Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.98 KB, 5 trang )
Những điều bệnh nhân viêm loét dạ dày nên biết
Bệnh loét dạ dày - tá tràng khá phổ biến trên thế giới và ở Việt Nam. Tỉ lệ bệnh ở
các nước là 5-10% dân số và trong suốt đời người khả năng mắc bệnh là 10%.
Bệnh loét tá tràng gặp nhiều gấp 4 lần loét dạ dày, nhưng loét tá tràng thường là
loét lành tính, còn loét dạ dày một số trường hợp diễn biến ác tính.
Việc điều trị bệnh loét dạ dày - tá tràng đã có những thay đổi lớn trong 3 thập niên
trở lại đây với việc phát triển các thuốc chống loét thế hệ mới từ thập niên 1970,
việc phát hiện và xác định vai trò gây bệnh loét của vi khuẩn Helicobacter pylori từ
thập niên 1980 đã làm cho cơ chế sinh bệnh loét được sáng tỏ hơn. Ngày nay, điều
trị bệnh loét dạ dày - tá tràng bằng thuốc là chủ yếu đã cho kết quả tốt trong việc
làm lành ổ loét.
Nguyên tắc điều trị
Điều trị dựa trên cơ chế sinh lý bệnh của bệnh loét, có thể chia thành 3 nhóm gây
loét: Do sự tăng acid chlohydric và pepsin; Do sự suy yếu của các yếu tố bảo vệ
niêm mạc; Do tác động gây viêm loét của vi khuẩn HP. Nguyên tắc điều trị được
đặt ra là:
Làm giảm acid pepsin ở dịch vị bằng các thuốc ức chế bài tiết hoặc các thuốc trung
hòa acid.
Bánh
mỳ, cơm có tính chất bọc, hút, thấm niêm mạc dạ dày.
Tăng cường các yếu tố bảo vệ niêm mạc bằng các thuốc tạo màng che phủ, băng
bó ổ loét, kích thích sự tái sinh của tế bào niêm mạc dạ dày, kích thích bài tiết chất
nhầy và prostaglandin.
Diệt trừ HP bằng các thuốc kháng sinh hoặc một số thuốc khác như metronidazol,
bismuth.
Điều trị hỗ trợ, nâng đỡ sức khỏe bệnh nhân theo quan điểm điều trị toàn diện
trong đó có chế độ ăn.
Khi bị viêm loét dạ dày không nên ăn dưa cà, hành
muối.