Luận văn thạc sĩ
Câu hỏi của giáo viên
trong giảng dạy ở trường
phổ thông trung học
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
9
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
10
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
10
6. Cấu trúc luận văn
12
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT
1.1.
Vấn đề về giao tiếp ngôn ngữ
13
1.1.1.
Hoạt động giao tiếp
13
1.1.2.
Ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết
14
1.1.2.1.
15
1.1.2.2.
1.1.3.
Ngơn ngữ nói trong giao tiếp
Ngôn ngữ viết trong giao tiếp
17
Hành động ngôn ngữ
21
1.1.3.1.
Hành động ngôn ngữ và các loại hành động ngôn ngữ
1.1.3.2.
Hành động ngôn ngữ ở lời
24
1.1.3.3.
Hành động hỏi
26
22
1.1.4.
Sơ lược về lý thuyết lịch sự
29
1.1.5.
Sơ lược về lý thuyết hội thoại
29
1.1.5.1.
29
1.1.5.2.
Vận động hội thoại
30
1.1.5.3.
Cấu trúc hội thoại
1.1.5.4.
1.1.6.
Khái niệm về hội thoại
Các phương châm hội thoại
31
33
Về vấn đề ngữ điệu
34
1.1.6.1.
36
1.1.6.2.
1.2.
Những thành tố của ngữ điệu
Vai trị của ngữ điệu
36
Mơi trường giáo dục trung học phổ thông và giao tiếp ngôn ngữ trong
nhà trường
38
1.2.1.
Môi trường giáo dục trung học phổ thơng
1.2.2.
Giao tiếp ngơn ngữ trong nhà trường
1.2.2.1.
1.3.
40
Vai trị của câu hỏi trong hoạt động dạy – học
1.2.2.2.
38
Yêu cầu của việc đặt câu hỏi trong dạy học
Tiểu kết
41
42
44
CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI VÀ MIÊU TẢ CÂU HỎI CỦA GIÁO VIÊN
TRONG GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2.1. Phân loại câu hỏi trong giảng dạy
46
2.1.1. Các loại câu hỏi thuộc hành động hỏi trực tiếp
46
2.1.1.1. Phân loại
46
2.1.1.2. Miêu tả các phát ngôn hỏi trong hành động hỏi trực tiếp
50
2.1.2. Các câu hỏi thuộc hành động hỏi gián tiếp
78
2.2. Ngữ âm, ngữ điệu trong câu hỏi của giáo viên
78
2.2.1. Về ngữ âm
78
2.2.2. Về ngữ điệu
79
2.3. Tiểu kết
79
CHƯƠNG 3: CHỨC NĂNG CỦA CÂU HỎI TRONG GIỜ GIẢNG VÀ CÁC YẾU
TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG CÂU HỎI CỦA GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG PHỔ
THÔNG
3.1. Câu hỏi trong lời dẫn
3.1.1. Lời dẫn và vai trò của lời dẫn
84
84
3.1.1.1. Thế nào là lời dẫn
3.1.1.2. Vai trò của lời dẫn trong dạy – học
84
84
3.1.1.3. Thực tế sử dụng câu hỏi trong lời dẫn
87
3.1.1.4. Đặc điểm câu hỏi trong lời dẫn
90
3.2. Câu hỏi trong lời giảng
3.2.1. Khẳng định, xác nhận thông tin, kết quả
93
94
3.2.2. Định hướng, chuyển hướng cho lời giảng
95
3.3. Câu hỏi trong hoạt động hỏi – đáp
95
3.3.1. Nêu vấn đề, giới thiệu vấn đề
96
3.3.2. Chức năng khuyến khích
97
3.3.3. Chức năng kiểm tra, kiểm soát
98
3.4. Các yếu tố tác động đến việc sử dụng câu hỏi của giáo viên
99
3.4.1. Yếu tố lứa tuổi
99
3.4.2. Yếu tố giới tính
99
3.4.3. Yếu tố đặc trưng bộ mơn
100
3.4.4. Yếu tố lịch sự
101
3.4.4.1. Từ xưng hơ
102
3.4.4.2. Hình thức câu hỏi đầy đủ
104
3.5. Tiểu kết
105
KẾT LUẬN
106
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
108
1
CHƯƠNG 2
PHÂN LOẠI VÀ MIÊU TẢ CÂU HỎI CỦA GIÁO VIÊN
TRONG GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2.1. Phân loại câu hỏi trong giảng dạy
Khi đề cập đến câu hỏi trong giảng dạy tức là nghiên cứu ngôn ngữ
trong hành chức của nó. Đây là hướng nghiên cứu nhận được sự quan tâm,
khai thác của rất nhiều nhà ngôn ngữ học hiện nay. Hướng nghiên cứu này đã
thực sự đưa ngôn ngữ về đúng với bản chất và mục đích của nó. Vì “Trong
cái “nội dung” hay “ý nghĩa” của một câu nói có thể thấy rõ hai phần khác
nhau, một phần tốt ra từ bản thân câu nói (nghĩa “nguyên văn”) tách ra
khỏi mọi tình huống, và một phần câu nói có được khi dùng trong một tình
huống nhất định (nghĩa “ngơn trung”)” [34, tr.6]. Điều đó có nghĩa là mỗi
một phát ngôn cụ thể gắn với một tình huống nhất định và nhờ tình huống đó
phát ngơn sẽ được cụ thể hóa, bổ sung và hồn thiện về mặt ý nghĩa.
Trong giao tiếp, khi đưa ra một phát ngôn, người phát ngôn thường
thực hiện hai hành động: hành động mệnh đề và hành động ngôn trung. Hành
động ngơn trung là hành động mà người nói thực hiện ngay trong lời nói của
mình. Chính vì thế nó có mặt trong bất kì phát ngơn nào. Tùy thuộc vào hành
động ngôn trung mà hiệu lực của phát ngôn được hiện thực hóa sẽ khác nhau.
Ví dụ (18):
Anh có diêm khơng?
Khi có phát ngơn trên, người nói không chỉ thực hiện hành động hỏi
bằng cấu trúc của một câu hỏi mà thơng qua đó người nói cịn đề nghị sự giúp
đỡ từ người nghe.
Giảng dạy – một hoạt động giao tiếp trực tiếp bằng ngôn ngữ với chức
năng và mục tiêu đặc biệt là trang bị kiến thức, kĩ năng và thái độ cho người
học. Sự tích hợp chức năng và mục đích như vậy địi hỏi người dạy phải có
những phát ngơn phù hợp.
2.1.1. Các loại câu hỏi thuộc hành động hỏi trực tiếp
2.1.1.1. Phân loại
Như đã trình bày ở chương 1, dựa vào hành động ngôn trung người ta
đã chia hành động hỏi thành hành động hỏi trực tiếp (câu hỏi chính danh) và
hành động hỏi gián tiếp (khơng hỏi khơng chính danh).
Câu hỏi chính danh là loại câu hỏi mang mục đích “yêu cầu một câu trả
lời thơng báo về một sự tình được tiền giả định là hiện thực” [34, tr.212,
213]. Hay nói cách khác, câu hỏi chính danh là một cấu trúc ngôn ngữ để
biểu thị sự hỏi, là một trong những cơng cụ để người nói thơng qua đó thể
hiện hành động ngơn ngữ (chủ yếu là hành động hỏi).
Ví dụ (19): Trong một tiết Địa lí tìm hiểu về khai thác lãnh thổ theo
chiều sâu ở Đông Nam bộ:
Cơ Mỹ: Đất bazan chiếm 40% diện tích thích hợp với việc trồng cây gì
em?
HS số 30: Trồng cây cao su.
Ở ví dụ trên, người hỏi (cơ Mỹ) phát ra một phát ngôn hỏi vừa nêu một
điều thắc mắc cần biết (Diện tích đất bazan lớn như vậy thì thích hợp với loại
cây gì?) vừa để yêu cầu người nghe (HS số 30) đáp lại. Người nghe (HS số
30) đã thực hiện hành động trả lời đồng thời đáp ứng điều thắc mắc cần biết
của người hỏi (cô Mỹ).
Dựa vào hành động ngơn trung, có nhiều cách phân loại khác nhau đối
với câu hỏi. Qua tổng hợp và phân tích các tài liệu tham khảo, chúng tơi nhận
thấy có những cách phân loại sau:
- Lê Đông [27] phân câu hỏi thuộc hành động hỏi trực tiếp trong tiếng
Việt thành mấy loại chính sau: câu hỏi lựa chọn (bao gồm: câu hỏi lựa chọn
hiển ngôn và câu hỏi lựa chọn hàm ngôn), câu hỏi không lựa chọn (bao gồm:
câu hỏi được cấu tạo bằng các đại từ nghi vấn và một số câu hỏi đặc biệt
kiểu: Hả? Cái gì? Có…sao?),
- Nguyễn Thị Thìn [87] phân loại câu hỏi thuộc hành động hỏi trực tiếp
dựa vào hệ thống phương tiện nghi vấn chuyên dùng bao gồm: câu hỏi chứa
các đại từ nghi vấn, câu hỏi có cặp từ nghi vấn : có…khơng?, đã … chưa?,
câu hỏi có kết từ “hay”, câu hỏi có tiểu từ nghi vấn: à, ư, hở, nhỉ,….
- Cao Xuân Hạo phân loại câu hỏi thuộc hành động hỏi trực tiếp bao
gồm: câu hỏi chuyên biệt, câu hỏi tổng quát, câu hỏi hạn định, câu hỏi siêu
ngôn ngữ và một số biến dạng của câu hỏi siêu ngôn ngữ.
Chúng tôi sử dụng cách phân loại của tác giả Cao Xuân Hạo để nhận
diện và phân loại các câu hỏi thuộc hành động hỏi trực tiếp được sử dụng
trong các tiết học thuộc hai nhóm bộ mơn Khoa học tự nhiên (gồm Tốn, Lý,
Hóa) và Khoa học xã hội (gồm Văn, Sử, Địa) thành các kiểu câu hỏi sau:
a. Câu hỏi chuyên biệt
- Về hình thức: Câu hỏi chuyên biệt được hiểu là loại câu hỏi mà trong
cấu trúc có một hoặc hơn một từ nghi vấn cần được thay thế trong câu trả lời
bằng một thực từ biểu thị nội dung của sự tình hay một tham tố của sự tình.
- Về nội dung: “Yêu cầu xác định một biến tố x trực tiếp tương ứng với
tham tố hữu quan của v” [34, tr.212, 213].
Ví dụ (20): Dưới đây là đoạn thoại trong một giờ Ngữ văn lớp 12 với
tác phẩm Thuốc của nhà văn Lỗ Tấn
Cô Nguyên: Rồi, cám ơn Phượng ha! Ở đây ta thấy là đúng là khi mà
lão Hoa khi có phương thuốc là cái bánh bao tẩm máu người này lão đã
nâng niu chiếc bánh sung sướng và hi vọng. Thế thì ta quay trở lại đây các
em, ai bệnh? Con trai của ơng bà Hoa. Bệnh gì các em?
HS (đồng thanh): Bệnh lao.
Ở ví dụ trên, giáo viên yêu cầu học sinh xác định một thơng tin bổ sung
vào biến tố “gì” trong câu hỏi của mình.
b. Câu hỏi tổng quát
- Về hình thức: Được cấu tạo bằng các khn hỏi kiểu: có x khơng, đã x
chưa. Yếu tố thứ nhất của khn hỏi (có, đã) có thể bị phát âm lướt hoặc tỉnh
lược.
- Về nội dung: Là câu hỏi chính danh mang ý nghĩa “Anh hãy làm cho
tôi biết thực cách (tình thái hiện thực hay khơng/ chưa hiện thực) của mệnh
đề” với tiền giả định “Tơi biết/ tơi ức đốn rằng mệnh đề đã nêu có một thực
cách y chưa xác định trong đó y khơng phải là phi lí (tức là nó phải là chân
xác hay giả ngụy)” [34, tr.212, 213].
Ví dụ (21) : Sau khi cho học sinh Trí tóm tắt lại văn bản Thuốc trong
sách Ngữ văn lớp 12 tập 2, giáo viên yêu cầu học sinh Quỳnh nhận xét phần
tóm tắt của bạn.
Cơ Ngun: Có chi tiết nào nhầm lẫn hơng?
HS Quỳnh: Dạ khơng.
Ở ví dụ này, khi hỏi câu hỏi này giáo viên yêu cầu học sinh Quỳnh xác
định có nhầm lẫn hay khơng nhầm lẫn ở phần tóm tắt của bạn Trí.
c. Câu hỏi hạn định
- Về hình thức: Những câu được cấu tạo bằng kết từ: hay, hay là…
- Về nội dung: Là câu hỏi chính danh yêu cầu người được hỏi xác định
rõ và dứt khoát về thành phần đã lựa chọn trong câu hỏi được người hỏi đưa
ra.
Ví dụ (22): Trong tiết Lý, khi giảng bài:
Cơ Thà: Vậy khối lượng của proton nó lớn hay nhỏ?
HS (đồng thanh, nhỏ): Nhỏ.
Ở ví dụ này, người trả lời chỉ có thể lựa chọn một trong hai đốn định
mà người hỏi đưa ra.
d. Câu hỏi siêu ngôn ngữ
- Về hình thức: Theo các nhà ngơn ngữ, câu hỏi siêu ngôn ngữ được
cấu tạo với các dạng như sau:
Dạng 1: Có phải + mệnh đề + khơng?
Dạng 2: Mệnh đề, phải khơng/ đúng khơng (chưa)?
Dạng 3: Câu hỏi có chứa các tiểu từ nghi vấn à, ư, hở, hả, sao, chăng,
chứ, nhỉ, nhé ở cuối câu
Dạng 1, 2 của loại câu hỏi này có đặc điểm:
Chúng đều chứa một
thành phần thơng tin đốn định mà người hỏi cần sự xác nhận có hay khơng
của người nghe.
Chúng đều dựa trên một thơng tin nào đó để làm cơ sơ
cho điều nhận định, đoán định.
Hỏi để biết điều nhận định, đoán định đó có
đúng hay khơng.
Khi hỏi người hỏi đã thiên về tính chân xác của điều nhận
định, đốn định.
Ví dụ (23): Trong tiết Vật lí:
Cơ Thà: Mấy đứa biết đó vật hay là chất đối với hóa học sẽ có mạng
tinh thể, đúng hông?
HS (im lặng)
Khi đặt câu hỏi này, giáo viên chỉ xác nhận lại và nhấn mạnh sự đồng
tình của học sinh về điều mà cả giáo viên mà học sinh đều biết.
Dạng 3 của loại câu hỏi này là để hỏi về tính đúng/sai (giá trị chân lí)
của tồn bộ thơng tin hoặc điều phỏng đốn của người nói nêu trong câu. Khi
sử dụng câu hỏi dạng này người hỏi không nhằm nhận được sự trả lời từ
người nghe mà hầu hết nhằm mục đích khẳng định mạnh mẽ, dứt khốt tính
đúng, sai của thơng tin hoặc đốn định ở trước. Muốn có được điều này,
người hỏi phải có một sự tổng hợp, lí giải thơng tin một cách logich và khoa
học.
Ví dụ (24): Trong tiết Vật lí, giáo viên yêu cầu học sinh đọc đoạn giải
thích về hiện tượng hưởng ứng trong sách giáo khoa. Khi thấy học sinh có vẻ
khơng hiểu, giáo viên đã hỏi:
Cơ Thà: Mỗi lần đọc sách như vậy hả?
HS (im lặng)
2.1.1.2. Miêu tả các phát ngôn hỏi trong hành động hỏi trực tiếp
a. Câu hỏi chuyên biệt
Câu hỏi chuyên biệt theo Lê Đông: “Cấu trúc ngữ nghĩa – ngữ dụng cơ
bản của câu này như là một cấu trúc lớp đòi hỏi phải xác định một yếu tố [x]
ứng với hai thông số xác định cùng tham gia vào tiền giả định của câu (bao
gồm thành tố xác định ở cấp phạm trù của yếu tố hỏi và các thành tố đã rõ
khác trong cấu trúc hoàn cảnh với những mối quan hệ giữa các thành tố ấy
trong cấu trúc)” [27]. Điều đó có nghĩa là trong cấu trúc sự tình được phản
ánh có một yếu tố chưa biết hoặc chưa rõ, cần được bổ sung thơng báo. Nó là
thơng tin mới mà người trả lời cung cấp trong lời hồi đáp của mình. Trong
câu hỏi dạng này, yếu tố cần bổ sung thường được hiện diện trong câu hỏi là
các đại từ nghi vấn: ai, gì, nào, đâu, sao.
Khi đặt câu hỏi dạng này người hỏi chỉ yêu cầu người trả lời đáp đúng
yếu tố còn nghi ngờ hoặc bổ sung thêm để cung cấp thêm những thông tin
mới cho thơng tin đã biết. Qua xử lí ngữ liệu chúng tôi thu nhận được 2421
câu hỏi chuyên biệt trong tổng số 4518 câu hỏi.
Căn cứ vào đại từ nghi vấn trong câu, câu hỏi chuyên biệt được chia
thành những dạng như sau:
Câu hỏi về thực thể (chủ thể – đối tượng)
Câu hỏi về thực thể thường sử dụng các yếu tố nghi vấn là: ai, gì, cái
gì, con gì,…. Để hỏi vật, câu hỏi thường có yếu tố nghi vấn “gì”, và để hỏi
người là yếu tố nghi vấn “ai”. Yếu tố nghi vấn dùng trong câu hỏi dạng này
có vị trí khá linh hoạt, thơng thường xuất hiện ở đầu và cuối câu. Khi xuất
hiện ở cuối câu chúng thường đi cùng các từ: vậy, đó, nữa….
Khi phân loại câu hỏi chuyên biệt chúng tôi đã ghi nhận được 389 câu
trong 2421 câu hỏi chuyên biệt.
Trong hoạt động giảng dạy, giáo viên thường sử dụng câu hỏi dạng này
với mục đích xác định đối tượng đang được đề cập đến trong lời giảng, bài
giảng của mình. Với câu trả lời của học sinh, đối tượng đó sẽ được hiện thực
hóa bằng một cái tên cụ thể hoặc một cái tên đại diện (tầng lớp, giai cấp, chức
vụ,…)
- Để hỏi về thực thể là người:
Ví dụ (25): Trong tiết Ngữ văn 12
Cơ Ngun: Người tố giác Hạ Du, đó chính là ai?
Cơ Ngun và HS (đồng thanh): Đó là chú của Hạ Du.
Phát ngôn của giáo viên trong cặp thoại trên là “Người tố giác Hạ Du,
đó chính là ai?”, điểm để hỏi ở đây là “ai”. Điều đó có nghĩa là hãy cho biết
x, x là người, chủ thể hành động “tố giác” nêu trong câu.
Ví dụ (26): Trong tiết học Lịch sử lớp 10
Cô Mỵ: Đưa ai lên nắm thực quyền?
HS (im lặng)
Phát ngơn của giáo viên trong ví dụ trên là “Đưa ai lên nắm thực
quyền?” có nghĩa là hãy cho biết x, x là người là đối tượng của hành động
“đưa”.
Như vậy, trong dạng câu hỏi về thực thể, thực thể có thể là đối tượng
của hành động cũng có thể là chủ thể của hành động. Vị trí của x trong câu
hỏi trong cấu trúc câu này không xác định. Có thể nó ở đầu và có thể sẽ ở
cuối. Nhưng thông thường khi trở thành đối tượng bao giờ cũng có một yếu
tố đánh dấu sự bị động của x xuất hiện trong câu, thường là trước hay liền kề
yếu tố x.
Ví dụ (27):
Cơ Ngun: Bên cạnh đó ta xem thái độ của mọi người đối với chiến sĩ
cách mạng Hạ Du này như thế nào? Một người rất kiên cường, rất gan dạ,
rất dũng cảm, xả thân vì lí tưởng nhưng đáp trả anh thái độ của mọi người
đối với anh ra sao? Xin mời, mời Vy nào.
HS Vy: Thưa cô là chú anh tố cáo anh (rất nhỏ) còn nhân dân (rất
nhỏ). Còn mẹ anh mặc dù thương con nhưng (rất nhỏ).
Cơ Ngun: Ừm, cịn gì nữa nào? Cịn ai nữa? Có chú anh này, có mẹ
anh, có nhân dân cịn ai nữa? Và thái độ của mọi người trong quán trà trong
buổi sáng đó, họ bàn tán về Hạ Du và họ nghĩ về Hạ Du như thế nào?
Đoạn thoại trên là trong một giờ Ngữ văn lớp 12 với tác phẩm “Thuốc”
của nhà văn Lỗ Tấn. Để tìm hiểu thái độ của mọi người trong câu truyện đối
với nhân vật Hạ Du, học sinh cần phải chỉ ra “mọi người” đó là ai trong câu
truyện. Để giúp học sinh tìm hiểu giáo viên đã đặt câu hỏi “Còn ai nữa?”.
Trong câu hỏi này “ai” là điểm hỏi mà học sinh cần đáp ứng, xong với yếu tố
“còn”, “nữa” đứng ở sau cho ta biết là những nhân vật mà học sinh nêu tiếp
theo sẽ bổ sung vào số nhân vật mà học sinh đã xác định hoặc nêu trước đó.
Ví dụ (28): Trong một tiết Lịch sử lớp 11
Cô Mỵ: Trong xã hội Nhật Bản có mâu thuẫn giữa những tầng lớp
người với nhau hơng? Có. Vậy xã hội Nhật Bản sắp sửa nổ ra cái gì? Cách
mạng tư sản được chưa? Về mặt chính trị thì có mâu thuẫn giữa ai với ai?
HS (im lặng)
Cơ Mỵ: Chính trị có mâu thuẫn giữa ai với ai?
HS (im lặng)
Trong đoạn thoại trên với phát ngôn “Chính trị có mâu thuẫn giữa ai
với ai?”, giáo viên yêu cầu học sinh phải chỉ ra thực thể là hai người ứng với
vị trí của từ nghi vấn “ai” trong câu. Điều này cho ta thấy thực thể xuất hiện
ở đây có thể là là một thực thể cụ thể với tên gọi hoặc là tên gọi chung đại
diện một số đông người (tầng lớp, giai cấp, …)
Trong giờ học, vì là giao tiếp trực tiếp nên khi giáo viên phát ngôn “Ai
phân biệt cho cô hai từ đẳng cấp và giai cấp?”, học sinh có thể đáp lại bằng
hành động giơ tay hoặc đứng lên thay vì nêu tên của thực thể để đáp ứng cấu
trúc của câu hỏi này.
- Để hỏi về thực thể là vật:
Ví dụ (29): Trong tiết học Lịch sử lớp 11
Cô Mỵ: Cơ bản là sau khi học 5 cái thành phần, 5 cái tầng lớp này
xong mình sẽ phải xem mâu thuẫn giữa các tầng lớp này như thế nào để tiến
hành cuộc cách mạng tư sản, được chưa? Rồi, cái thứ hai là ai?
HS (đồng thanh, nhỏ) Samurai.
Cô Mỵ: À, Samurai.
HS (cười)
Cô Mỵ: Nghe như là cái gì nhở?
HS (cười)
Trong ví dụ trên, người giáo viên đã đưa ra một phát ngôn “Nghe như
cái gì nhở?” trong đó biến tố x “cái gì” là điểm hỏi mà học sinh cần đáp ứng.
Điểm hỏi này giúp học sinh xác định được thực thể mà giáo viên đang cần
đáp ứng ở đây là vật – một thứ nước uống tăng lực mà cả cô và trò đều biết
nên đáp lại câu hỏi của giáo viên học sinh cười.
Lưu ý:
“Là ai?” và “Ai?”: Đây là cấu trúc đặc biệt nó chỉ xuất hiện với điều
kiện là phía trước đã có một câu hỏi với đầy đủ thành phần. Đây chỉ là sự
nhắc lại mang tính chất tỉnh lược của câu hỏi ở phía trước. Trong giảng dạy
vì ngơn ngữ chủ yếu là ngơn ngữ nói nên yêu cầu nhắc lại là yêu cầu đương
nhiên. Và người giáo viên đôi khi không chỉ nhắc lại một lần mà thậm chí
nhắc 2, 3 lần, càng về sau càng rút gọn. Nhưng sau khi nhắc 2, 3 lần không
thấy được sự đáp ứng của học sinh người giáo viên thường biến hóa câu hỏi
thành những câu nhỏ hơn mang tính chất gợi mở, hoặc biến hóa câu hỏi với
những thành phần mở rộng giải thích bổ sung, định hướng thêm để học sinh
có thể trả lời.
Ví dụ (30): Trong tiết Lịch sử lớp 11
Cô Mỵ: Rồi mâu thuẫn giữa ai với ai? Mâu thuẫn giữa ai với ai?
HS (xôn xao)
Cơ Mỵ: Rồi cái từ chính trị đây các em thấy người ta in nghiêng chưa?
Mình đọc trong cái phần này. Chưa về nhà đọc gì hết. Cách đọc lướt sách
nhanh làm sao? Mâu thuẫn giữa ai với ai?
HS (xôn xao)
Cô Mỵ: Giữa ai?
HS (xôn xao)
Cô Mỵ: Mâu thuẫn giữa Thiên hoàng với tướng quân Suwin được
chưa? Tức là Mạc phủ.
Tương tự với cấu trúc hỏi về thực thể là vật ta cũng thấy xuất hiện các
cấu trúc hỏi như: “Là gì?”, “Gì?”. Cấu trúc này là cấu trúc tỉnh lược hay rút
gọn của một cấu trúc hồn chỉnh ở phía trước và nó thường xuất hiện khi giáo
viên nhắc đi nhắc lại nhiều lần một câu hỏi.
Ví dụ (31):
Cơ Mỵ: Thứ nhất là ai?
HS (trả lời rất bé)
Cô Mỵ: À thứ nhất là Đa-nhơ. Đa-nhơ là gì? Sách giáo khoa có về nhà
mình đọc nhưng mình tưởng tượng Đa-nhơ là cái gì? Làm cái gì ở trong xã
hội phương Tây cổ đại à trung đại nhở? Là gì?
HS (im lặng)
Cơ Mỵ: Lãnh chúa, được chưa?
Câu hỏi hạn định về người, vật
Câu hỏi dạng này chiếm tỉ lệ cao nhất trong số câu hỏi chuyên biệt mà
chúng tôi ghi nhận được 1127/2421 câu. Khi đặt câu hỏi dạng này, giáo viên
đã xác định thực thể bằng tên gọi (cụ thể hoặc đại diện) và mong muốn học
sinh bổ sung thêm những thông tin đặc trưng hoặc những đặc điểm để khu
biệt thực thể này với những thực thể khác. Chính vì thế các từ nghi vấn như:
gì, nào,… thường xuất hiện ở cuối trong cấu trúc của câu hỏi hạn định.
Ví dụ (32):
Cơ Mỵ: Mình là chủ của đất nước mà mình khơng có ăn, cịn người ta
phục vụ cho mình mà người ta gì? Có ăn mập ú, có đúng vậy khơng?
HS (im lặng)
Cơ Mỵ: Khơng, bởi vì từ lâu rồi Nhật Bản cũng giống như Việt Nam
thời vua Lê chúa Trịnh đấy là sao? Vua thì gì?
HS (im lặng)
Cơ Mỵ: Khơng có thực quyền đúng khơng?
Với phát ngơn “Vua thì gì?”, giáo viên muốn học sinh bằng hiểu biết về
đối tượng “vua” bổ sung thêm những thông tin để làm rõ thêm về đối tượng
khiến cho đối tượng này khác so với những đối tượng khác. Trong đoạn thoại
trên, để tiết kiệm thời gian, giáo viên đã không ngừng lại để học sinh hồi đáp
mà ngay lập tức đưa ra thông tin và yêu cầu sự xác nhận thông tin đó vì giáo
viên tin chắc thơng tin mà học sinh bổ sung sẽ phù hợp với thơng tin mà mình
đưa ra để xác nhận.
Ví dụ (33):
Cơ Mỵ: Năm hình thái, nhắc lại là gì? Cuối.
HS1 (đứng lên trả lời)
Cơ Mỵ: Thứ nhất là gì? Xã hội gì?
HS1: Dạ xã hội nguyên thủy.
Cô Mỵ: À, đúng rồi! Xã hội nguyên thủy. Xã hội ngun thủy là xã hội
gì?
HS1: Ăn lơng ở lỗ.
Cơ Mỵ: Ăn lông ở lỗ. Ăn lông tức là ăn cả lơng?
HS (cười)
Cơ Mỵ: Ở lỗ tức là gì?
HS (đồng thanh) Ở hang.
Cô Mỵ: (cười)
Trong đoạn thoại trên, giáo viên muốn làm rõ lịch sử phát triển hình
thái xã hội của loài người. Trong từng câu hỏi giáo viên đã hạn định phạm vi
hẹp để học sinh dễ dàng tìm đến câu trả lời. Ban đầu giáo viên hỏi “Năm hình
thái, nhắc lại là gì?”, để học sinh trả lời theo đúng trình tự phát triển xã hội
giáo viên hỏi tiếp “Thứ nhất là gì?”, đến đây giáo viên thấy có thể học sinh
sẽ khơng hiểu cụm từ hình thái xã hội nên cụ thể nó bằng cách đặt câu hỏi
ngay sau đó để giới hạn và định hình rõ hướng trả lời cho học sinh “Xã hội
gì?”. Từ đó giáo viên càng đi sâu khai thác những đặc trưng của đối tượng
“xã hội nguyên thủy” để học sinh có thể phân biệt đối tượng xã hội đó với các
hình thái xã hội kế tiếp bằng những câu hỏi “Xã hội ngun thủy là xã hội
gì?”, “Ăn lơng ở lỗ tức là ăn cả lơng?”, “Ở lỗ tức là gì?”.
Đây là cách dẫn dắt để tìm hiểu đặc trưng của một đối tượng, một vấn
đề mà ở bất kì bộ mơn nào cũng sử dụng. Chính vì thế nên tần số xuất hiện
của loại câu hỏi này rất cao trong số câu hỏi của giáo viên đặt ra trong tiết
học.
Vì có khả năng hạn định đối tượng nên câu hỏi dạng này thường được
giáo viên đặt ra với chức năng yêu cầu học sinh định nghĩa về đối tượng. Như
ở ví dụ (33), trong phát ngơn “Xã hội ngun thủy là xã hội gì?” nó là một
u cầu học sinh phải định nghĩa hay giải thích về đối tượng “xã hội nguyên
thủy”. Trong thực tế sử dụng giáo viên có thể tỉnh lược thành phần và chỉ hỏi
“Xã hội nguyên thủy là gì?”. Với chức năng như vậy ta thấy có những cấu
trúc tương đương với nó đó là “Thế nào là xã hội nguyên thủy?” hay “Xã hội
nguyên thủy là xã hội như thế nào?”. Khi so sánh 3 cách phát ngôn này ta
nhận thấy yếu tố nghi vấn “nào” có thể xuất hiện linh hoạt ở vị trí đầu câu
hoặc cuối câu mà vẫn khơng làm thay đổi giá trị của câu trong khi yếu tố nghi
vấn “gì” chỉ có thể xuất hiện ở cuối câu.
Hỏi về thời gian, thời điểm
Để hỏi về thời gian, thời điểm của đối tượng trong câu hỏi trực tiếp yếu
tố nghi vấn thường được sử dụng là: bao giờ, khi nào, chừng nào,…. Và tùy
vào vị trí trong câu của các yếu tố nghi vấn này mà người trả lời có câu trả lời
phù hợp. Câu hỏi dạng này chiếm một số lượng rất ít 2 câu trong tổng số câu
hỏi chuyên biệt.
Ví dụ (34):
Cô Giao: Các em đọc trang 62 trong sách giáo khoa rồi cho cô biết
coi. Trong cả xuyên suốt cái cuộc tiến công nổi dậy năm 75 này diễn ra trong
bao lâu? Vả qua mấy chiến dịch? Rồi cô mời em gái số 4.
HS số 4: Thưa cô là cuộc tiến công và nổi dậy năm 1975 đã diễn ra
trong gần 2 tháng từ ngày 4 tháng 3 đến ngày 2 tháng 5 và qua 3 chiến dịch
lớn là Tây Nguyên, Huế – Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh.
Đoạn thoại trên diễn ra trong một giờ Lịch sử lớp 12, giáo viên đã đặt
ra hai câu hỏi, trong đó có một câu hỏi có yếu tố nghi vấn chỉ thời gian là
“bao lâu”. Và để trả lời câu hỏi này học sinh đã đưa ra khoảng thời gian là
“gần 2 tháng từ ngày 4 tháng 3 đến ngày 2 tháng 5”.
Trong thực tế quan sát và sử dụng ta thấy các yếu tố nghi vấn chỉ thời
gian khi xuất hiện không phải lúc nào cũng nhằm là để hỏi thời gian, thời
điểm mà trong những điều kiện cụ thể của cuộc hội thoại, nó cịn có chức
năng như một lời yêu cầu người trả lời nêu rõ đặc trưng, điều kiện, đặc điểm
của đối tượng được đề cập trong câu. Như hỏi về điều kiện để cho hai chất có
thể tác dụng với nhau, giáo viên Hóa học có thể hỏi “Khi nào anh này tác
dụng với anh này?”. Nghe câu hỏi này bất kì học sinh nào cũng hiểu, “khi
nào” khơng có nghĩa là thời gian, thời điểm mà là những điều kiện hội đủ để
hai chất có thể tác dụng với nhau.
Ví dụ (35):
Cơ Hồng: Rồi phương trình có nghiệm kép? Nếu ta xem nó là phương
trình bậc hai thật sự thì phương trình có nghiệm kép thì điều kiện là gì?
Cô Hồng và HS: a khác không và đen-ta bằng khơng.
Cơ Hồng: Rồi phương trình vơ nghiệm? Phương trình vơ nghiệm khi
nào? Khi a khác không và đen-ta nhỏ hơn không.
Đoạn thoại trên diễn ra trong một tiết bài tập Tốn của lớp 12. Nhằm
giúp học sinh ơn lại các kiến thức đã học về phương trình giáo viên cho học
sinh làm bài tập sau đó hỏi về cách thức làm bài nhằm khắc sâu những lí
thuyết đã học. Ở đây giáo viên muốn hỏi về điều kiện làm phương trình trở
nên vơ nghiệm, giáo viên đã sử dụng phát ngơn “Phương trình vơ nghiệm khi
nào?” và phát ngơn liền sau đó giáo viên đã trả lời điểm hỏi “khi nào” vốn là
một yếu tố nghi vấn chỉ thời gian bằng điều kiện cần thiết đề phương trình vơ
nghiệm “Khi a khác không và đen-ta nhỏ hơn không.”.
Như vậy, để trả lời cho câu hỏi có yếu tố nghi vấn chỉ thời gian, thời
điểm phải căn cứ vào các nhân tố của cuộc giao tiếp để có câu trả lời phù
hợp.
Khi so sánh câu hỏi này thuộc hai nhóm bộ môn Khoa học tự nhiên và
Khoa học xã hội chúng tôi nhận thấy, trong các môn Khoa học tự nhiên câu
hỏi có yếu tố nghi vấn chỉ thời gian, thời điểm thường được sử dụng như một
câu hỏi về điều kiện để sự tình có thể diễn ra. Cịn trong các mơn Khoa học
xã hội thì thường được sử dụng như là câu hỏi để hỏi về thời gian, thời điểm,
đặc biệt là trong môn Lịch sử – một môn học liên quan rất nhiều đến các sự
kiện thời gian.
Hỏi về nguyên nhân