Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của việt nam dưới góc độ lợi thế so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 37 trang )

Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam dưới góc độ lợi thế so sánh

Kết cấu đề tài:
Phần I: Lý thuyết lợi thế so sánh
1. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
2. Sự phát triển lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo
2.1. Lý thuyết chi phí cơ hội của Haberler
2.2. Lợi thế so sánh trong trường hợp nhiều mặt hàng (Paul R. Krugman)
2.3. Lợi thế so sánh trong trường hợp nhiều nước
2.4. Mơ hình H-O (Heckscher – Ohlin)
2.5. Chỉ số lợi thế so sánh RCA

Phần II: Tổng quan về tình hình xuất khẩu của Việt Nam 2012 – 2013
1. Tình hình xuất khẩu năm 2012
2. Tình hình xuất khẩu năm 2013

Phần III: Một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam dưới góc độ lợi thế so sánh
1. Gạo
2. Thủy sản
3. Dệt may

Phần IV: Đánh giá lợi thế so sánh của Việt Nam


Phần I: Lý thuyết lợi thế so sánh
Người đầu tiên đề cập đến lợi thế so sánh là Robert Torrens vào năm 1815 khi ơng có một bài
viết về việc trao đổi ngũ cốc giữa Anh và Ba Lan. Ông rút ra kết luận là người Anh vẫn có lợi khi
xuất khẩu hàng hoá sang Ba Lan để đổi lấy ngũ cốc, cho dù họ có thể sản xuất ngũ cốc với chi phí
thấp hơn Ba Lan. Tuy vậy, người có đóng góp lớn nhất cho lý thuyết lợi thế so sánh chính là David
Ricardo khi ơng đã đưa ra những giải thích mang tính hệ thống trong cuốn sách xuất bản năm


1817 "Những nguyên lý kinh tế chính trị và thuế khố", sử dụng những ví dụ tương tự liên quan
đến hoạt động trao đổi rượu lấy vải vóc giữa Anh và Bồ Đào Nha.
1. Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
David Ricardo (1772 - 1823)
David Ricardo là con thứ 3 trong số 17 người con, trong gia đình rất thành đạt. Cha ơng là người
làm ngân hàng giàu có. Lúc đầu ở Hà-Lan, sau chuyển tới London. David học không nhiều và đi
làm cho cha khi 14 tuổi. Khi 21, ông cưới vợ trái ý gia đình và bị tước thừa kế, ơng lập cơng ty mơi
giới chứng khốn. Ricardo thành cơng như một hiện tượng và ông về hưu tuổi 42, tập trung viết
lách và chính trị; đóng góp nhiều cho lý thuyết kinh tế; là bạn của nhiều nhà kinh tế học cổ điển
Thomas Malthus và Jean-Baptiste Say. Cùng với Malthus ông mang quan điểm bi quan về tương
lai lâu dài của xã hội. Tuy vậy, phần lớn tư tưởng học thuyết Ricardo ngày nay vẫn còn giá trị lớn
và được giảng dạy rộng rãi. Các ấn phẩm của Ricardo đương thời không bán chạy lắm, nhưng qua
thời gian loài người đã nhận thức đúng giá trị to lớn của chúng. Phần lớn các lý thuyết của ông
tập trung vào lĩnh vực thị trường tiền tệ, và chứng khoán, bao gồm:
-

Giá vàng cao, một bằng chứng xuống giá của giấy nợ ngân hàng (1810);
Trả lời các quan sát của Bosanquet về báo cáo của Bullion Committee (1811);
Đề xuất về đồng tiền an toàn và tiết kiệm (1816)

Tác phẩm quan trọng về kinh tế học thị trường:
-

Luận văn về ảnh hưởng của giá ngô thấp và lợi nhuận của cổ phiếu (1815);
Các nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khố (1817).

Năm1817, Ricardo đã cho ra đời tác phẩm Nguyên lý của Kinh tế chính trị và thuế khố, trong đó
ơng đã đề cập tới lợi thế so sánh (Comparative advantage). Khái niệm này chỉ khả năng sản xuất
của một sản phẩm với chi phí thấp hơn so với sản xuất các sản phẩm khác. Lý thuyết của Ricardo
được xây dựng trên một số giả thiết, nhằm làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên đơn giản và trực

tiếp hơn.
Các giả thiết của Ricardo:
-

Thế giới chỉ gồm có hai quốc gia và hai mặt hàng


-

Chi phí vận chuyển giữa hai nước bằng 0
Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất và được di chuyển tự do giữa các ngành trong nước
nhưng không được di chuyển giữa các quốc gia
Nền kinh tế là cạnh tranh hoàn hảo

Quy luật lợi thế so sánh:
Quy luật lợi thế so sánh mà Ricardo rút ra là: Mỗi quốc gia nên chun mơn hố vào sản xuất và
xuất khẩu sản phẩm mà quốc gia đó có lợi thế so sánh và nhập khẩu sản phẩm mà quốc gia đó
khơng có lợi thế so sánh.
Kế thừa và phát triển lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, Ricardo đã nhấn mạnh: Những
nước có lợi thế tuyệt đối hồn tồn hơn hẳn các nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối so với
các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm, thì vẫn có thể và vẫn có lợi khi tham gia vào phân
công lao động và thương mại quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về sản
xuất một số sản phẩm và kém lợi thế so sánh nhất định về sản xuất các sản phẩm khác. Bằng việc
chun mơn hố sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh, tổng sản lượng
về sản phẩm trên thế giới sẽ tăng lên, kết quả là mỗi nước đều có lợi ích từ thương mại. Như vậy
lợi thế so sánh là cơ sở để các nước buôn bán với nhau và là cơ sở để thực hiện phân cơng lao
động quốc tế.
Quy luật này có thể làm sáng tỏ bằng cách xem xét trên bảng sau:
Sản phẩm
Lúa mì: Kg/người/h ( W )

Vải: mét/người/h (C )

Quốc gia
Mỹ
6
4

Anh
1
2

Trong trường hợp này, nước Anh khơng có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai loại hàng hoá
là lúa mỳ và vải so với Mỹ.
Tuy nhiên, vì lao động ở nước Anh có năng suất lao động trong việc sản xuất vải bằng 1/2 của Mỹ
và có năng suất trong việc sản xuất lúa mì bằng 1/6 của Mỹ. Do đó, nước Anh có lợi thế so sánh
trong việc sản xuất vải. Ngược lại, dù nước Mỹ có lợi thế tuyệt đối trong cả hai loại hàng hoá là
vải và lúa mì nhưng vì lợi thế tuyệt đối trong sản xuất lúa mì của Mỹ (6:1) lớn hơn lợi thế tuyệt
đối trong sản xuất vải (4:2) nên Mỹ có lợi thế so sánh trong việc sản xuất lúa mì. Tóm lại, nước
Mỹ có cả lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh trong việc sản xuất lúa mì. Nước Anh tuy khơng có
lợi thế tuyệt đối về sản xuất sản phẩm nào, nhưng vẫn có lợi thế so sánh trong việc sản xuất vải.
Theo quy luật lợi thế so sánh, cả hai quốc gia sẽ có lợi từ thương mại quốc tế nếu nước Mỹ chun
mơn hóa sản xuất lúa mì và xuất khẩu một phần để đổi lấy vải được sản xuất tại Anh (cùng lúc
đó, nước Anh sẽ chun mơn hóa sản xuất và xuất khẩu vải).
Lợi ích từ thương mại


Vừa rồi, chúng ta mới phân tích giản đơn về lợi thế so sánh và chưa chứng minh được quy luật
này. Để làm được điều này, chúng ta phải xem Anh và Mỹ có lợi như thế nào từ việc sản xuất và
xuất khẩu những hàng hố chúng có lợi thế so sánh.
Để bắt đầu chứng minh, chúng ta cần hiểu rằng Mỹ sẽ bàng quan với việc tham gia thương mại

quốc tế nếu nó chỉ trao đổi được 6W lấy 4C. Lý do là Mỹ có thể sản xuất chính xác 4C bằng cách
khơng sản xuất 6W và Mỹ sẽ khơng tham gia thương mại quốc tế nếu nó trao đổi 6W được ít hơn
4C. Tương tự, nước Anh sẽ bàng quan với việc tham gia thương mại quốc tế nếu nó chỉ trao đổi
được 2C lấy 1W và nó sẽ khơng tham gia thương mại quốc tế nếu nó trao đổi 2C được ít hơn 1W.
Để cho thấy cả hai quốc gia đều có lợi từ thương mại quốc tế, có thể giả sử rằng Mỹ có thể đổi
6W lấy 6C của Anh. Nước Mỹ sẽ có lợi 2C (tương đương 1/2h lao động) vì nếu khơng tham gia
thương mại quốc tế Mỹ chỉ có thể đổi 6W lấy 4C ở trong nước. Để thấy được việc nước Anh cũng
có lợi từ thương mại, chúng ta thấy rằng với 6W mà Anh nhận được từ việc trao đổi với Mỹ, Anh
sẽ cần phải bỏ ra 6h lao động để sản xuất ra nó. Nước Anh sẽ dùng 6h này để sản xuất ra 12C và
chỉ phải trao đổi 6C lấy 6W của Mỹ. Chính vì vậy, nước Anh sẽ có lợi 6C hay tiết kiệm được 3h lao
động. Một lần nữa, việc nước Anh có lợi hơn Mỹ khi tham gia vào thương mại quốc tế. Điều đó
cũng không quan trọng. Điều quan trọng là cả hai quốc gia đều có lợi ích khi tham gia vào thương
mại quốc tế, cho dù một quốc gia (trong trường hợp này là nước Anh) gặp bất lợi thế' tuyệt đối
trong việc sản xuất cả hai loại hàng hoá.
Chúng ta thấy rằng cả hai quốc gia sẽ có lợi nếu đổi 6W lấy 6C. Tuy nhiên, đây không phải là tỷ lệ
trao đổi duy nhất mà cả hai quốc gia đều có lợi. Vì nước Mỹ có thể đổi 6W lấy 4C ở trong nước
(cùng mất 1 giờ lao động) nên nước Mỹ chỉ có lợi nếu đổi 6W được nhiều hơn 4C của Anh. Mặt
khác, ở nước Anh 6W tương đương với 12C (Anh cần 6 giờ lao động để có được 6W). Ở bất kỳ tỷ
lệ trao đổi nào mà 6W có thể đổi được ít hơn 12C sẽ là lợi ích của nước Anh. Tóm lại, nước Mỹ
sẽ có lợi từ thương mại nếu nó trao đổi 6W được nhiều hơn 4C của Anh và nước Anh chỉ sẽ có
lợi nếu trao đổi được ít hơn 12C để có được 6W từ Mỹ. Do đó, miền trao đổi để cả hai quốc gia
cùng có lợi là:
4C < 6W < 12C
Khoảng cách từ 4C đến 12C cho biết tổng lợi ích do thương mại tạo ra khi trao đổi lấy 6W. Ví dụ,
chúng ta đã phân tích nếu trao đổi 6W lấy 6C thì Mỹ lợi 2C cịn Anh lợi 6C, tổng lợi ích của hai
quốc gia sẽ là 8C. Do đó, nếu tỷ lệ trao đổi càng gần 4C = 6W (gần với tỷ lệ trao đổi nội địa của
Mỹ thì Mỹ sẽ nhận được ít lợi ích hơn và Anh có nhiều lợi ích hơn. Ngược lại, nếu tỷ lệ trao đổi
càng gần 6W = 12C (tỷ lệ trao đổi nội địa của Anh) thì Mỹ sẽ nhận được lợi ích nhiều hơn so với
Anh.
Ví dụ, nếu nước Mỹ trao đổi 6W lấy 8C của Anh thì mỗi quốc gia đều có lợi 4C và tổng lợi ích của

2 quốc gia vẫn là 8C. Nếu nước Mỹ đổi 6W lấy 10C thì Mỹ sẽ có lợi 6C và Anh chỉ có lợi 2C (dĩ
nhiên lợi ích có được từ thương mại sẽ thay đổi nếu Mỹ trao đổi nhiều hơn 6W).


Chúng ta sẽ thấy rằng tỷ lệ trao đổi trong thực tế được quyết đinh bởi cung và cầu. Ngoài ra, tỷ
lệ trao đổi cũng bị quyết đinh bởi sự phân chia tổng lợi ích có được từ thương mại của các quốc
gia. Cho đến lúc này, tất cả những điều mà chúng ta đã làm là chứng minh thương mại quốc tế
có lợi cho cả hai quốc gia, cho dù một quốc gia có kém hiệu quả hơn trong việc sản xuất cả hai
mặt hàng.
Hạn chế của lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo
-

-

-

-

Lý thuyết của Ricardo được xây dựng dựa trên cơ sở học thuyết về giá trị lao động (lao
động là yếu tố duy nhất và đồng nhất trong tất cả các ngành sản xuất). Điều này là phi
thực tế nên lý thuyết lợi thế so sánh có nguy cơ bị bác bỏ.
Các phân tích của Ricardo khơng tính đến cơ cấu về nhu cầu tiêu dùng của mỗi nước, cho
nên dựa vào lí thuyết của ông người ta không thể xác định giá tương đối mà các nước
dùng trao đổi sản phẩm.
Các phân tích của Ricardo khơng đề cập tới chi phí vận tải, bảo hiểm hàng hóa và các rào
cản bảo hộ mậu dịch mà các nước dựng lên. Các yếu tố này ảnh hưởng quyết định đến
hiệu quả của thương mại quốc tế.
Lý thuyết của Ricardo khơng giả thích được nguồn gốc phát sinh thuận lợi của một nước
đối với một loại sản phẩm nào đó, cho nên khơng giải thích được triệt để được nguyên
nhân sâu xa của quá trình thương mại quốc tế.


2. Sự phát triển lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo
Những nhà kinh tế thế hệ sau và theo trường phái Ricardo (còn gọi là Ricardian) tiếp tục nghiên
cứu về lợi thế so sánh dựa trên cách tiếp cận khác hơn và mở rộng mơ hình nghiên cứu so với
Ricardo. Tiêu biểu như Haberler, Heckscher - Ohlin và Paul Krugman. Haberler đã vận dụng lý
thuyết chi phí cơ hội để nghiên cứu giải thích lợi thế so sánh. Mơ hình nghiên cứu của Ricardo
với một yếu tố sản xuất đó là lao động, nhưng đối với Heckscher - Ohlin nghiên cứu lợi thế so
sánh với mơ hình 2 yếu tố sản xuất, đó là lao động và vốn trong điều kiện chi phí cơ hội tăng. Mơ
hình thương mại của Heckscher - Ohlin còn gọi là 2 x 2 x 2 (2 quốc gia, 2 sản phẩm và 2 yếu tố sản
xuất). Paul R.Krugman xem xét lợi thế so sánh trong trường hợp nhiều hàng hoá...
2.1. Lý thuyết chi phí cơ hội của Haberler
Các giả thiết:
Các giả thiết tương tự các giả thiết trong lý thuyết lợi thế so sánh, ngoại trừ giả thiết “Chỉ có một
yếu tố sản xuất duy nhất là lao động”
Nội dung:
Nếu mỗi quốc gia chun mơn hố sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mà mình có chi phí cơ hội
thấp hơn và nhập khẩu sản phẩm mà mình có chi phí cơ hội cao hơn thì tất cả các quốc gia đều
có lợi.


Theo Haberler, chi phí cơ hội của mặt hàng X là số lượng mặt hàng Y cần được cắt giảm để sản
xuất thêm 1 đơn vị hàng hóa X. Trong hai quốc gia, quốc gia nào có chi phí cơ hội của X thấp hơn
thì sẽ có lợi thế so sánh về mặt hàng này. Thực chất, chi phí cơ hội là cách phát biểu khác của giá
tương đối.
Đường giới hạn khả năng sản xuất:
Mọi nền kinh tế đều có những nguồn lực hạn chế, do đó có những giới hạn về năng lực sản xuất
và ln ln có sự bù trừ. Để sản xuất một mặt hàng nhiều hơn, nền kinh tế phải hy sinh một
phần việc sản xuất một mặt hàng khác. Điều này được minh hoạ bằng đường giới hạn khả năng
sản xuất. Khi chi phí cơ hội khơng đổi thì đường giới hạn khả năng sản xuất là một đường thẳng.
Mơ hình:

Bảng số giờ cơng lao động để tạo ra 1 đơn vị sản phẩm:
Sản phẩm
X
Y
Tỷ lệ trao đổi nội bộ

Quốc gia
A
1
3
1Y = 3X

B
2
3
1Y = 2X

Một điểm nổi bật của bảng này là quốc gia A có yêu cầu lao động theo đơn vị sản phẩm thấp hơn
và do đó có năng suất lao động cao hơn trong sản xuất hai sản phẩm.
Trước hết xác định lợi thế so sánh của từng quốc gia.
Chi phí cơ hội

Quốc gia

A
B
Sản phẩm X
1/3Y
1/2Y
Sản phẩm Y

3X
2X
So sánh chi phí cơ hội, cho thấy quốc gia A có lợi thế so sánh trong sản xuất sản phẩm X, quốc gia
B có lợi thế so sánh trong sản xuất sản phẩm Y. Từ đó, quốc gia A sẽ chun mơn hóa sản xuất và
xuất khẩu sản phẩm X, còn với quốc gia B là sản phẩm Y. Hai quốc gia sẽ đều được hưởng lợi từ
trao đổi, đường giới hạn khả năng tiêu dùng sẽ vượt ra khỏi đường giới hạn khả năng sản xuất.
2.2. Lợi thế so sánh trong trường hợp nhiều mặt hàng (Paul R. Krugman)
Cho đến nay, phân tích của chúng ta vẫn dựa trên mơ hình thương mại đơn giản chỉ có 2 hàng
hố được sản xuất và tiêu thụ. Sự phân tích này đã được đơn giản hoá, cho phép chúng ta rút ra
nhiều luận điểm quan trọng về lợi thế so sánh và thương mại quốc tế.
Tuy nhiên, để tiến sát dần với thực tế hơn chúng ta cần phải hiểu lợi thế so sánh hoạt động như
thế nào trong trường hợp một mơ hình có nhiều loại hàng hoá. Chúng ta giả định rằng thế giới
chỉ có hai nước: Nội địa và Nước ngồi. Mỗi nước chỉ có một yếu tố sản xuất đó là lao động. Trình


độ công nghệ mà mỗi nước sử dụng được phản ánh bằng yêu cầu lao động theo đơn vị sản phẩm
cho mỗi loại hàng hố, đó là số giờ lao động để sản xuất một đơn vị hàng hoá. Yêu cầu lao động
theo đơn vị sản phẩm của Nội địa được ký hiệu bằng chữ X, yêu cầu lao động theo đơn vị sản
phẩm của Nước ngoài được ký hiệu bằng chữ Y. Điều này được minh hoạ bằng ví dụ sau đây:
Bảng: Yêu cầu lao động theo đơn vị của nội địa và nước ngồi
Hàng hố
Táo
Chuối
Cam
Chà là
Bánh mì

u cầu lao động
của Nội địa ( X )
1

5
3
6
12

Yêu cầu lao động
của nước ngoài (Y)
10
40
12
12
9

Lợi thế năng suấttương đối của
nội địa so với nước ngoài
10
8
4
2
0.75

Chúng ta đã xếp các loại hàng theo thứ tự lợi thế năng suất của Nội địa so với Nước ngồi trong
mỗi mặt hàng. Theo đó Nội địa có lợi thế nhất về táo và kém lợi thế nhất về bánh mỳ. Để xác định
được nước nào có lợi thế so sánh về sản xuất hàng hoá nào cần phải đặt trong mối quan hệ giữa
mức lương nội địa và nước ngoài. Paul R. Krugman đã chỉ rõ điểm then chốt để xác đính lợi thế
so sánh trong trường hợp nhiều mặt hàng.
"Nước nào sản xuất hàng hoá gì phụ thuộc vào tỷ lệ lương giữa Nội địa và Nước ngồi. Nội địa sẽ
có lợi thế chi phí ở hàng hố nào có năng suất lao động tương đối cao hơn mức lương tương đối
của nó, và Nước ngồi sẽ có lợi thế ở số hàng hố khác. Chẳng hạn, nếu mức lương Nội địa cao
gấp 5 lần Nước ngồi, thì táo và chuối sẽ được sản xuất ở Nội địa, và cam, chà là và bánh mì sẽ

được sản xuất ở Nước ngoài.
Nếu như mức lương Nội địa chỉ cao gấp 3 lần Nước ngoài, Nội địa chỉ sản xuất táo, chuối và cam,
trong khi Nước ngoài sản xuất chà là và bánh mì. Theo quy luật lợi thế so sánh, Nội địa sẽ chun
mơn hố sản xuất và xuất khẩu táo, chuối và cam ra Nước ngồi và nhập khẩu chà là và bánh mì
từ nước ngồi; cịn Nước ngồi thì ngược lại. Bằng việc chun mơn hố và trao đổi như vậy sẽ
đem lại lợi ích cho cả Nội địa và Nước ngoài.
2.3. Lợi thế so sánh trong trường hợp nhiều nước
Trong quy mô hai nước, mơ hình thương mại ln đúng. Với hai loại hàng hố, mơ hình thương
mại được quyết đinh bởi lợi thế so sánh dựa trên đại lượng tương đối về lao động. Trong mơ
hình nhiều nước, có sự xuất hiện của tiền, mơ hình thương mại được quyết đĩnh bởi tiền lương
và chi phí lao động tương đối. Tuy nhiên, khi ba nước được đưa ra xem xét, chuyên môn hố
trong mơ hình khơng đúng.
Trở lại với thế giới chỉ có 2 loại hàng hố, để nhằm đơn giản việc phân tích, chúng ta hãy kiểm
nghiệm trong trường hợp trao đổi giữa 3 nước để khái qt hố mơ hình thương mại. Ví dụ sau
đây chỉ ra một cơ sở rõ ràng cho việc trao đổi bởi vì giá trị trao đổi khác nhau giữa các nước.


Để làm rõ các nhận xét ở trên, hãy xem xét và phân tích ví dụ sau:
Bảng: Mơ hình thương mại 3 quốc gia, 2 hàng hoá
Quốc gia
Thụy Điển
Đức
Pháp

Cá (F)
4h / 1 đv
5h/ 1 đv
5h/ 1 đv

Dao kéo (C)

10 h/1đv
15 h/1đv
20 h/1đv

Tỷ lệ trước thương mại
1C = 2,5 F
1C = 3 F
1C = 4 F

Mục tiêu trao đổi chỉ xảy ra giữa 2 nước có giá trị trước thương mại (giá nội bộ) chênh lệch nhất.
Ớ đây ta thấy lợi ích của thương mại xảy ra giữa Thụy Điển và Pháp. Bởi vì tỷ lệ giá nội bộ giữa
hai nước này cách xa nhau nhất. Cân bằng trong trao đổi sẽ nằm đâu đó giữa tỷ lệ 1C : 2,5F và 1C
: 4F (dấu : với nghĩa là đổi).
Thụy Điển có lợi thế so sánh trong sản xuất dao kéo, do (10/20 < 4/5). Pháp có lợi thế so sánh
trong việc sản xuất cá và mơ hình thương mại giữa hai nước được quyết định như trong trường
hợp mơ hình thế giới chỉ có hai nước. Thế' cịn nước Đức thì sao? Đức có thể thực hiện thương
mại hay khơng? Nếu có thì hàng hố nào của Đức sẽ có lợi thế?
Giống như hàng hố trung gian trong ví dụ có nhiều hàng hố, vai trị thương mại của nước trung
gian khơng có câu trả lời. Việc tham gia thương mại của Đức sẽ phụ thuộc vào điều kiện trao đổi
quốc tế. Ba khả năng tồn tại trong khoảng (1C : 2,5F - 1C : 4F). Điều kiện thực hiện trao đổi có thể
là: 1C : 3F; 1C: > 3F hay 1C : < 3F.





Trong trường hợp đầu tiên, (1C : 3F), điều kiện thực hiện thương mại chính xác bằng với giá
nội địa ở Đức. Như vậy, Đức không có lợi khi thực hiện trao đổi.
Trong trường hợp thứ hai 1C : > 3F (đổi 1C lấy nhiều hơn 3 F), ví dụ ta đổi 1C = 3,5F. Lúc này,
Đức sẽ có lợi khi thực hiện trao đổi bởi vì tỷ lệ trao đổi quốc tế' khác với tỷ lệ trao đổi trong

nước. Đức sẽ có lợi khi xuất khẩu dao kéo (C) và nhập khẩu cá (F). Đức sẽ đổi được 1C lấy
3,5F trong khi trong nước 1C chỉ đổi được 3F. Mơ hình trao đổi trên thế giới lúc này sẽ là Đức
và Thuỵ Điển xuất khẩu dao kéo (C) và nhập khẩu cá (F) từ Pháp.
Trong trường hợp thứ ba 1C: < 3 F, ví dụ ta cho rằng 1C = 2,8F. Như vậy, Đức lại có thể thực
hiện thương mại vì tỷ lệ trao đổi 1C = 2,8F khác với 1C = 3F tại Đức. Tuy nhiên, mơ hình trao
đổi lúc này khơng giống như ở trường hợp thứ hai. Đức sẽ xuất khẩu cá (F) và nhập khẩu dao
kéo (C) và 1 dao kéo sẽ chỉ đổi được 2,8 cá (F) so với 1 dao kéo đổi được 3 cá (trong nước).
Mơ hình thương mại của thế giới sẽ là Pháp và Đức xuất khẩu cá và nhập khẩu dao kéo từ
Thuỵ Điển. Khi tỷ lệ trao đổi thương mại quốc tế' được xác đinh, ta sẽ biết được nước nào là
nước trung gian. Và thương mại sẽ xảy ra chỉ khi tỷ lệ trao đổi trên thế giới lớn hơn hoặc nhỏ
hơn tỷ lệ giá trao đổi nội địa.

2.4. Mơ hình H-O (Heckscher – Ohlin)


Mơ hình Heckscher-Ohlin, nhiều khi được gọi tắt là Mơ hình H-O, là một mơ hình tốn cân bằng
tổng thể trong lý thuyết thương mại quốc tế và phân công lao động quốc tế dùng để dự báo xem
quốc gia nào sẽ sản xuất mặt hàng nào trên cơ sở những yếu tố sản xuất sẵn có của quốc gia. Eli
Heckscher và Bertil Ohlin của Thụy Điển là hai người đầu tiên xây dựng mơ hình này, nên mơ hình
mang tên họ, dù sau này có nhiều người khác tham gia phát triển mơ hình. Mơ hình dựa vào lý
luận về lợi thế so sánh của David Ricardo.
Mơ hình ban đầu do Heckscher và Ohlin xây dựng chưa phải là mơ hình tốn, chỉ giới hạn với hai
quốc gia, hai loại hàng hóa có thể đem trao đổi quốc tế và hai loại yếu tố sản xuất (đây là hai biến
nội sinh). Vì thế mơ hình ban đầu cịn được gọi là Mơ hình 2 x 2 x 2.
Về sau, mơ hình được Paul Samuelson là người đầu tiên áp dụng tốn học vào, nên có khi được
gọi là Mơ hình Heckscher-Ohlin-Samuelson hay Mơ hình H-O-S. Jaroslav Vanek mở rộng để áp
dụng cho nhiều quốc gia và nhiều sản phẩm, nên cũng thường được gọi là Mơ hình HeckscherOhlin-Vanek.
Mơ hình Heckscher-Ohlin dựa trên các giả thiết sau:






Công nghệ sản xuất cố định ở mỗi quốc gia và như nhau giữa các quốc gia.
Cơng nghệ đó ở mỗi quốc gia đều có lợi tức theo quy mơ cố định.
Lao động và vốn có thể di chuyển tự do trong biên giới mỗi quốc gia, nhưng không thể di
chuyển tự do từ quốc gia này sang quốc gia khác.
Cạnh tranh trong nước là hồn hảo.

Mơ hình Heckscher-Ohlin phiên bản 2 x 2 x 2 sử dụng hàm Cobb-Douglass vì nó phù hợp với giả
thiết về lợi tức theo quy mô không đổi.
Mô hình đưa ra những kết luận sau: Nước nào có nhiều yếu tố đầu vào nào hơn thì nước đó sẽ
xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng yếu tố đầu vào đó và nhập khẩu các sản phẩm thâm dụng
yếu tố đầu vào kia. Kết luận này được kinh tế học gọi là Định lý Heckscher-Ohlin.
Tuy nhiên, nghiên cứu thực nghiệm của Wassily W. Leontief năm 1954 về mơ hình HeckscherOhlin dùng số liệu thống kê của Hoa Kỳ đã cho thấy dù Hoa Kỳ là nước sẵn vốn hơn là lao động,
nhưng nước này vẫn xuất khẩu đáng kể các sản phẩm thâm dụng lao động và nhập khẩu nhiều
sản phẩm thâm dụng vốn. Kinh tế học gọi phát hiện này của Leontief là Nghịch lý Leontief. Những
nghiên cứu thực nghiệm khác cũng cho thấy mơ hình này khơng được chấp nhận về mặt thống
kê, từ đó đề nghị cần điều chỉnh mơ hình, cụ thể là thay đổi các giả thiết, nhất là giả thiết về công
nghệ.

2.5. Chỉ số lợi thế so sánh RCA
“RCA” - Lợi thế so sánh biểu hiện ( The co-efficient of Revealed Comparative Advantage ) dùng
để đo lường lợi thế so sánh của sản phẩm này với sản phẩm khác và nước này với nước khác.


Đến nay RCA được các nước sử dụng như là một chỉ số để đo lường lợi thế so sánh. Chỉ số RCA
chỉ ra khả năng cạnh tranh xuất khẩu của một quốc gia về một sản phẩm xác định trong mối
tương quan với mức xuất khẩu thế giới của sản phẩm đó.
Cơng thức :


RCA = (Exa/ Ea) : (E xw/ Ew)
Trong đó:








Exa : kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của nước A
Ea : tổng kim ngạch xuất khẩu của nước A
Exw : kim ngạch xuất khẩu sản phẩm X của thế giới
Ew: tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới Hệ số:
RCA>2,5: Sản phẩm có lợi thế so sánh rất cao
1RCA<1: Sản phẩm bất lợi thế so sánh

Phần II: Tổng quan về tình hình xuất khẩu của Việt Nam 2012 – 2013
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2003 - 2013
140

132.17
114.5

120
96.906

100


80

72.237
62.685

60

57.096

48.561
39.826

40
20.149

26.485

32.447

20
0
2003

2004

2005

2006


2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

1. Tình hình xuất khẩu năm 2012:
1.1. Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm 2012 ước đạt 114,5 tỷ USD, tăng 18% (17,5 tỷ USD) so
năm 2011 là mức cao nhất từ trước tới nay, vượt xa so với kế hoạch đề ra (tăng 10%). Kim ngạch


xuất khẩu bình quân đầu người cả năm lên tới 1.306 USD, so với mức 1.083 USD năm 2011 và
mức 831 USD năm 2010. Tỷ lệ xuất khẩu/GDP vượt qua mốc 75%, là mức cao so với tỷ lệ đã đạt
được trong các năm trước. Năm 2012 Việt Nam xuất siêu 284 triệu USD và là năm đầu tiên Việt
Nam xuất siêu kể từ năm 1993.
Quy mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao đạt được chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngồi (FDI) với tổng giá trị lên tới 73 tỷ USD (tăng 31%) so với năm 2011 còn khu vực kinh
tế trong nước đạt 42 tỷ USD (tăng 0,9%).
Điểm nổi bật trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2012, đó là đã vượt qua Braxin
để trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới, và vượt qua Thái Lan trong xuất khẩu gạo,
mặc dù thu nhập từ xuất khẩu hàng hóa cơ bản có phần giảm sút do đơn giá thấp hơn.
1.2. Xuất khẩu khá toàn diện

Các mặt hàng nông sản chủ lực như gạo, cà phê, hạt tiêu, nhân điều, cao su với số lượng ngày
càng nhiều, chất lượng được cải thiện hấp dẫn cả ở thị trường cao cấp, duy trì vị thế cao trên
thương trường quốc tế. Năm 2012 ước xuất khẩu được 7,72 triệu tấn gạo, thứ 2 thế giới sau Ấn
Độ (khoảng 9,7 triệu tấn) Gạo Việt Nam được ưa chuộng vì gặt hái xong bán liền, thiên hạ luôn
được “ăn cơm mới”. Cà phê đã vượt qua Braxin, Colombia giành ngôi đầu. Hạt tiêu vẫn giữ ngôi
“quán quân” thế giới, chiếm khoảng 40 - 50% lượng hồ tiêu giao dịch toàn cầu. Việt Nam đứng
thứ 5 thế giới về sản suất cao su thiên nhiên và đứng thứ 4 về xuất khẩu cao su. Cao su nguyên
liệu và các sản phẩm từ cao su như lốp xe hơi, xe tải, các thiết bị y tế, chỉ cao su, ống cao su, dây
cao su, găng tay đã xuất khẩu sang Trung Quốc, Mỹ Ấn Độ, Hàn Quốc, Đức,.... trong đó xuất khẩu
sang Trung Quốc chiếm 62%. Năm 2012 có 22 mặt hàng đạt từ 1 tỷ USD trở lên, trong khi năm
2000 chỉ có 4 mặt hàng. Năm đó dầu thơ đứng đầu chỉ có 3,5 tỷ USD, đến năm 2012 đứng đầu là
dệt may đạt 15 tỷ USD. Như vậy, không chỉ vượt trội về số lượng gương mặt mà từng gương mặt
đều sáng giá. Sự tăng trưởng các mặt hàng thuộc khối nông nghiêp - nông thôn, đã khiến cho
khối này suất siêu tới 10 tỷ USD.
Một số mặt hàng chủ lực đạt kim ngạch xuất khẩu tăng cao so với năm 2011 là: Điện thoại các
loại và linh kiện: đạt 12,7 tỷ USD, tăng 101,6%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 7,9 tỷ USD, tăng
67,1%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 5,5 tỷ USD, tăng 29,8%;Thành tích này chủ yếu là
của Samsung Việt Nam, năm 2011 đã chiếm đến 70% kim ngạch xuất khẩu điện thoại di động, trị
giá 6 tỉ USD, và năm 2012 xuất khẩu với tốc độ 1 tỉ USD giá trị hàng hóa mỗi tháng. Xuất khẩu
máy tính, các mặt hàng điện tử đứng ở mức 7,9 tỉ USD, tăng 69,1% so với năm 2011. Các mặt
hàng nông sản cũng tăng mạnh về khối lượng, trong đó mặt hàng gạo đạt 8,1 triệu tấn với giá trị
3,7 tỷ USD, tăng 13,9% về lượng và 2,1% về giá trị so cùng kỳ năm 2011. Đây là lần đầu tiên xuất
khẩu gạo đạt trên 8 triệu tấn. Các mặt hàng chế tác sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày
dép, sản phẩm gỗ tiếp tục đạt kết quả tốt. Tình hình tăng trưởng mạnh mẽ của các ngành hàng
xuất khẩu chế tác có giá trị cao từ Việt Nam là một trong những thành cơng tích cực nhất trong
những năm gần đây. Những mặt hàng này chiếm khoảng 17% giá trị xuất khẩu cơng nghiệp của
Việt Nam và có tiềm năng tăng trưởng hơn nữa trong tương lai. Nhìn chung, đóng góp vào thành


tích xuất khẩu năm 2012, khu vực đầu tư nước ngồi có bước tăng trưởng mạnh, nhờ năng lực

sản xuất của nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong ngành điện tử. Ngoài ra,
phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 4,4 tỷ USD, tăng 31%; cà phê đạt 3,6 tỷ USD, tăng 37,1%.

Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch tăng khá là: dầu thơ đạt 9,5 tỷ USD, tăng 15%; giày dép
đạt 7,0 tỷ USD, tăng 11%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 4,6 tỷ USD, tăng 18,3%; sản phẩm chất dẻo đạt
1,6 tỷ USD, tăng 18%; túi xách, ví, va-li, mũ, ơ, dù đạt 1,6 tỷ USD, tăng 17,9%. Rau quả tăng 26%,
sắn và sản phẩm từ sắn tăng 38%. Thủy sản đạt 6,1 tỷ USD, tăng 2%. Chè tăng 14%. Lượng gạo
xuất khẩu đạt 7,7 triệu tấn, kim ngạch đạt 3,7 tỷ USD; than đá đạt 1,1 tỷ USD, giảm 27,2% về kim
ngạch và giảm 16,1% về lượng.
Điểm đáng quan tâm trong xuất khẩu năm 2012 là số mặt hàng xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD đã
lên tới 7 mặt hàng, tăng 4 mặt hàng so với năm 2011, trong đó có 2 mặt hàng đạt trên 10 tỷ USD,
tăng gấp 2 lần năm 2011 là dệt may (gần 15 tỷ USD) và điện thoại và linh kiện (12,7 tỷ USD).

1.3. Tăng mạnh tỷ trọng công nghiệp chế biến
Điểm nhấn là xu hướng nhóm hàng cơng nghiệp chế biến, chế tạo gia tăng nhanh về kim ngạch
và tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2012, nhóm này đạt kim ngạch 74 tỷ USD, chiếm
tỷ trọng 64,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, tốc độ tăng trưởng 24,7%,.
Đây cũng là nhóm hàng có tốc độ tăng cao nhất, quy mơ lớn nhất, giữ vai trị chủ lực trong cơ cấu
hàng hóa xuất khẩu. Trong nhóm này, một số mặt hàng có mức tăng cao như: máy ảnh, máy quay
phim (247%); điện thoại (97,7%), máy tính và sản phẩm điện tử (69%)…
Ngồi ra, nhóm hàng cơng nghiệp chế biến đã làm tăng kim ngạch 14,6 tỷ USD, riêng 4 mặt hàng
chủ lực trên là 11,1 tỷ USD.


Sự chuyển đổi về cơ cấu mặt hàng theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến, chế tạo đã mở
rộng đường vào các thị trường các nước phát triển. Cụ thể, xuất khẩu vào châu Đại Dương tăng
26,1%, châu Á tăng 23,6%, châu Âu 17,2%, châu Mỹ 15,8%. Bên cạnh đó, xu hướng này góp phần
cải thiện cán cân thương mại với một số đối tác, nhất là với các nước ASEAN và Đơng Bắc Á.

1.4. Các nhóm hàng khác tăng trưởng chậm

Nhóm hàng nơng-lâm-thủy sản và nhóm hàng nhiên liệu và khống sản có mức tăng trưởng chậm
và giảm tỷ trọng trong tổng kim ngạch. Cụ thể, nhóm hàng nông-lâm-thủy sản đạt kim ngạch 21
tỷ USD, chiếm tỷ trọng 18,3%, tốc độ tăng trưởng 6,4%.
Nhóm nhiên liệu, khống sản đạt kim ngạch 11,69 tỷ USD, chiếm 10,2%, tốc độ tăng trưởng 4,2%.
Trong nhóm này, trừ dầu thơ, các mặt hàng còn lại đều giảm lượng xuất khẩu, thậm chí quặng và
khống sản giảm tới 30%.
Trong cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, nhóm mặt hàng chủ lực đã “vắng bóng” các hàng ngun liệu
như dầu thơ, gạo, cà phê... Đứng đầu là dệt may với 15 tỷ USD, điện thoại với 12,6 tỷ USD, máy
tính và sản phẩm điện tử với 7,88 tỷ USD, giày dép với 7,2 tỷ USD…
Như vậy, thế mạnh truyền thống dần nhường ngôi cho các lĩnh vực gia công, chế biến mới nổi,
đang làm thay đổi tích cực lĩnh vực xuất khẩu, chuyển nguyên liệu thô sang các mặt hàng chế
biến.

1.5. Thị trường xuất khẩu
Trong năm 2012, EU vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nước ta với kim ngạch ước tính đạt
20 tỷ USD, tăng 21,3% so với năm 2011. Tiếp đến là thị trường Mỹ đạt 19 tỷ USD, tăng 17%;
ASEAN đạt 17,8 tỷ USD, tăng 28%; Nhật Bản đạt 13,9 tỷ USD, tăng 23,3%; Trung Quốc đạt 14,2 tỷ
USD, tăng 11,1%; Hàn Quốc đạt 7 tỷ USD, tăng 16,3%.
Nhìn các thành phần tham gia xuất khẩu càng khẳng định vai trị của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (DN FDI) với mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng chung (có
cả dầu thơ tăng 31,2%, không kể dầu thô tăng 33,5% ). Điều này thực sự có ý nghĩa trong bối cảnh
thu hút FDI từ đầu năm nay trầm lắng. Khối các DN 100% vốn trong nước về cuối năm càng nỗ
lực, đến 9 tháng 2012 Khối này chỉ bằng 99% cùng kỳ năm ngoái, cả năm 2012 tỷ lệ đó đã nhích
lên 101%.

1.6. Đánh giá:
Nhìn chung, xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh ở cả hai đầu của chuỗi giá trị hàng hóa cơng nghệ
cao và hàng nông sản, trong khi tỉ trọng của tất cả các ngành hàng khác trong tổng giá trị xuất



khẩu đều giảm từ nhẹ đến mạnh. Xuất khẩu dầu thô giảm mạnh trong thập niên vừa qua, từ gần
20% tổng giá trị xuất khẩu xuống còn khoảng 8%. Tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghệ cao tăng
mạnh, từ dưới 4% năm 2003 lên gần 18% năm 2012, trong khi tỉ trọng hàng hóa nơng sản chỉ
tăng nhẹ. Tuy nhiên, những năm gần đây, với tổng kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ trên dưới
20%/năm thì hầu hết các ngành xuất khẩu đều có tăng trưởng dương. Tỷ trọng hàng hóa nơng
sản gia tăng chủ yếu là do bùng nổ thị trường hàng hóa tồn cầu và tăng khối lượng xuất khẩu
trong những năm gần đây, chứ ít liên quan đến việc gia tăng chuỗi giá trị. Cùng với kết quả ấn
tượng của xuất khẩu, nhập khẩu đã giảm mạnh. Tổng kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 114,3 tỉ
USD, chỉ tăng 7,1% so với năm 2011. Nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ở mức
cao, và nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước giảm.
Tuy hoạt động xuất khẩu năm 2012 của nước ta đạt kết quả tích cực, nhưng vẫn cịn một số tồn
tại, cần sớm được giải quyết. Nhiều ý kiến cho rằng, nhìn chung, quy mơ xuất khẩu cịn nhỏ, phát
triển xuất khẩu vẫn chủ yếu theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng thấp, chi phí xuất khẩu cao.
Hoạt động xuất khẩu phản ứng chậm so với các biến động của thị trường thế giới, cơ cấu mặt
hàng xuất khẩu chậm chuyển dịch theo hướng hiệu quả, hiện đại. Sự phát triển thị trường ngoài
nước chủ yếu theo chiều rộng, chưa hướng mạnh vào phát triển theo chiều sâu, chất lượng thông
tin dự báo chiến lược thị trường quốc tế còn yếu kém, chưa thực hiện thành công một số bước
điều chỉnh chiến lược thị trường xuất nhập khẩu.

2. Tình hình xuất khẩu năm 2013:
2.1. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2013 đã chính thức khép lại với con số ấn tượng nhất từ
trước đến nay: 132,17 tỷ USD, tăng 15,4% so với năm 2012. Tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt
khoảng 131,3 tỷ USD, tăng khoảng 15,4% so với năm 2012.
Như vậy, năm 2013 Việt Nam chính thức xuất siêu ở mức 863 triệu USD, đây cũng là năm thứ hai
liên tiếp kể từ khi gia nhập WTO (năm 2007) Việt Nam đạt thặng dư thương mại.
STT

Tên hàng

1

Điện thoại và các loại linh kiện
2
Hàng dệt, may
3
Điện tử, máy tính và linh kiện
4
Giày dép
5
Dầu thơ
6
Thủy sản
7
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác
8
Gỗ và sản phẩm gỗ
9
Phương tiện vận tải và phụ tùng
10
Gạo
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Trị giá (tỷ USD)
21,517
17,891
10,677
8,366
7,236
6,734
6,033
5,496

4,983
2,986

Tăng trưởng so với
2012 (%)
69,2
18,6
36,2
15,2
-19,1
10,6
9
17,8
7,8
-18,7


Trị giá xuất khẩu 10 nhóm hàng lớn nhất năm 2013 so với năm 2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
2.2. Công nghiệp chế biến tăng:
Tăng trưởng xuất khẩu năm 2013 đạt được ở hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Cả nước
có 22 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD và lần đầu tiên xuất khẩu mặt hàng
rau quả đã vào danh sách nhóm xuất khẩu trên 1 tỷ USD.
Báo cáo của Bộ Công Thương cho biết, xét về cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu đã có sự chuyển
dịch tích cực. Theo đó, cơ cấu xuất khẩu của nhóm nhiên liệu nơng thuỷ sản đã từng bước giảm
và tăng dần tỷ trọng nhóm hàng cơng nghiệp chế biến.
Năm 2013, nhóm cơng nghiệp chế biến ước đạt 93 tỷ USD, chiếm 70,5% trong tổng KNXK, tăng
25,5% so với năm 2012. Đây là nhóm hàng có tốc độ tăng cao nhất, quy mơ xuất khẩu lớn nhất
và là nhóm hàng chủ lực trong cơ cấu hàng hố xuất khẩu của Việt Nam, đóng góp vai trò quan
trọng, kéo xuất khẩu cả nước tăng trưởng.

Trong số 26 nhóm mặt hàng thuộc nhóm này, chỉ có 2 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm là
phân bón các loại và máy ảnh, máy quay phim và linh kiện. Các mặt hàng cịn lại đều có kim ngạch
xuất khẩu tăng. Điển hình những mặt hàng có mức tăng trưởng cao là điện thoại các loại và linh
kiện (tăng 69,2%); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (tăng 36,2%); hố chất (tăng 32,4%).

2.3. Các nhóm hàng nơng lâm thủy sản, nhiên liêụ và khống sản giảm


Tuy nhiên, kim ngạch các nhóm hàng nơng, lâm thủy sản; nhiên liệu và khoáng sản giảm lần lượt
5,3% và 16,2% do kim ngạch các mặt hàng xuất khẩu lớn như gạo, cà phê, cao su, than đá, dầu
thô… đều giảm. Nhiều mặt hàng trong các nhóm này giảm cả về sản lượng và giá xuất khẩu.

2.4. Thị trường xuất khẩu:
EU tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu năm 2013 ước
đạt 24,4 tỷ USD tăng 20,4% (tương đương 4,1 tỷ USD) so với năm 2012, kim ngạch xuất khẩu một
số mặt hàng tăng so với năm 2012 như: Điện thoại các loại và linh kiện tăng 56% (2,75 tỷ USD);
giầy dép tăng 10,5% (245 triệu USD); hàng dệt may tăng 11,2% (243 triệu USD).
Hoa Kỳ đứng thứ 2 với kim ngạch xuất khẩu ước tính đạt 23,7 tỷ USD, tăng 20,3% (4 tỷ USD), kim
ngạch xuất khẩu một số mặt hàng tăng như: Hàng dệt may tăng 14% (973 triệu USD); giầy dép
tăng 16,9% (340 triệu USD); gỗ và các sản phẩm gỗ tăng 10,3% (167 triệu USD).
Tiếp đến là ASEAN đạt 18,5 tỷ USD, tăng 6,3% (1,1 tỷ USD) với các mặt hàng chủ yếu: Điện thoại
các loại và linh kiện tăng 75,2% (992 triệu USD); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện tăng
30,7% (414 triệu USD). Nhật Bản ước tính đạt 13,6 tỷ USD, tăng 3,8% (496 triệu USD). Hàn Quốc
6,7 tỷ USD, tăng 19,9% (1,1 tỷ USD). Trung Quốc đạt 13,1 tỷ USD, tăng 2,1% (269 triệu USD).

2.5. 10 điểm vượt trội của xuất khẩu năm 2013
Thứ nhất, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa vượt khá xa so với chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra. Kế
hoạch năm 2013 đề ra chỉ tiêu tăng 10%, tính ra kim ngạch tuyệt đối là 126 tỷ USD. Kế hoạch 5
năm đề ra chỉ tiêu tăng 12%/năm, tính ra kim ngạch tuyệt đối đến năm 2015 là 126,23 tỷ USD.
Ước tính của Tổng cục Thống kê cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2013 đạt trên 132,2

tỷ USD.
Thứ hai, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình qn đầu người đạt trên 1.473 USD, cao nhất từ
trước đến nay, vượt xa so với kỷ lục đã đạt được vào năm trước (1.249 USD/người).
Thứ ba, tỷ lệ giữa kim ngạch xuất khẩu hàng hóa/GDP năm 2013 đã vượt qua mốc 77,5%, cao
nhất từ trước đến nay và thuộc loại cao trên thế giới. Điều đó chứng tỏ độ mở cửa của nền kinh
tế Việt Nam thuộc loại khá cao.
Thứ tư, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 2013 đạt khá cao (trên 15,4%). Đây là tốc độ tăng
cao nhất trong các ngành, lĩnh vực, cao gấp rưỡi tốc độ tăng theo kế hoạch, cao gấp trên 2,8 lần
tốc độ tăng trưởng GDP. Xuất khẩu/GDP và tốc độ tăng xuất khẩu/tốc độ tăng GDP cao như trên
đã chứng tỏ xuất khẩu là lối ra, là động lực tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế.


Thứ năm, “câu lạc bộ” các mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên đã tăng về số
lượng thành viên, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu và thứ bậc của các mặt
hàng có sự thay đổi.
Thứ sáu, cơ cấu xuất khẩu đã có sự chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng mặt hàng là nguyên liệu thô,
hàng chưa qua chế biến, hoặc mới sơ chế (như gạo, cà phê, sắn và sản phẩm từ sắn, than đá, dầu
thô…) đã giảm xuống (từ 49,7% năm 2005 xuống 34,8% năm 2010, 2011 và tiếp tục giảm trong
năm 2012, 2013). Tỷ trọng hàng chế biến, hoặc đã tinh chế (như điện thoại các loại và linh kiện,
máy vi tính, sản phẩm điện tử, dệt may, giày dép, máy móc…) tăng tương ứng (từ 50,3% năm
2005 lên 65,1% năm 2010 và có thể cịn cao hơn nữa trong vài ba năm nay). Trong các mặt hàng
chế biến, tỷ trọng một số mặt hàng có trình độ thiết bị, kỹ thuật - công nghệ cao như điện thoại,
máy tính, sản phẩm điện tử, máy móc thiết bị, máy ảnh, máy quay phim… tăng lên. Đây là tín hiệu
sáng của cơ cấu sản xuất, xuất khẩu.
Thứ bảy, tất cả 63 tỉnh/thành phố đều có sản phẩm xuất khẩu. Trong đó, “câu lạc bộ” các địa bàn
đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên có 23 thành viên. Đặc biệt, 2013 là năm đầu tiên Việt Nam có
2 địa bàn đạt kim ngạch trên 20 tỷ USD (TP.HCM và Bắc Ninh).
Thứ tám, cùng với việc mở rộng ra nhiều thị trường là việc tập trung phát triển các thị trường
lớn. “Câu lạc bộ” thị trường đạt kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên trong năm 2013 đã lên đến 27.
Đáng lưu ý, lần đầu tiên, Việt Nam có 3 thị trường đạt trên 10 tỷ USD (Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung

Quốc), đặc biệt là Hoa Kỳ đạt trên 23,7 tỷ USD.
Thứ chín, nếu thời kỳ 2006 - 2010, mức nhập siêu bình quân lên đến 12,55 tỷ USD/năm, thì bình
quân 3 năm 2011 - 2013 chỉ 3 tỷ USD/năm, chỉ bằng khoảng 1/4 mức bình quân trong 5 năm
trước, trong đó, năm 2012 lần đầu tiên sau 20 năm đã xuất siêu và năm 2013 là năm thứ 2 xuất
siêu liên tiếp. Trong năm 2013, đã có 15 thị trường Việt Nam xuất siêu lớn, như Hoa Kỳ, Tiểu
Vương quốc Ả rập Thống nhất, Anh, Campuchia, Hồng Kông, Hà Lan, Nhật Bản, Đức, Tây Ban Nha,
Australia, Áo, Italy, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ. Mức nhập siêu giảm mạnh đã góp phần cải thiện cán cân
thanh tốn, tăng dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá, góp phần kiềm chế lạm phát…
Thứ mười, xuất khẩu tăng cao như trên càng có ý nghĩa, khi đạt được trong điều kiện nhu cầu
của nhiều nước còn bị “co lại”, trong điều kiện có nước đã sử dụng hàng rào kỹ thuật để bảo vệ
sản xuất trong nước của họ bằng nhiều giải pháp, như kiện và đánh thuế chống bán phá giá, giảm
giá đồng tiền để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu…

Phần III: Một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam dưới góc độ lợi thế so sánh
1. Gạo:
1.1. Tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam giai đoạn 2000-2013:


Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010

2011
2012
2013

Sản lượng ( triệu tấn )
3,476
3,550
3,241
3,892
4,055
5,202
4,749
4,500
6,679
6,052
6,754
7,112
7,72
6,681

Kim ngạch xuất khẩu ( triệu USD )
667
588
726
721
941
1399
1306
1454
2663

2464
2912
3657
3585
2986

Kim ngạch xuất khẩu gạo (nghìn tấn)
9,000
7720

8,000

6681

6052

6,000

5202

5,000

3892

3,476 3550

2002

2003


2004

4749

4055

4500

3241

2000

4,000

6754

6679

7,000

7112

3,000
2,000
1,000
0
2001

2005


2006

2007

2008

2009

2010

2011

2012

2013

Kim ngạch xuất khẩu gạo

Theo bảng số liệu cũng như đồ thị trên về tình hình xuất khẩu gạo Việt Nam từ năm 2000-2013,
thì lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không ngừng tăng lên qua các năm . Từ mức 3,476 triệu
tấn vào năm 2000 đến đỉnh điểm ở mức 7,72 triệu tấn trong năm 2012 . Từ đó ta thấy rõ thế
mạnh của mặt hàng gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế .
Tuy nhiên để chứng minh lợi thế so sánh mặt hàng gạo Việt Nam, thì thơng qua bảng số liệu trên
là chưa đủ . Ta có bản chỉ số lợi thế so sánh RCA của 3 quốc gia: Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ:


Năm
2004
2005
2006

2007
2008
2009
2010
2011

Việt Nam
36.0
46.5
37.3
30.2
33.8
28.0
30.8
27.7

Thái Lan
28.4
22.8
22.4
22.7
27.5
21.5
20.7
22.3

Ấn Độ
19.6
15.3
14.5

19.0
10.5
9.1
7.7
10.5

Chỉ số RCA
46.5

50
45
40

37.3

36

33.8

35
30
25

30.2

28.4
22.8

22.4


15.3

28

27.7

14.5

19.6

20

30.8
27.5

22.7
19

15

21.5

10.5

10

9.1

20.7


22.3

10.5

7.7

5
0
2004

2005

2006
Việt Nam

2007

2008
Thái Lan

2009

2010

2011

Ấn Độ

Với chỉ số RCA khá cao như trên bảng số liệu đã cho ta thấy một sự thật hiển nhiên rằng, Việt
Nam có lợi thế so sánh vơ cùng lớn về mặt hàng gạo xuất khẩu.

Chỉ số RCA của Việt Nam luôn cao hơn Ấn Độ và Thái Lan chứng tỏ rằng Việt Nam có lợi thế so
sánh cao hơn trong xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam luôn luôn
thua kém Thái Lan về cả sản lượng lẫn doanh thu xuất khẩu, thậm chí Ấn Độ cũng đã vượt qua
Việt Nam trong những năm gần đây. Điều đó chứng tỏ Việt Nam vẫn chưa khai thác một cách có
hiệu quả những lợi thế so sánh của mình, những giống lúa của Việt Nam vẫn cho sản lượng, chất
lượng thấp hơn nước bạn và chưa tạo dựng được thương hiệu gạo trên toàn thế giới.
1.2. Lợi thế về sản xuất gạo ở Việt Nam


Về điều kiện tự nhiên:


Diện tích đất đai cả nước khoảng 330363 km2 trong đó có tới 50% đất dùng vào nơng nghiệp
và ngư nghiệp. Cộng thêm khí hậu nhiệt đới , mưa nắng điều hòa cho phép chúng ta phát
triển sản xuất gạo và xuất khẩu có hiệu quả kinh tế cao . Phát triển sản xuất lúa gạo ở Việt
Nam là rất đúng đắn, nó phù hợp với đặc điểm của nguồn lực sản xuất, cho phép tận dụng
lợi thế so sánh của quốc gia trên trường quốc tế về mặt sản xuất và xuất khẩu gạo. Như vậy,
Việt Nam có thể tận dụng các ưu thế về điều kiện tự nhiên đất đai, khí hậu và lao động… để
tiếp tục giữ vững vị trí của mình trên thị trường gạo thế giới và vượt qua Thái Lan trong tương
lai gần.


Về nguồn lao động:

Đây cũng là lợi thế quan trọng để phát triển sản xuất . Tính đến năm 2013, Việt Nam có khoảng
90 triệu người, trong đó hơn 40% dân số làm nghề nông. Hằng năm tốc độ tăng dân số bình
quân 1,5%. Với nguồn lao động dồi dào, giá nhân cơng rẻ, người lao động cần cù, trình độ
ngày càng nâng lên, tạo lợi thế để phát triển sản xuất và xuất khẩu mặt hàng gạo.



Phong tục tập qn:

Ngồi ra nước ta là nước có truyền thống lúa từ hàng trăm năm nay. Do vậy người dân đã
được tích lũy kinh nghiệm từ đời này sang đời khác, thành thạo trong hoạt động sản xuất.

1.3. Nhận xét:
1.3.1. Thành tựu:
Cho đến nay, hiện trạng sản xuất lúa gạo của nước ta đã đổi thay rất nhiều. Mặc dù lúa vẫn là cây
trồng chủ yếu của nơng nghiệp Việt Nam, có vị trí hết sức quan trọng bảo đảm an ninh lương
thực quốc gia, đóng góp khá lớn vào kim ngạch xuất khấu nơng sản (chiếm khoảng 25%) nhưng
diện tích trồng lúa lại đang thu hẹp dần . Tuy nhiên, nhờ các tiến bộ khoa học được áp dụng, khả
năng thâm canh của nông dân được nâng cao, cho nên năng suất, sản lượng lúa vẫn tăng.
Năm 2001, diện tích lúa giảm 182 nghìn ha. Nhiều vùng đã chuyển đất một vụ lúa mùa, năng suất
thấp, bấp bênh sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp. Từ năm 2002 đến
nay, diện tích trồng lúa liên tục giảm, nhường diện tích đất gieo trồng các loại cây khác hiệu quả
hơn. Điển hình là năm 2005, diện tích lúa giảm 340 nghìn ha.
Tuy nhiên, trong năm năm gần đây, mỗi năm sản lượng lúa vẫn tăng trung bình 700 nghìn tấn.
Cơng cuộc chuyển dịch cơ cấu, trong đó việc quan trọng là giảm diện tích lúa chuyến sang các cây
trồng khác cho lợi nhuận cao đang làm bức tranh nông nghiệp nước ta đổi thay từng ngày. Có
thể nhận định công cuộc chuyến dịch cơ cấu kinh tế đã đi từ chiều rộng đến chiều sâu.
Tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm sản và thủy sản năm 2013 đạt gần 27,5 tỉ USD,
tăng 0,7% so với năm ngối . Trong số các mặt hàng nơng sản xuất khấu chủ lực của nước ta, gạo
vẫn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu . Khi thị trường xuất khẩu nông-lâm sản mở rộng sang hơn


100 quốc gia và vùng lãnh thố thì hạt gạo Việt Nam cũng đã có mặt hơn 40 nước. Hạt gạo Việt
Nam cũng đã góp phần đưa vị thế nước ta ngày càng cao trên thế giới.

1.3.2. Hạn chế và thách thức



Thách thức về thị trường và thương hiệu:

Gạo Việt Nam được xuất sang nhiều thị trường với mức độ khác nhau, bao gồm. Châu Á 46%;
Trung Đông 25%; Châu Phi 12%; Châu Mỹ 1%; các nước khác 13,5%. Ngoài ra Việt Nam còn
xuất sang Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan... Phần lớn các khu vực thị trường này có trình độ tiêu
dùng thấp, khả năng thanh toán hạn chế. So với Thái Lan việc gạo Việt Nam dành được những
thị trường tiêu thụ có chất lượng tiêu dùng cao cịn rất hạn chế. Nhìn chung việc xuất khẩu
gạo của ta vào thị trường có chất lượng tiêu dùng cao đang bị cạnh tranh quyết liệt. Một vấn
đề nữa là mặc dù Việt Nam nước xuất khẩu gạo lớn, nhưng chưa có thương hiệu, nhóm thương
hiệu gạo nổi tiếng hoặc đặc trung cho gạo Việt Nam, trong khi các thương hiệu gạo “Hương
nhài - Jasmine”, gạo Basmati được gắn liền với các quốc gia sản xuất là Thái Lan, Ân Độ và
Pakistan trên thị trường thế giới. Do vậy, đế nâng cao khả năng cạnh tranh và khả năng phát
triển thị trường, rất cần thiết phải xây dựng thương hiệu cho gạo Việt Nam.


Thách thức về chất lượng và giá thành:

Do chất lượng gạo chưa cao nên giá bán bình quân các loại gạo xuất khẩu ln thấp hơn giá
gạo bình quân của Thái Lan. . Khoảng cách chênh lệch giá gạo xuất khẩu Việt Nam với Thái Lan
loại 5% tấm năm 2000 là 40-50USD/tấn, nay tuy có rút ngắn nhưng gạo 5% tấm của ta vẫn
thấp hơn từ 20- 35USD/tấn so với Thái Lan. Cịn so sánh bình qn tất cả các loại gạo xuất
khẩu thì hàng của ta ln thấp hơn hàng Thái Lan khoảng 12-24 USD/tấn.


Khó khăn trong duy trì nguồn cung:

Sản xuất theo quy mơ nhỏ, tự phát, một cánh đồng trồng nhiều loại giống. Các chi phí dùng
cho sấy, tồn trữ, xay xát và chế biến lúa gạo còn thấp, khoảng 7%/tổng giá trị sản xuất; các phụ
phẩm trấu, cám, tấm chưa được quan tâm chế biến thành sản phẩm cao cấp như trích ly và

tinh luyện dầu cám, sử dụng trấu cho nhà máy điện trấu, bêtơng nhẹ...
Thêm vào đó những hoạt động trong chuỗi cung ứng như nhà cung ứng đầu vào, người sản
xuất, chế biến, phân phối, tiếp thị và tiêu dùng chưa thật sự gắn kết với nhau đế xây dựng
thương hiệu, tạo ra sản phấm chất lượng ốn định, uy tín trên thị trường. Đây chính là thách
thức lớn trong sản xuất và xuất khấu gạo ra nước ngoài cũng như gạo nước ngoài vào Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập WTO.
Mặc dù cịn gặp nhiều khó khăn trong các mặt nhưng Việt Nam vẫn đang duy trì và giữ vững
vị thế về xuất khẩu gạo của mình trên trường quốc tế. Hy vọng là với những nỗ lực không


ngừng nghỉ,các nhà xuất khẩu gạo sẽ vượt qua được những thách thức và nhanh chóng nắm
bắt được những vận hội để phát triển hơn nữa.

1.3.3. Kiến nghị giải pháp:


Xây dựng thương hiệu cho gạo xuất khẩu:

Việc xây dựng một thương hiệu cho gạo xuất khẩu của Việt Nam là một trong những giải pháp
quan trọng để đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thị trường thế giới. Theo
đó, Hiệp hội Lương thực Việt Nam cần phối hợp với các địa phương và các doanh nghiệp cần
tăng cường quảng bá thương hiệu để gạo Việt Nam có cơ sở khẳng định vị trí, uy tín và sức
cạnh tranh trên thị trường thế giới. Cụ thể, cần tổ chức và tham gia các hội chợ, triển lãm, giới
thiệu sản phẩm gạo Việt Nam, tổ chức các chương trình đón các doanh nghiệp nhập khẩu của
nước ngồi vào Việt Nam trực tiếp nghiên cứu, tìm hiểu và nhập khẩu gạo Việt Nam. Muốn có
thương hiệu đích thực, chất lượng gạo phải biểu hiện thống nhất theo một chuẩn mực mà
người tiêu dùng chấp nhận.
Vừa qua, Bộ Công Thương đã công bố Quy hoạch kinh doanh thương nhân xuất khẩu gạo. Theo
đó, từ nay đến năm 2015 sẽ kiện toàn, ổn định số lượng tối đa 150 đầu mối thương nhân kinh
doanh xuất khẩu gạo. Quy hoạch đề ra các tiêu chí để được cấp giấy chứng nhận gồm: kho

chứa, cơ sở xay xát thóc, gạo để đáp ứng điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo phải nằm trên địa
bàn các địa phương trong quy hoạch; và ưu tiên thương nhân có vùng nguyên liệu hoặc hợp
tác, đặt hàng, liên kết với hộ nông dân trồng lúa…
Không chỉ trước mắt, về lâu dài đây sẽ là những giải pháp góp phần đảm bảo sự ổn định, bền
vững cho hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu gạo Việt Nam.




Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ nơng nghiệp, nơng thơn nói chung và sản xuất lúa
gạo nói riêng; tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ người sản xuất lúa theo Nghị quyết
số 48/NQ-CP ngày 23 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ, Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg
ngày 15 tháng 10 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế, chính sách giảm tổn thất
sau khu hoạch đối với nông sản, thủy sản; Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4
năm 2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nơng nghiệp, nơng thơn; Nghị định số
42/2012/NĐ-CP ngày 11 tháng 05 năm 2012 của Chính phủ về quản lý và sử dụng đất trồng
lúa, v.v...
Tăng cường theo dõi sát diễn biến thị trường, phối hợp chặt chẽ với cơ quan đại diện ngoại
giao, Hiệp hội Lương thực Việt Nam và các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp củng cố,
duy trì các thị trường truyền thống như Phi-líp-pin, Ma-lay-xia, In-đơ-nê-xia, Cu-ba…; nỗ lực
tìm kiếm, mở rộng thị trường tiềm năng, thị trường mới như Trung Quốc, Hồng Kông, Châu
Phi, Hàn Quốc, v.v...




Tích cực trao đổi, xúc tiến đàm phán gia hạn các Bản Ghi nhớ về thương mại gạo sắp hết
hiệu lực và ký kết các thỏa thuận về thương mại gạo với các thị trường mới, thị trường
tiềm năng để củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu gạo theo hợp đồng Chính phủ.


2. Thủy sản:
2.1. Tình hình chung:
Với đường bờ biển dài hơn 3.200 km; Việt Nam có vùng đặc quyền kinh tế trên biển rộng hơn 1
triệu km2. Việt Nam cũng có vùng mặt nước nội địa lớn rộng hơn 1,4 triệu ha nhờ hệ thống sơng
ngịi, đầm phá dày đặc. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi giúp Việt Nam có nhiều thế
mạnh nổi trội để phát triển ngành công nghiệp thủy sản. Từ lâu Việt Nam đã trở thành quốc gia
sản xuất và xuất khẩu thủy sản hàng đầu khu vực, cùng với Indonesia và Thái Lan. Xuất khẩu thủy
sản trở thành một trong những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế.

Hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong gần 20 năm
qua. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản từ mức thấp 550 triệu năm 1995 đã có những bước tăng
trưởng mạnh mẽ qua từng năm với mức tăng trưởng bình quân 15,6%/năm và đã đạt 6,93 tỷ
USD năm 2013. Quá trình tăng trưởng này đã đưa Việt Nam trở thành một trong năm nước xuất
khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, giữ vai trò chủ đạo cung cấp nguồn thủy sản toàn cầu.
2.2. Chứng minh lợi thế so sánh của thủy sản Việt Nam
Tỉ lệ kim ngạch xuất khẩu thủy sản so với giá trị sản xuất thủy sản:


Năm

Giá trị xuất khẩu
(Triệu USD)

Giá trị sản xuất
(Triệu USD)

2000
2001
2002
2003

2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
2013

1.478,5
1.816,4
2.021,7
2.199,6
2.408,1
2.732,5
3.358,0
3.763,4
4.510,1
4.252,4
5.034,0
6.102,5
6.133,9
6.927,3

1.872,5
2.174,0
2.431,2
2.820,1

3.423,1
4.021,4
4.641,4
5.549,8
6.917,8
7.291.4
7.658,4
9.803,1
10.193,8
10.526,2

Tỉ lệ xuất khẩu
(%)
78,96
83,55
83,16
78,00
70,35
67,95
72,35
67,81
65,20
58,32
65,73
62,23
60,17
65,81
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Ta thấy rằng tỷ lệ xuất khẩu thủy sản cửa Việt Nam so với giá trị sản xuất dao động trong khoảng

từ 60-80% . Điều đó chứng tỏ sản phẩm thủy sản của Việt Nam đáp ứng khá tốt các yêu cầu về
chất lượng, vệ sinh an tồn thực phẩm và có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Mặt
khác, giá trị tiêu dùng thủy sản trong nước chỉ chiếm khoảng 20-40% giá trị sản xuất thủy sản
càng cho thấy chiến lược tằng trưởng của ngành thủy sản hướng mạnh vào xuất khẩu, lấy xuất
khẩu thủy sản làm động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng cao.
Chỉ số RCA của thủy sản:
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011

RCA
Việt Nam
11,90
13,24
13,46
13,00
11,72
11,23
11,86
11,59

11.28
7.60
9.59
10.43

Trung Quốc
1,68
1,65
1,53
1,43
1,44
1,32
1,30
1,14
1.12
1.11
1.15
1.46

Indonesia
2,82
2,94
2,80
2,88
3,01
2,76
2,66
2,66
2.88
2.50

2.32
2.70

Thái Lan
7,37
6,82
6,01
5,79
5,40
5,40
5.71
5.61
5.77
5.24
4.96
5.82


Nguồn: Tính tốn dựa trên số liệu của FAO và WTO

Chỉ số RCA
16
14
12
10
8
6

4
2

0
2000

2001

2002

2003

Việt Nam

2004

2005

Trung Quốc

2006

2007
Indonesia

2008

2009

2010

2011


Thái Lan

Theo bảng trên, các giá trị RCA đều lớn hơn một, chứng tỏ sản phẩm thủy sản Việt Nam, Trung
Quốc, Indonesia, Thái Lan đều có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong đó, sản phẩm
thủy sản Việt Nam có lợi thế so sánh vượt trội so với các quốc gia xuất khẩu thủy sản lớn trên
thế giới là Trung Quốc, Indonesia và Thái Lan.
2.3. Đánh giá tình hình xuất khẩu thủy sản:
2.3.1. Thuận lợi:
Thương hiệu: Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) là kênh quảng cáo
thương hiệu hiệu quả. Trong đó phải kể đến thương hiệu cá da trơn của Việt Nam là khá
mạnh, hiện nay chiếm khoản 75% thị phần xuất khẩu cá da trơn trên toàn thế giới, và sản phẩm
của Việt Nam đã xuất hiện trên khoảng 69 quốc gia trên thế giới.
Chính phủ đã thực hiện các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản như thuế (các
doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế 15%), vốn vay ưu đãi, chuyển đổi ngoại tệ để gia tăng kim
ngạch xuất khẩu.
Việt Nam có điều kiện thuận lợi về tự nhiên, mơi trường, khí hậu cho chăn nuôi thủy hải sản,
mang lại năng suất nuôi trồng cao, chất lượng thịt cá thơm ngon, đặc biệt trong ngạch cá da trơn
đã khẳng định được thương hiệu trên thị trường.
Ngồi các kênh cung cấp chính như Nhật Bản, Mỹ, EU, Việt Nam đang tập trung mở rộng thị
trường xuất khẩu và dần dần mở rộng được thị phần tại các nước mới như Hàn Quốc, Nga….Đa


×