Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Hiệu quả dự án "Làm sạch bầu không khí khỏi ô nhiễm khói thuốc: tạo môi trường lành mạnh và an toàn cho trẻ em" pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.06 KB, 6 trang )

| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2006, Số 6 (6) 41
Hiệu quả dự án "Làm sạch bầu không khí
khỏi ô nhiễm khói thuốc: tạo môi trường
lành mạnh và an toàn cho trẻ em"
PGS. TS. Nguyễn Khắc Hải; ThS. Đặng Anh Ngọc;
ThS. Nguyễn Tuấn Lâm và BS Nguyễn Văn Thích
Nghiên cứu can thiệp làm giảm hút thuốc thụ động được tiến hành tại thò xã Cẩm Phả, Quảng Ninh
từ 10-2003 đến 2-2005. Điều tra đánh giá trước sau bằng bộ câu hỏi trên 3000 hộ ở hai phường
trong thò xã, và xét nghiệm Cotinin trong nước tiểu được tiến hành trên 200 trẻ em từ 5-15 tuổi. Kết
quả: sau can thiệp tỷ lệ hút thuốc trong nhà giảm từ 96,6% còn 87,4% (p<0.05), trong đó tỷ lệ hút
thuốc trong nhà thường xuyên giảm từ 47,7% xuống còn 11,4% (P<0.001). Tỷ lệ đi ra khỏi phòng
để hút thuốc tăng từ 18,1% lên 50,4% (p<0.001). Tỷ lệ người hút thuốc ở nơi làm việc gần như không
giảm, tuy nhiên tỷ lệ hút thuốc thường xuyên giảm từ 19,2% xuống 6,8% (p<0.001). Tỷ lệ người đi
ra khỏi phòng để hút thuốc tăng từ 30,1% lên 70,4% (p<0.001). Tỷ lệ hút thuốc ở nam giới trưởng
thành giảm từ 41.3% xuống còn 35,0% (P<0.01), và số điếu thuốc trung bình giảm từ 11,4 xuống
8,8 điếu ngày. Cotinin niệu trung bình trước và sau can thiệp giảm từ 3,59 microgram/lít xuống còn
1.54 microgram/lít, p<0.05). Có sự cải thiện đáng kể về kiến thức, thái độ và sự chấp nhận xã hội
với hút thuốc, và hút thuốc thụ động.
Từ khóa: Hút thuốc thụ động, Cotinin niệu.
The intervention study aiming at reduction of smoke exposures in Cam Pha town, Quang Ninh
province was carried out from October, 2003 to February, 2005. Pre- and post-intervention surveys
with structured questionnaires were conducted on 3,000 households in two wards in Cam Pha town,
and urine Cotinine measurement was conducted on 200 children aged between 5-15 years. After the
intervention, the rate of indoor smoking reduced from 96.6% down to 87.4% (p<0.05), in which the
rate of frequent indoor smoking dropped from 47.7 to 11.4% (p<0.001). The rate of outdoor smok-
ing increased from 18.1% to 50.4% (p<0.001). The rate smoking at the workplace remained almost
the same after the intervention but the rate of frequent smoking at workplace was reduced from 19.2%
to 6.8% (p<0.001). The outdoor smoking rate at the workplace increased from 30.1% to 70.4%
(p<0.001). The smoking rate among adult males was reduced from 41.3% to 35.0% (p<0.01), and
the average number of cigarettes was reduced from 11.4 to 8.8 cigarettes per day. The average urine


Cotinine level was reduced from 3.09 microgram/liter to 1.54 microgram/liter (p<0.05). There has
been statistically significant improvement in the knowledge, attitude and social acceptance with
regards to smoking and prevention.
Key words: Secondhand smoke, Urine Cotinine.
1. Đặt vấn đề
Hiện nay, vấn đề hút thuốc lá đã trở thành một
mối quan tâm lớn của mỗi quốc gia và toàn thế giới.
Hút thuốc gây ra trên 25 loại bệnh khác nhau trong
đó có các bệnh nguy hiểm như ung thư, bệnh tim
mạch, vô sinh. Hiện nay mỗi năm hút thuốc gây ra
5 triệu ca tử vong trên thế giới, và ước tính con số
tử vong sẽ tăng lên 10 triệu ca/năm vào năm 2030.
42 Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2006, Số 6 (6)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Về khía cạnh kinh tế thì theo ước tính, mỗi năm
thuốc lá gây thiệt hại 200 tỷ đô la Mỹ cho nền kinh
tế thế giới.
Không chỉ gây hại cho người hút thuốc, mà khói
thuốc lá còn gây tình trạng ô nhiễm môi trường
không khí tại nhà và nơi công cộng, gây ra các bệnh
nguy hiểm cho những người không hút thuốc nhưng
hít phải khói thuốc lá. Ước tính có khoảng 17 %
những người bò ung thư phổi là hút thuốc thụ động
tại gia đình trong giai đoạn thơ ấu và vò thành niên
1
.
Trẻ em hít phải khói thuốc dễ mắc các bệnh như
viêm đường hô hấp cấp viêm tai giữa, chết đột tử,
và cơn hen sẽ bò năng hơn.
Việt Nam là nước có tỷ lệ hút thuốc và hút thuốc

thụ động cao. Theo điều tra y tế quốc gia 2002, có
khoảng 56,1% nam giới, và 1,8% nữ giới trên 15
tuổi hút thuốc
3
. Nghiên cứu ở 2 phường nội thành Hà
Nội của nhóm tác giả Đào Ngọc Phong, và cộng sự
ï4
ước tính 56% bà mẹ và trẻ em phải tiếp xúc thường
xuyên với khói thuốc. Hàm lượng Nicotin trong
không khí trong nhà đo được ở mức 0,687mg/m
3
.
Do tính cấp thiết của việc phòng chống tác hại
của thuốc lá, Cục Bảo vệ Môi trường Mỹ phối hợp
với Tổ chức Y tế Thế giới đã tài trợ các dự án thí
điểm về phòng chống khói thuốc trong môi trường
và bảo vệ sức khoẻ trẻ em ở 4 quốc gia với các dự
án mang tên: "Làm trong sạch bầu không khí khỏi
ô nhiễm khói thuốc tạo môi trường lành mạnh và an
toàn cho trẻ em". Các nước được chọn là những
nước có tỷ lệ hút thuốc cao và có sự cộng tác tốt
trong công tác bảo vệ môi trường và kiểm soát
thuốc lá, trong đó có Việt Nam. Viện Y học Lao
động và Vệ sinh Môi trường là đối tác chính thực
hiện dự án. Mục tiêu chính của dự án: Giảm 70% số
người hút thuốc trong nhà.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đây là một dự án can thiệp tiến hành trên phạm
vi một thò xã, đồng thời có một số hoạt động truyền

thông bao quát trên đòa bàn cả tỉnh. Tuy nhiên việc
tiến hành điều tra đánh giá dự án bằng cách lấy mẫu
ngẫu nhiên trên toàn thò xã là không khả thi về mặt
chi phí, nhân lực. Vì vậy chúng tôi quyết đònh chỉ
tiến hành điều tra ở hai phường đại diện trong thò xã
Câẩm Phả, Quảng Ninh. Sau khi tham khảo ý kiến
với đối tác đòa phương chúng tôi đã chọn được 2
phường là Quang Hanh và Cẩm Trung là hai phường
có những đặc điểm có tính đại diện nhất cho toàn
thò xã. Tổng số hộ điều tra tại hai phường là 3000
hộ dân chiếm khoảng hơn 1/3 tổng số hộ trong hai
phường.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả
cắt ngang trước và sau can thiệp, sử dụng bảng hỏi
tại hộ gia đình, và đo Cotinin trong mẫu nước tiểu
của một số em trong các gia đình có người hút thuốc
và không có người hút thuốc.
Nội dung phỏng vấn bằng bộ câu hỏi gồm: Các
đặc trưng nhân khẩu học của từng người trong các
hộ gia đình điều tra; tình trạng hút thuốc của các
thành viên trong các hộ gia đình; và kiến thức, thái
độ, thực hành của những người trưởng thành (trên
18 tuổi) với vấn đề hút thuốc.
Lấy mẫu và phân tích nước tiểu để đo lượng
Cotinin: Chọn ngẫu nhiên 100 trẻ em dưới 15 tuổi
sống trong các gia đình có người hút thuốc, 100 trẻ
sống trong các gia đình không có người hút thuốc.
Dùng phương pháp Sắc ký khí sử dụng detector
NPD
[5,6,7]

để đo hàm lượng cotinin trong nước tiểu.
Xử lý số liệu: Số liệu được phân phân tích, xử
lý trên chương trình Epi Info và SPSS.
Chiến lược truyền thông: dự án này đã sử dụng
chiến lược truyền thông thay đổi hành vi COMBI
(Communication for Behavioral Impact) đã được áp
dụng trong dự án COMBI tại Hải Phòng, với một số
chi tiết cụ thể hơn như sau:
- Đối tượng chính để tác động: đó là nam giới
trưởng thành hút thuốc
- Khung cảnh tác động: Chủ yếu là tại hộ gia đình
- Các kênh truyền thông chính sử dụng: tập
trung vào ba kênh truyền thông chính đó là: (a)
Thông qua các cán bộ truyền thông cơ sở tiếp cận
hộ gia đình phát tờ rơi và đề nghò ký cam kết không
hút thuốc trong nhà mình; (b) Thông qua các em học
sinh tiểu học để mang tờ rơi, thông điệp về nhà cho
bố mẹ, và người thân trong nhà, và yêu cầu bố hoặc
anh ký cam kết không hút thuốc trong nhà; và (c)
Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng,
tập trung chính vào hệ thống loa phát thanh phường
xã, và qua đài truyền hình tỉnh.
Nghiên cứu đánh giá trước và sau can thiệp
được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả can thiệp
của dự án. Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu
đánh giá trước và sau can thiệp về hiệu quả can
thiệp của dự án.
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2006, Số 6 (6) 43
3. Kết quả

3.1. Thông tin cơ bản về quần thể can thiệp của
dự án
Thò xã Cẩm Phả, nơi can thiệp của dự án, có 16
phường xã với 152 037 dân. Phần lớn các hộ gia
đình có 3 đến 4 thành viên.
Về nghề nghiệp chính ở Cẩm phả thì 3 nhóm
dân cư có tỷ lệ cao nhất đó là cán bộ công nhân viên
chức (29,1%), học sinh sinh viên (22,3%), và người
già hay về hưu (16,8%). Về giới thì nam chiếm
khoảng 51,2% nữ chiếm 48,8%.
- Tình hình sử dụng thuốc lá
Về tỷ lệ hút thuốc, trong những người trên 15
tuổi tỷ lệ ở nam giới là 41,3%, nữ giới là 0,9%. Có
4,1% nam giới, và 0,4% nữ giới đã bỏ thuốc.
Số hộ có người hút thuốc chiếm tỷ lệ 48,1%
tổng số hộ điều tra. Trong đó 82,5% là có 1 người
hút, 15,2% là có hai người hút, còn lại là các hộ có
từ 3 người hút trở lên.
Đa số có thời gian hút từ 1 - 5 năm (32,1%) hoặc
6 - 10 năm (33,6%), còn lại là những người có thời
gian hút từ 11 năm trở lên. Có 11,1% hút trên 20
năm. Số điếu thuốc hút trung bình trong một ngày
là 11,4 điếu.
Về chi tiêu cho hút thuốc: số tiền mà những
người hút thuốc chi cho hút thuốc là con số không
nhỏ. Trung bình một người hút một tháng chi mất
khoảng 82.200 đồng một tháng cho hút thuốc.
- Thói quen hút thuốc tại nơi làm việc và tại nhà
Qua điều tra số người có thói quen hút thuốc
thường xuyên trong phòng làm việc chiếm tỷ lệ

19,2%, người có thói quen đôi khi hút trong phòng
tại nơi làm việc chiếm 46,0%.
Có tới 96,3% những người hút thuốc nói rằng họ
có hút thuốc trong nhà khi có những người khác ở
xung quanh, trong đó có tới 47,1% thường xuyên hút
và 49,2% đôi khi hút, chỉ có 3,7% không hút thuốc
tại nhà.
- Kiến thức, thái độ đối với hút thuốc thụ động
13,1% cho rằng hút thuốc thụ động không ảnh
hưởng tới sức khoẻ. Ngoài ra có một tỷ lệ khá cao
(25,0%) số người nói rằng họ không biết liệu hút
thuốc thụ động có ảnh hưởng đến sức khỏe hay
không.
- Dự đònh bỏ thuốc
Số người có ý đònh bỏ thuốc chiếm 45,5% số
những người hiện đang hút thuốc.
- Vai trò của các phương tiện thông tin truyền
thông
Số người biết được tác hại thuốc lá qua truyền
hình là 82,0%, qua sách báo 30,0%, qua nhân viên
y tế 15,6%, qua bạn bè người thân 10,9%, qua hình
thức tuyên truyền bằng tờ rơi, áp phích 8,5%. Số
người nhận được nhiều thông tin về tác hại thuốc
lá nhiều nhất vào buổi tối, chiếm 73,0%, buổi trưa
16,4%, buổi sáng 15,1% và buổi chiều là 14,4%.
- Kết quả xét nghiệm cotinin niệu
Hàm lượng cotinin niệu trung bình là 3,1 micro-
gram/lít. Có sự khác nhau về hàm lượng cotinin niệu
trung bình giữa 2 nhóm trẻ sống trong gia đình có
người và không có người hút thuốc tại nhà, tuy

nhiên sự khác biệt chưa có ý nghóa thống kê.
3.2. Kết quả sau khi can thiệp
Để đánh giá hiệu quả can thiệp của dự án chúng
tôi sẽ xem xét lần lượt từ tỷ lệ được tiếp cận với các
họat động truyền thông của dự án, đến mức độ thay
đổi về kiến thức, thái độ, và thực hành của cộng
đồng điều tra, và sau cùng là những thay đổi về
cotinine niệu trước và sau can thiệp.
- Hiệu quả của các kênh truyền thông
Nhìn chung sau can thiệp tỷ lệ nói rằng có nhận
biết các hoạt động truyền thông về phòng chống tác
hại thuốc lá trên các kênh truyền thông khác nhau
đều tăng lên một cách có ý nghóa so với trước khi
can thiệp. Tăng nhiều nhất là qua kênh áp phích, tờ
rơi (từ 10,2% lên 74,6%); qua hoạt động trường học
từ (7.1% lên 27.0%); qua hoạt động đoàn thể
(18.8% lên 63.2%); qua đài (16.6% lên 52.4%); và
qua báo chí (25.2% lên 67.7%). Các mức tăng đều
khác biệt ở mức có ý nghóa thống kê, với p<0.01.
- Thay đổi nhận thức, thái độ về hút thuốc thụ
động
Sau can thiệp, số người nói rằng hút thuốc thụ
động có hại cho sức khỏe tăng từ 61,9% lên 94,0%,
với p<0.001. Ngay trong số những người hút thuốc
thì tỷ lệ nói rằng họ biết hút thuốc thụ động có ảnh
hưởng tới sức khỏe cũng tăng lên ở mức rất cao (từ
55,2% lên 91,7%) sau can thiệp, với p<0.001.
Có sự thay đổi rõ rệt về thái độ đối với việc mời
thuốc. Tỷ lệ người ủng hộ việc không mời thuốc đã
tăng từ 58,1% lên 88,4% sau can thiệp, còn số người

cho rằng nên mời thuốc đã giảm từ 18,5% xuống
còn 6,0%.
44 Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2006, Số 6 (6)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Bảng 1. Thái độ của cộng đồng đối với việc hút
thuốc tại nơi công cộng
Thái độ ủng hộ việc cấm hút thuốc tại nơi công
cộng cũng có sự khác biệt có ý nghóa trước và sau can
thiệp. Số ủng hộ trong toàn cộng đồng tăng lên rõ rệt
(từ 72.9% lên 90.0%), với p<0.001, và ngay cả trong
số những người hút thuốc thì tỷ lệ ủng hộ cũng tăng
đáng kể, từ 60.0% lên 86,4%, với p<0.001.
Tỷ lệ người có ý đònh bỏ thuốc trước can thiệp
chiếm 45.5% số người hút thuốc, sau can thiệp
chiếm 89,6%. Sự khác biệt có ý nghóa thống kê, với
p<0.001.
- Tác động tới thực hành phòng chống hút thuốc
và hút thuốc thụ động
+ Hút thuốc tại nhà và nơi làm việc
Bảng 2. Tình hình hút thuốc tại nhà
Bảng 3. Tình hình hút thuốc nơi làm việc
Số người hút thuốc ở nhà đã giảm không nhiều
từ 96,6% xuống còn 87,4%, tuy vậy tỷ lệ thường
xuyên hút thuốc trong nhà đã giảm đi phần lớn, từ
47,7% xuống còn 11,4% sau can thiệp, với p<0.001.
Như vậy có tới trên 75% số người thường xuyên hút
thuốc ở nhà đã thay đổi hành vi, trở nên không còn
hút hoặc thỉnh thoảng hút ở nhà. Số người nói rằng
họ đi ra khỏi phòng khi hút thuốc tăng từ 18.1% lê
50.4%, với p<0.001.

Ởû nơi làm việc thì tỷ lệ số người hút thuốc nơi
làm việc hầu như không thay đổi sau can thiệp,
nhưng số người thường xuyên hút thuốc trong phòng
làm việc đã giảm đáng kể từ 19.2% xuống còn
6.3%, với p<0.001. Đặc biệt là số người đi ra ngoài
phòng khi hút thuốc đã tăng từ 30,1% trước can
thiệp lên 70,4% sau can thiệp (p<0.001).
Thay đổi về tỷ lệ hút thuốc trước và sau triển
khai dự án
Bảng 4. Tình hình hút thuốc ở người trưởng thành
(15 tuổi trở lên) theo giới
Tỷ lệ hút thuốc trong nam giới giảm từ 41,3%
xuống còn 35,0% (tức là giảm khoảng trên 15% số
người hút thuốc), còn tỷ lệ ở nữ giới giảm từ 0,39
xuống còn 0,21% (Bảng 4). Nếu tính tỷ lệ bỏ thuốc
trong tổng số những người đã từng hút thuốc thì sau
can thiệp tỷ lệ này đã tăng lên 13,4%, mức tăng
đáng kể so với tỷ lệ 9,6% trước can thiệp.
Ngoài việc giảm tỷ lệ hút thì mức độ hút thuốc
cũng giảm sau can thiệp. Trong số những người hút
thuốc, số người thường xuyên hút thuốc trước can
thiệp là 67.9%, sau can thiệp giảm xuống còn
42.6% với p<0.001. Số điếu thuốc hút trung bình
trong một ngày của một người giảm từ 11,4 điếu
(trước can thiệp) xuống còn 8,8 điếu (sau can thiệp).
- Thay đổi cotinin niệu ở hai nhóm trẻ
Bảng 5. Hàm lượng cotinin niệu trước và sau can thiệp
Hàm lượng cotinin niệu ở trẻ em tính chung
trong cả hai nhóm (trong hộ có người hút thuốc và
hộ không có người hút) trước can thiệp là 3,09 ±

8,73 mg/l, sau can thiệp giảm xuống còn 1.538 ±
2.76 mg/l. Sự khác biệt có ý nghóa thống kê với
p=0,024.
Trước can thiệp
Sau can thiệp
Mức hút thuốc tại nhà

SL
%
SL
%
Không hút tại nhà
52
3.4
154
12.6
Đôi khi hút ở nhà
741
48.9
929
76.0
Thường xuyên hút ở nhà
722
47.7
139
11.4
Tổng cộng
1515
100
1222

100
Trước can thiệp
Sau can thiệp
Tình hình
hút thuốc
Nam (%)
Nữ(%)
Nam (%)
Nữ (%)
Hiện hút thuốc
41.3

0.9
35.0
0.6
Đã bỏ
4.1
0,4
5.3
0.2
Không hút
54.6
98.7
59.7
99.2
Tổng cộng
100
100
100
100

Trước can thiệp
Sau can thiệp


SL
%
SL
%
Không hút
483
34.8
417
35.4
Thỉnh thoảng
639
46.0
687
58.3
Thường xuyên
266
19.2
74
6.3
Tổng cộng
1388
100
1178
100

Trước can thiệp (

µ
g/l)
Sau can thiệp (
µ
g/l)
Số trẻ em
197
176
Hàm lượng cotinine
3,089
±
8,73
1,538
±
2.76
Hàm lượng tối thiểu
0
0
Hàm lượng tối đa
75.3
23.8
Trước can thiệp
Sau can thiệp
Cấm hút thuốc tại
nơi công cộng
SL
%
SL
%
Không ủng hộ

267
4.4
204
3.8
Không có ý kiến
1378
22.7
331
6.2
Ủng hộ
4437
72.9
4837
90.0
Tổng cộng
6082
100
5372
100
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |
Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2006, Số 6 (6) 45
Ước tính chi phí mua thuốc tiết kiệm được
Trước can thiệp, số điếu thuốc hút trung bình
trong 1 ngày/người là 11.4 điếu, và sau can thiệp là
8.8 điếu. Số tiền hút thuốc trung bình một người
trước can thiệp là 2741,7 đồng/ngày (khoảng 82.200
đồng tháng) sau can thiệp là 1947,7 đồng/ngày
(khoảng 58.400 đồng tháng).
Do tỷ lệ hút thuốc giảm mức độ hút thuốc giảm
nên chúng tôi ước tính số tiền tiết kiệm được từ việc

giảm chi tiêu mua thuốc lá ở 2 phường trong 1 năm
là 1,96 tỷ đồng, và trên phạm vi toàn thò xã là
khoảng 12,5 tỷ đồng.
4. Bàn luận
Nhìn chung thì ở đòa bàn hai phường điều tra tỷ
lệ số hộ hút thuốc cũng như tỷ lệ hút thuốc ở người
trưởng thành nam giới (41,3%), nữ giới (0,9%) đều
thấp hơn so với tỷ lệ ước tính của điều tra y tế quốc
gia 2002 (nam là 56,1% còn nữ là 1,8%
3
). Tuy vậy
đây là một can thiệp nhằm mục đích chính là đánh
giá sự thay đổi trước và sau can thiệp, chứ không
nhằm so sánh tỷ lệ hút thuốc với các điều tra khác.
Hơn nữa, tỷ lệ hút thuốc ở nam giới trong hai phường
điều tra cũng rất cao so với ở nhiều nước khác.
Khi xem xét hoàn cảnh và thời điểm thường hay
hút thuốc, chúng tôi nhận thấy đa số người hút thuốc
trong khi nói chuyện với bạn bè (67,3%), hút thuốc
sau khi ăn cơm (46,3%). Có thể thấy rằng thói quen
hút thuốc khi gặp gỡ chuyện trò với bạn bè, và hút
sau bữa ăn sẽ tạo ra nhiều nguy cơ ảnh hưởng hút
thuốc thụ động đồng thời tới nhiều người không hút
thuốc xung quanh.
Có sự cải thiện có ý nghóa về hiểu biết thái độ
đối với hút thuốc và hút thuốc thụ động. Điều này
thể hiện rõ qua tỷ lệ cải thiện rõ rệt có ý nghóa
thống kê về các khía cạnh như: biết rằng hút thuốc
thụ động có hại cho sức khỏe; sự ủng hộ với việc
cấm hút thuốc nơi công cộng và vấn đề mời thuốc

lá. Đáng chú ý là những sự cải thiện thể hiện không
chỉ ở những người không hút thuốc mà cả trong số
những người hút thuốc.
Việc mời thuốc là một tập quán lâu đời ở Việt
Nam. Mức độ thay đổi rất lớn về tỷ lệ người cho
rằng không nên mời thuốc là một dấu hiệu rất đáng
mừng về việc thay đổi sự chấp nhận của công chúng
đối với vấn đề hút thuốc.
Sự ủng hộ cao của công chúng với các quy đònh
cấm hút thuốc nơi công cộng sau can thiệp, là cơ sở
rất quan trọng để chính quyền ban hành và thực thi
mạnh mẽ các quy đònh cấm hút thuốc nơi công cộng.
Và đây cũng là điều kiện quan trọng đảm bảo cho
việc thành công trong thực thi các quy đònh này.
Tuy thời gian triển khai các hoạt động của dự án
rất ngắn, nhưng mức độ thay đổi hành vi hút thuốc ở
nhà như đã trình bày trong phần kết quả có thể coi
là khả quan. Việc giảm một cách đáng kể tỷ lệ hút
thuốc trong nhà ở mức thường xuyên (giảm từ 47,7%
xuống còn 11,4%) và việc tăng đáng kể tỷ lệ những
người đi ra ngoài phòng khi hút thuốc cho thấy can
thiệp của dự án thực sự đã có tác động tới ý thức bảo
vệ sức khỏe người xung quanh của những người hút
thuốc. Tuy nhiên việc chỉ có một tỷ lệ phần trăm
không lớn (khoảng 10%) đã hoàn toàn không còn hút
thuốc trong nhà cho thấy việc từ bỏ hẳn một thói
quen thực sự là không dễ dàng. Phải chăng là do cấu
trúc nhà cửa, hay do tác động của dự án chưa đủ
mạnh, hay còn có thể do những lý do khác thì chúng
tôi vẫn chưa có được câu trả lời đáng tin cậy.

Những thay đổi về tình hình hút thuốc tại nơi làm
việc cũng khá giống như tại nhà đó là: tỷ lệ từ bỏ hẳn
việc hút thuốc nơi làm việc có thay đổi không đáng
kể, mà chỉ có sự giảm đáng kể tỷ lệ những người
thường xuyên hút thuốc trong phòng làm việc, và
tăng đáng kể tỷ lệ người đi ra ngoài phòng hút thuốc
để tránh khói thuốc cho người khác.
Dự án không đề ra mục tiêu giảm tỷ lệ những
người hút thuốc trong cộng đồng. Tuy nhiên trong
quá trình thực hiện dự án, các biện pháp tuyên
truyền đã có những ảnh hưởng nhất đònh tới tỷ lệ
người hút thuốc. Mức giảm tỷ lệ hút thuốc trong
nam giới trưởng thành từ 41,3% xuống còn 35%
(p<0,01), và trong nữ trưởng thành giảm từ 0,39
xuống còn 0,21% là những kết quả rất đáng khích
lệ sau một năm can thiệp.
Đồng thời với việc giảm tỷ lệ hút, thì việc giảm
số điếu hút trung bình trong số những người vẫn hút
cũng đã phản ánh sự thay đổi tích cực sau can thiệp.
Việc giảm có ý nghóa về hàm lượng cotinin niệu
trung bình ở trẻ em trước và sau can thiệp cung cấp
thêm bằng chứng khách quan về hiệu quả giảm phơi
nhiễm khói thuốc thụ động ở trẻ em trong cộng đồng
can thiệp.
Theo ước tính số tiền đã tiết kiệm được ở hai
phường từ việc giảm chi mua thuốc lá trong một
năm là 1,96 tỷ đồng, còn của toàn thò xã là khoảng
12,5 tỷ đồng. Số tiền này khi được chi tiêu cho thực
46 Tạp chí Y tế Công cộng, 9.2006, Số 6 (6)
| TỔNG QUAN & NGHIÊN CỨU |

phẩm, giáo dục hay y tế cho gia đình thì sẽ có khả
năng mang lại những lợi ích rất thiết thực trong việc
cải thiện đời sống của các hộ gia đình, đặc biệt là
cho các hộ gia đình nghèo.
Các hoạt động phát thanh và truyền hình còn
được tiến hành trên phạm vi toàn tỉnh. Vì vậy, chắc
chắn số tiền tiếât kiệm được từ việc không mua thuốc
lá trên phạm vi toàn tỉnh sẽ là rất lớn.
Mô hình can thiệp của dự án "Làm sạch bầu
không khí khỏi ô nhiễm khói thuốc" nên được nhân
rộng ra nhiều tỉnh và thành phố khác trên cả nước
nhằm bảo vệ sức khoẻ nhân dân, làm giảm thiểu các
tác hại của thuốc lá đối với sức khoẻ cộng đồng và
giảm gánh nặng kinh tế cho các hộ gia đình có người
hút thuốc, cũng như cho nền kinh tế quốc gia.
Tác giả:
1. PGS. TS. Nguyễn Khắc Hải, Viện trưởng Viện Y học Lao
động và Vệ sinh Môi Trường (Viện YHLĐ & VSMT)
2. ThS. Đặng Anh Ngọc, ThS. Nguyễn Văn Sơn, và BS Lô
Văn Tùng - cán bộ Viện YHLĐ & VSMT
3. ThS. Nguyễn Tuấn Lâm - cán bộ chương trình, văn phòng
TCYTTG tại Hà Nội
4. BS Nguyễn Văn Thích - Giám đốc Trung tâm Y tế Dự
phòng Quảng Ninh
Tài liệu tham khảo
1.US Surgeon general. 1986. The health consequences of
involuntary smoking. CDC.
2. Lê Ngọc Trọng, Trần Thu Thuỷ, Đào Ngọc Phong 1999.
Đánh giá thực trạng tình hình hút thuốc lá tại Việt Nam năm
1997, Một số kết quả điều tra tình hình hút thuốc lá ở Việt

Nam và Các bệnh có liên quan, Nhà xuất bản Y học, trang
1-24.
3. Bộ Y tế. 2004. Báo cáo sơ bộ kết quả điều tra y tế quốc
gia 2002.
4. Đào Ngọc Phong, Trần Thu Thuỷ, Ngô Văn Toàn và Cộng
sự. 1999. Thực trạng tiếp xúc bò động với khói thuốc lá và
một số ảnh hưởng của nó đến tình trạng sức khoẻ của nhân
dân tại 2 phường nội thành Hà Nội, Một số kết quả điều tra
về tình hình hút thuốc lá ở Việt Nam và các bệnh có liên
quan, nhà xuất bản y học, trang 34-42.
5. Hà Huy Kỳ, Vũ Khánh Vân. 2001. "Nghiên cứu ứng dụng
phương pháp đònh lượng cotinin trong nước tiểu, xác đònh
hàm lượng cotinin ở những người tiếp xúc nghề nghiệp trong
sản xuất thuốc lá và những người không tiếp xúc, Đề tài cấp
Bộ năm 2001.
6. Randall R. Watts, John J. Langone, George J. Knight, and
Joellen Lewtas 1990. Cotinine Analytical Workshop Report:
Consideration of analytical methods for determining coti-
nine in Human body fluids as a measure of passive exposure
to tobacco smoke., Environmental Health Perspectives, Vol
84, pp. 178-182.
7. Vincent Haufroid- Dominique Lision. 1998. Urinary coti-
nine as a tobacco-smoke exposure index: a minireview, Int
Arch Occup Environ Health 71; 162-168.

×