển sang kinh tế hàng hóa phù
hợp với đặc điểm từng vùng, từng tiểu vùng, từng dân tộc, gắn phát triển kinh tế với vấn
đề dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và củng cố an ninh, quốc phòng.
Ngày 31 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng chính phủ đã ký Quyết định số 1637/QĐ-
TTg về việc cấp một số loại báo, tạp chí của 17 tòa soạn báo được Chính phủ cấp kinh phí
xuất bản để phát hành không thu tiền đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Ngày
20 tháng 7 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 975/QĐ-TTg thay
thế Quyết định 1637 nhưng nội dung không thay đổi. Đến nay, các báo, tạp chí phục vụ
riêng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thuộc diện thụ hưởng của Quyết định 975
đang phát huy hiệu quả tuyên truyền, được đồng bào ghi nhận.

Có thể nói, thông tin nói chung và thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi nói riêng luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan báo chí và
sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân.
Cả trong thời kỳ chiến tranh và trong thời kỳ đổi mới hiện nay, thông tin về lĩnh
vực này luôn được coi trọng góp phần rút ngắn khoảng cách giữa miền ngược và miền
xuôi. Thông tin giúp đồng bào nắm bắt được chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; nhanh chóng xóa đói, giảm nghèo, từng bước vươn lên làm
giàu,…
1.2.1.2. Vai trò
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta trên cơ sở nguyên lý của chủ nghĩa Mác -Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh đã coi trọng vấn đề dân tộc, coi đây là một bộ phận quan trọng của
sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm coi
công tác dân tộc thiểu số là một phần hữu cơ, có vai trò quan trọng của cách mạng Việt
Nam.
Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (2003)
đã đánh dấu một bước ngoặt lớn về đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về dân tộc
miền núi. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định: "Vấn đề
dân tộc và đoàn kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực
hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển"
[23, tr.127].
Văn kiện Đảng khóa X đã khẳng định lại quan điểm của Đảng ta về vấn đề dân
tộc, miền núi trong thời kỳ mới:
Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự
nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện
thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy

bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Thực hiện tốt chiến lược phát triển KT-XH ở miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh định cư và
xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bố, sắp xếp lại dân cư, gắn phát
triển kinh tế với đảm bảo an ninh, quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên
những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, tri thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở
vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng
nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị
hẹp hòi chia rẽ dân tộc [54].
1.2.1.3. Mục tiêu

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về
công tác dân tộc đưa ra mục tiêu đến năm 2010:
Phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống đồng bào các
dân tộc. Đến năm 2010, các vùng dân tộc và miền núi cơ bản không còn hộ đói,
giảm hộ nghèo xuống dưới 10%; giảm dần khoảng cách mức sống giữa các dân
tộc, các vùng; trên 90% hộ dân có đủ điện, nước sinh hoạt; xóa tình trạng nhà
tạm, nhà dột nát; 100% xã có đường ôtô đến trung tâm xã; cơ bản không còn xã
đặc biệt khó khăn.
Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức hưởng thụ
văn hóa của đồng bào: hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; nâng cao
chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh việc dạy và học tiếng dân
tộc. Hầu hết đồng bào nghèo vùng sâu, vùng xa được tiếp cận dịch vụ chăm
sóc sức khỏe; tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng dân tộc.
Phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% được nghe đàiphát
thanh; các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu
số được bảo tồn và phát triển [6].
Thực hiện mục tiêu trên, Nghị quyết nêu nhiệm vụ:

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh,
truyền hình, tăng cường các hoát động văn hóa, thông tin tuyên truyền hướng
về cơ sở; tăng thời lượng và nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh,
truyền hình bằng các tiếng dân tộc thiểu số; làm tốt công tác nghiên cứu, sưu
tầm, giữ gìn và phát huy các giá trị, truyền thống tốt đẹp trong văn hóa các dân
tộc [6].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã nêu: "Phát triển
mạnh và nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất
bản và phát hành sách trên tất cả các vùng, chú ý nhiều hơn đến vùng sâu, vùng xa, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số" [25, tr, 214].
Những năm gần đây, việc nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân
dân, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc được Đảng và Nhà nước, các cấp, các

ngành quan tâm hơn, thể hiện trong việc ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách,
xây dựng và phát triển bộ máy ngành văn hóa-thông tin, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất
và phát triển các loại hình văn hóa. Chủ trương phủ sóng phát thanh, truyền hình được
triển khai khắp các địa phương miền núi, kể cả các vùng xa xôi hẻo lánh.
Hiện nay, tỷ lệ phủ sóng phát thanh đạt hơn 90% lãnh thổ, truyền hình khoảng
85%. Các xã miền núi được trang bị các thiết bị thông tin hiện đại như video, máy thu
hình, thu thanh, điện thoại, intơnet… và có thêm nhiều loại hình văn hóa truyền thống
phù hợp với nhân dân các dân tộc; mở rộng chương trình phát thanh, truyền hình bằng
nhiều thứ tiếng phù hợp với nguyện vọng đông đảo của đồng bào các dân tộc.
Bằng sự nỗ lực của các cơ quan báo chí dưới sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của
Đảng và Nhà nước, công tác thông tin về đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi đã
góp phần thay đổi diện mạo nông thôn miền núi. Mục tiêu của Đảng và Nhà nước đối với
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi rất rõ, đó là ngày càng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của đồng bào.
1.2.1.4. Nhiệm vụ
Chăm lo cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số là trách nhiệm và nghĩa vụ của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đây là yêu cầu tất yếu nhằm bồi dưỡng lực lượng cách

mạng ở những địa bàn chiến lược của đất nước, vừa xuất phát từ truyền thống và đạo lý của
các dân tộc, vừa thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta.
Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, Nghị quyết Hội nghị
lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa X, nêu rõ:
Báo chí phải nắm vững và tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, có hiệu quả
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, bám sát
nhiệm vụ công tác tư tưởng, tích cực tuyên truyền, cổ vũ thành tựu của công
cuộc đổi mới. Coi trọng đúng việc phát hiện, biểu dương các nhân tố mới, điển
hình tiên tiến; tích cực đấu tranh góp phần ngăn chặn và từng bước đẩy lùi
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; phản bác có
hiệu quả những thông tin, quan điểm sai trái, phản động, thù địch, bảo vệ vững
chắc trận địa tư tưởng của Đảng… Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,

nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động báo chí [7]
Sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc luôn được Đảng và Bác Hồ quan tâm và coi trọng.
Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam năm 1946, Bác viết:
Đồng báo Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Lai hay Ê Đê, Xê
Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam,
đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau,
no đói giúp nhau…Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết
của chúng ta không bao giờ giảm bớt [49].
Khẳng định vai trò và nhiệm vụ của báo chí trong sự nghiệp đổi mới, Nghị quyết
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã nêu rõ:
Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng. Báo chí,
xuất bản… làm tốt chức năng tuyên truyền, thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước; phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái
đẹp trong xã hội; giới thiệu gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiên
tiến, phê phán các hiện tượng tiêu cực, uốn nắn những nhân tố lệch lạc, đấu
tranh với những quan điểm sai trái; coi trọng, nâng cao tính chân thật, tính
giáo dục và tính chiến đấu của thông tin [32].

1.2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta
Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn coi dân tộc và miền núi có tầm chiến lược
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới của đất
nước.
Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị (ngày 27-11-1989) "Về chủ trương chính sách lớn
phát triển KT-XH miền núi" đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong quá trình tổ chức
thực hiện chính sách dân tộc và miền núi của Đảng và Nhà nước; đồng thời đưa ra các
quan điểm, chủ trương, đường lối cho việc phát triển KT-XH vùng dân tộc và miền núi.
Thể chế hóa Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị và Quyết định 72 của Hội đồng Bộ
trưởng, Thủ tướng Chính phủ đã có chỉ thị 525/CT - TTg "Về một số chủ trương, biện
pháp tiếp tục phát triển KT-XH miền núi" nhằm thúc đẩy việc thực hiện Nghị quyết 22,
Quyết định 72 và quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) về

"Đổi mới và phát triển KT-XH nông thôn".
Khẳng định những nội dung cơ bản của chính sách dân tộc, miền núi trong sự
nghiệp đổi mới, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX tiếp tục coi vấn đề
dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân
tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước…bằng nhiều biện
pháp tích cực và vững chắc. Thực hiện cho được ba mục tiêu là xóa đói giảm nghèo, ổn
định và cải thiện cuộc sống, sức khỏe đồng bào các dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng
biên giới; xóa được mù chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng và phát huy được bản sắc văn hóa
tốt đẹp của các dân tộc, xây dựng cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên của các dân
tộc ở các vùng, các cấp trong sạch và vững mạnh.
Thực hiện các định hướng phát triển vùng của chiến lược 10 năm 2001 - 2010 và
các Nghị quyết của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển các vùng, Nghị quyết Đại hội X
nêu rõ:
Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triển các
vùng khó khăn, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Bổ sung chính sách khuyến khích các doanh

nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và doanh nghiệp nước ngoài đến
đầu tư, kinh doanh ở vùng khó khăn [25, tr.225].
Về chủ trương xóa đói giảm nghèo, tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH và trợ giúp
về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo vùng
nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững; kết
hợp chính sách của Nhà nước với sự giúp đỡ trực tiếp và có hiệu quả của toàn
xã hội, của những người khá giả cho người nghèo, hộ nghèo, nhất là đối với
những vùng đặc biệt khó khăn. Ngăn chặn tình trạng tái nghèo.
Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đặc biệt về trợ giúp đầu tư phát triển
sản xuất, nhất là đất sản xuất; trợ giúp đất ở, nhà ở, nước sạch, đào tạo nghề và
tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo [25, tr. 217].
Trên cơ sở đường lối của Đảng về miền núi và dân tộc, báo chí đã cố gắng tuyên

truyền nâng cao nhận thức cho đồng bào các dân tộc về phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, phù hợp với đặc điểm, điều hiện từng vùng, đảm bảo cho đồng bào khai thác
ngày càng hiệu quả thế mạnh của địa phương, làm giàu cho mình và đóng góp tích cực
vào sự nghiệp của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Báo chí đã thông tin đầy đủ về những chính sách ưu tiên cho miền núi, đặc biệt
trong lĩnh vực phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào tạo cán bộ và đội ngũ trí thức
người dân tộc thiểu số. Đồng thời, tuyên truyền rộng rãi trong đồng bào, giúp họ thấy, họ
hiểu và họ phát huy tốt hơn nữa những giá trị văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam
và của từng dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại; góp phần vào việc xây dựng
giữ gìn nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ hội
nhập.
Đối với lĩnh vực an ninh quốc phòng, Đảng, Nhà nước ta khẳng định sức mạnh
quốc phòng, an ninh phụ thuộc trước hết vào sự ổn định chính trị, đẩy mạnh sự nghiệp
đổi mới; bảo vệ tổ quốc gắn liền với bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân
dân…Do đó, thực hiện đầy đủ chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước về lĩnh vực an

ninh quốc phòng chính là tăng cường sức mạnh bảo vệ tổ quốc trên địa bàn đồng bào dân
tộc.
1.2.3. Yêu cầu của thông tin đối với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
Từ mục tiêu, nhiệm vụ trên, thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số cần đáp
ứng những yêu cầu sau:
- Đảm bảo đúng quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
- Đảm bảo tính chính xác kịp thời.
- Phát huy thế mạnh tổng hợp trên hai lĩnh vực: Thông tin nhanh nhạy, chính xác,
phương tiện thông tin phong phú: báo in, báo nói, báo hình.
- Đáp ứng nhu cầu của đồng bào: giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu.
- Thông tin về chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình chung cho đối tượng là
đồng bào các dân tộc thiểu số và đồng bào ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa.
- Thông tin về dân tộc và miền núi cho khán giả trong và ngoài nước.
Báo chí cần có định hướng rõ ràng, xác định nội dung cần phản ánh, đúng thời

điểm, đúng thời lượng, nhằm đạt hiệu quả cao khi thông tin về dân tộc thiểu số và miền
núi. Trong thời điểm hiện nay nội dung thông tin phục vụ đồng bào cần làm tốt một số
yêu cầu cụ thể:
- Khẳng định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trước sau như một,
bình đẳng, đoàn kết các dân tộc, tôn trọng tự do tín ngưỡng, giữ gìn truyền thống văn hóa
tốt đẹp của các dân tộc, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa các vùng miền trên phạm
vi cả nước.
- Khẳng định những thành tựu mà Đảng và Nhà nước đã mang lại cho miền núi và
vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. Thành tựu đó thể hiện trên các mặt chính trị, KT-
XH. Nhờ các chương trình dự án của Nhà nước mà diện mạo nông thôn miền núi đã có
sự khởi sắc nhất định. Đời sống văn hóa, tinh thần của đồng bào từng bước được nâng
cao.
- Phản ánh kết quả các chương trình phát triển kinh tế của miền núi, vùng dân tộc,
đặc biệt là chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình phát triển y tế, giáo dục, văn
hóa.

- Biểu dương đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, hoặc người Kinh lên công
tác miền núi, vùng dân tộc thiểu số, biểu dương các điển hình trong sản xuất và xây dựng
cuộc sống mới của đồng bào dân tộc.
- Nêu cao vai trò của cơ sở đảng, các tổ chức đoàn thể quần chúng.
- Cùng với việc biểu dương, báo chí cần phê phán những mặt hạn chế, tiêu cực ở
miền núi và vùng dân tộc: nạn phá rừng, di dân tự do, các tệ nạn xã hội, mê tín, tà đạo.
Phê phán đúng mức các hiện tượng tiêu cực trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc
và các dự án phát triển KT-XH ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
- Phê phán vạch trần những luận điệu, vu cáo, xuyên tạc, kích động gây rối của các
thế lực thù địch đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
1.2.4. Đài Truyền hình Việt Nam với công tác thông tin, tuyên truyền về dân
tộc thiểu số và miền núi
1.2.4.1. Những tác động của báo chí đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở
nước ta

Nhiều năm qua, báo chí nước ta đã góp phần tích cực vào nhiệm vụ nâng cao trình
độ dân trí, nhận thức và phổ biến kiến thức cho đồng bào vùng dân tộc miền núi. Hiện
nay, đồng bào các dân tộc ở miền núi rất coi trọng thông tin báo chí trên các tờ báo, tạp
chí; các chương trình phát thanh, truyền hình… Đối với họ báo chí chỉ nói những điều
đúng, điều tốt đẹp, vừa là người bạn vừa là người thầy rất gần gũi.
Báo chí đã định hướng, tăng cường thông tin tuyên truyền nâng cao nhận thức, phổ
biến kiến thức phổ thông góp phần thay đổi mặt bằng dân trí, xóa bỏ sự cách biệt giữa miền
núi và đồng bằng. Con em đồng bào được đến trường. Tỷ lệ người đọc thông viết thạo tiếng
phổ thông ngày càng cao. Tỷ lệ mù chữ của đồng bào đã giảm hẳn. Sự thay đổi đã hiện rõ
trong cuộc sống đời thường của bà con như nằm ngủ phải mắc màn, biết cách phòng và
chống các bệnh đơn giản, có hiểu biết về sinh sản và dinh dưỡng; biết tiếp thu kiến thức chăn
nuôi, trồng trọt,… biết áp dụng vào thực tế.
Những thành công của công tác thông tin tuyên truyền báo chí đã góp phần ổn
định tình hình chính trị, an ninh quốc phòng ở vùng dân tộc miền núi. Các vấn đề dân tộc,
tôn giáo, xung đột sắc tộc… đã được giải quyết và tự giải quyết. Đặc biệt, những âm mưu

thủ đoạn của các thế lực thù địch, chống phá Nhà nước xã hội chủ nghĩa được ngăn chặn
từ gốc.
Có thể nói thông tin nói chung và thông tin phục vụ đồng bào dân tộc thiểu số và
miền núi nói riêng luôn được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cơ quan báo chí và
sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân. Thông tin đã rút ngắn khoảng cách các địa phương
giữa miền ngược và miền xuôi. Thông tin giúp đồng bào nắm bắt được chủ trương,
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giúp đồng bào nhanh chóng xóa đói, giảm
nghèo, phê phán những hủ tục lạc hậu.
Cùng với việc tăng thời lượng, chương trình, mở rộng phạm vi phát sóng, mở rộng
phạm vi phát hành báo chí đưa thông tin kịp thời phục vụ đồng bào các dân tộc thiểu số,
các cơ quan báo chí đã quan tâm đến hình thức thể hiện chương trình, nội dung và chất
lượng thông tin. Các tin, bài, phóng sự đã hướng tới nhóm độc giả đặc thù. Từ đó khẳng
định sự đúng đắn và thành công của quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta đối với đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi.

Nhờ được tiếp cận thông tin qua các phương tiện truyền thông, trong đó có vai trò
đặc biệt của truyền hình, đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã nắm bắt kịp thời các
chủ trương, chính sách của Đảng - Nhà nước; thực hiện đúng pháp luật và biết cách làm
kinh tế, vượt đói nghèo, từng bước nâng cao mức sống cho chính gia đình họ.
Với đồng bào các dân tộc thiểu số, truyền hình tiếng dân tộc như một món ăn tinh
thần không thể thiếu. Chương trình truyền hình đã phát bằng tiếng của dân tộc họ. Ngoài
vấn đề tiếng nói được tôn trọng, bình đẳng, điều quan trọng hơn là nội dung các chương
trình tiếng dân tộc đã truyền tải giúp họ tiếp thu thuận lợi hơn. Họ nghe và hiểu dễ hơn so
với tiếng phổ thông.
1.2.4.2. Sự hình thành và phát triển của Chương trình truyền hình tiếng dân tộc
trên sóng truyền hình Việt Nam
Tuyên truyền phục vụ miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số được Đài THVN xác
định là một nội dung quan trọng trong nhiệm vụ thông tin. Ngay từ những ngày đầu thành
lập, phóng viên truyền hình Việt Nam đã hòa mình cùng nhân dân cả nước trong đó có

đồng bào tộc thiểu số để cổ vũ tinh thần chiến đấu và sản xuất biểu dương khối đại đoàn
kết dân tộc và những đóng góp của đồng bào các dân tộc.
Từ tháng 02- 2002 Đài THVN đã đề nghị và được Chính phủ cho phép phát sóng
thử nghiệm truyền hình tiếng dân tộc tại Đài THVN qua vệ tinh (chương trình VTV5)
nhằm phục vụ đồng bào trên địa bàn cả nước, với thời lượng 4h/ngày, gồm 10 thứ tiếng dân
tộc thiểu số: H’Mông, Khơmer, Ê đê, Chăm, J Rai, K’ho, Ba Na, Xê Đăng, S’Tiêng, Răc
Lây.
Đầu năm 2003 Chương trình truyền hình tiếng dân tộc thuộc Đài THVN chính thức
trở thành một ban riêng lấy tên là Ban truyền hình tiếng dân tộc. Sau khi thành lập, Ban đã
từng bước xây dựng kiện toàn bộ máy tổ chức tập trung vào công tác biên tập, cải tiến nội
dung và nâng cao chất lượng chương trình. Tháng 03-2003 tất cả các chương trình phát sóng
trên kênh VTV5 đã có phụ đề tiếng Việt. Khi xem chương trình của dân tộc khác có phụ đề
tiếng Việt, đồng bào đều có thể hiểu được những nội dung chính. Hiệu quả chương trình
được nâng nên một bước. Đồng bào dân tộc rất phấn khởi, mong muốn được xem truyền
hình dân tộc với thời lượng nhiều hơn.

Tháng 01-2004, kênh VTV5 được tách hẳn thành một kênh độc lập, đánh dấu
bước phát triển mới của Ban. Thời lượng chương trình tăng gấp đôi, từ 4h/ngày lên
8h/ngày, phát sóng bằng 11 thứ tiếng. Do có sự sắp xếp lại nhân sự, đội ngũ phóng viên,
biên tập viên chuyên trách về mảng dân tộc miền núi, nên chương trình đã phát huy được
hiệu quả từng, bước nâng cao chất lượng chương trình.
Được Chính phủ phê duyệt, năm 1995 Đài THVN đã triển khai chương trình
truyền hình bằng các thứ tiếng dân tộc ở các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền
Trung và miền Tây Nam Bộ. Trong điều kiện khó khăn về giao thông, phương tiện kỹ
thuật, nguồn điện không ổn định…song, với quyết tâm phục vụ đồng bào, dự án "Đưa
truyền hình về vùng núi, vùng cao" đã cấp được gần 36 nghìn máy thu hình cho 4000
nghìn xã và trang bị cho trên 180 điểm xem TVRO, đạt gần 70% kế hoạch. Dự án "Phủ
sóng truyền hình vùng lõm" đã xây dựng được gần 300 trạm phát lại truyền hình cho 43
tỉnh, cung cấp hàng chục nghìn máy thu hình cho bà con. Mục tiêu của dự án đến năm
2010, sẽ phủ 100% sóng truyền hình trên cả nước.

Năm 2005, thời lượng chương trình truyền hình tiếng dân tộc là 10h/ngày. Năm
2006: 14h/ngày. Năm 2007: 14h/ngày với 13 thứ tiếng. Năm 2008: phát sóng trên VTV5
16h/ngày.
Từ ngày 01-01-2006 đến nay, VTV5 tiếp tục tăng thời lượng phát sóng lên 12
giờ/ngày (tăng 2 giờ/ngày so với năm 2005 và gấp 3 lần so với giai đoạn phát sóng thử
nghiệm). Song song với việc tăng thời lượng, chất lượng chương trình cũng được từng
bước cải tiến. Nội dung chương trình ngày càng sát với đời sống thực tế của bà con dân
tộc thiểu số.
Hiện nay, ngoài chương trình truyền hình bằng tiếng phổ thông, một số vùng có
đồng bào dân tộc, nhiều đài phát thanh - truyền hình địa phương, Đài THVN thường trú
tại các khu vực đã tổ chức sản xuất và phát sóng các chương trình bằng tiếng dân tộc.
Thông qua các chương trình truyền hình tiếng dân tộc, bà con học tập và làm theo
truyền hình nên đã góp phần nâng cao hiệu quả về các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội
cũng như an ninh quốc phòng. Nhiều điển hình tiên tiến, nhiều gương người tốt việc tốt là
đồng bào dân tộc thiểu số có tác dụng động viên rất lớn trong cộng đồng.

Theo lộ trình phát triển của kênh VTV5 thì thời lượng chương trình sẽ tăng như sau:
Năm 2007: 14 giờ/ngày; Năm 2008: 16 giờ/ngày; Năm 2009 đến 2010: 18 giờ/ngày với 15
thứ tiếng: Khơmer, Chăm, Ê đê, J Rai, Ba Na, K'Ho, Xê Đăng, S'Tiêng, Thái, Mường, Dao,
M'Nông, K'Tu, H'rê và không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng chương trình. Tất cả các
chương trình đều có phụ đề tiếng Việt để đồng bào xem và hiểu được hoạt động của các
dân tộc anh em.
Song song với nội dung trên, Ban truyền hình tiếng dân tộc còn có các chương trình
tiếng phổ thông như Bản tin Dân tộc trên kênh VTV5, Sắc màu văn hoá các dân tộc (gọi tắt
là Sắc màu văn hoá) trên sóng VTV2, và Chương trình Tạp chí Dân tộc và Phát triển trên
kênh VTV1.
Để có được thời lượng phát sóng như trên, VTV5 căn cứ vào 3 nguồn sản xuất
chương trình:
Một là: chương trình do phóng viên VTV5 trực tiếp sản xuất. Lực lượng phóng viên
này chủ yếu sản xuất tin bài cho Bản tin dân tộc, Tạp chí VTV5 và đặc biệt là hai chương

×