Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

PHÂN TÍCH 2 TÁC PHẨM ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG VÀ NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.18 KB, 22 trang )

1

PHÂN TÍCH 02 TÁC PHẨM “ĐẠO DỨC CÁCH MẠNG ” VÀ “NÂNG CAO
ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN”
I. TÁC PHẨM “ĐẠO DỨC CÁCH MẠNG ”
1. Hoàn cảnh ra của tác phẩm “Đạo đức cách mạng ” (12- 1958)
(Tác phẩm được in trong Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội,
2011, tr. 600 - 612).
a) Tình hình thế giới
- Hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
- Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh ở các nước, cả ở Châu Á,
Châu Phi và Châu Mỹ Latinh.
- Tuy nhiên trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng xuất hiện
xu hướng xét lại có ảnh hưởng chung đến phong trào cách mạng thế giới.
b) Tình hình trong nước
Tháng 7/1954, theo tinh thần của Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc hoàn toàn
được giải phóng, miền Nam vẫn tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ nhân
dân. Hơn bao giờ hết, sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước càng đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu cao độ của toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân ta.
- Cuộc khắng chiến chống thực dân pháp thắng lợi, nhưng đất nước vẫn còn
tạm bị chia cắt thành hai miền.
Miền bắc thực hiện kế hoạch khôi phục, phát triển kinh tế – xã hội để chuẩn
bị cơ sở vật chất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Miền nam thời kỳ này vẫn đang sống dưới chế độ độc tài của Ngô Đình Diệm
và bè lũ tay sai dưới sự đô hộ và điều hành của đế quốc Mỹ.
Đặc biệt tình hình đội ngũ cán bộ, đảng viên của ta lúc bấy giờ : Khi đánh giá
chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên của chúng ta nổi lên một số vấn đề hết sức
phức tạp và nguy hiểm đó là:



2

- Tình hình đội ngũ cán bộ đảng viên của chúng ta: Đa số vẫn có bản lĩnh
chính trị, kiên định vững vàng mục tiêu lý tưởng cách mạng, giữ gìn được phẩm
chất đạo đức cách mạng.trung thành với Đảng với Tổ quốc với nhân dân.
Song, vẫn còn một số cán bộ, đảng viên sa sút về phẩm chất đạo đức, lối
sống, rơi vào chủ nghĩa cá nhân…
Nghiêm trọng hơn, đó không chỉ là những hiện tượng đơn lẻ mà đã trở thành
căn bệnh, là nguy cơ “suy thoái” của một Đảng cầm quyền.
Nhận thức rừ những khó khăn phức tạp của chặng đường trước mắt, và sớm
tiên liệu được tình hình, tháng 12-1958, dưới bút danh Trần Lực, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng”.
Tác phẩm được in lần đầu trên Tạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản),
sau đã được Nhà xuất bản Sự Thật (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ngày nay) in
thành sách và phát hành ngay trong tháng 12 - 1958.
Trong tác phẩm, Người khẳng định vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng,
chỉ ra kẻ thù, và những nguy cơ xa rời đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ,
đảng viên, đồng thời nêu ra những biện pháp để ngăn ngừa và sửa chữa căn bệnh
đó.
2. Tư tưởng chủ yếu và nội dung cơ bản của tác phẩm
a) Kết cấu của tác phẩm “đạo đức cách mạng”
Cuốn sách chưa đầy 20 trang nhưng chứa đựng nội dung rất phong phú. Cách
viết súc tích, văn phong giản dị, dễ hiểu, chứa đựng những tư tưởng lớn về đạo đức
mới: đạo đức cách mạng.
- Mở đầu tác phẩm
Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân, giải thích
về sự tồn tại những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên, trong
các cơ quan đảng và chính quyền của chúng ta:
“Sinh trưởng trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang trong mình hoặc nhiều
hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về thói quen... Vết tích xấu nhất

và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân” (t11, tr 601).


3

Ở phần này, Bác cũng khẳng định, để chống lại chủ nghĩa cá nhân, nhất định
phải rèn luyện, tu dưỡng và thấm nhuần sâu sắc đạo đức cách mạng.
- Phần thứ hai, đưa ra khái niệm và phân tích các yếu tố nội hàm của “đạo đức
cách mạng”.
Theo Người, đạo đức cách mạng là: quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng,
cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.
Từ khái niệm đó, Người phân tích nội dung cụ thể của đạo đức cách mạng là
phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công
nhân, đoàn kết chặt chẽ với nông dân, trí thức và toàn dân tộc, ngoài lợi ích của
giai cấp và dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác, đạo đức cách mạng là phải
thực hiện được các mục tiêu của Đảng, phải hoàn thành một cách xuất sắc các
nhiệm vụ được giao.
- Phần thứ ba của tác phẩm phân tích về con đường tất yếu của cách mạng
Việt Nam là tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Người khẳng định: Muốn chủ nghĩa xã hội thành công thì phải chống được
chủ nghĩa cá nhân và phải thực hiện cho được đạo đức cách mạng. Ở phần này,
Người đưa ra quan điểm rõ ràng: Không ai có thể thỏa mãn rằng mình đã có, đã đủ
đạo đức cách mạng, bởi vì: “Cách mạng tiến lên mãi, Đảng tiến lên mãi. Cho nên
người cách mạng cũng phải tiến lên mãi”. Người cách mạng muốn tiến lên phải
không ngừng tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng, đồng thời phải gắn bó với
phong trào, nghĩa là phải luôn sát thực tế, và phải luôn trau dồi lý luận Mác-Lênin.
- Kết luận tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, nhất định chúng ta sẽ
chiến thắng chủ nghĩa cá nhân, bởi nó là “kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội.
Người cách mạng phải tiêu diệt nó”. Và: “đạo đức cách mạng không phải trên trời
sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố.

Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” (sđd, tr. 612).
b) Nội dung cơ bản của tác phẩm “đạo đức cách mạng”
- Vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng và kẻ thù của đạo đức cách mạng Việt
Nam


4

Mở đầu tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành nói về lịch sử cuộc đấu tranh
của con người với giới tự nhiên, và qúa trình lao động sản xuất để sinh tồn.
+ HCM đã khẳng định sự phát triển của xã hội loài người là một tiến trình lịch
sử tự nhiên, không ai ngăn cản được. Song thời gian nhanh hay chậm, thuận lợi
hay khó khăn phụ thuộc vào đạo đức con người.
Theo nghĩa đạo đức là nhân tố chủ quan, trình độ giác ngộ, ý chí của con
người, là nhân tố tinh thần của CM (tr. )
+ Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người
cách mạng, liên quan trực tiếp tới sự thành bại của CM (tr. ).
Người nhấn mạnh: “Thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách
mạng, mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội; cá nhân càng
không thể đứng riêng lẻ mà càng phải hoà mình trong tập thể, trong xã hội. Do đó,
chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với tập thể và chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa xã hội
nhất định thắng, chủ nghĩa cá nhân nhất định phải tiêu diệt” (tr. 600).
Nhận thức ra tính chất quyết liệt, cam go của cuộc đấu tranh giai cấp, Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là
một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó đồng thời cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề,
một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Muốn giành thắng lợi trong
cuộc đấu tranh đó, người cách mạng cần phải có đạo đức cách mạng, vì “sức có
mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”(tr.601).
Đề cao vai trò của đạo đức cách mạng, Người nhấn mạnh: "Có đạo đức cách

mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước.
Vì lợi ích chung mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình.
Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc. Đó là biểu
hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng” (tr. 601).
* Có đạo đức cách mạng, thấm nhuần đạo đức cách mạng, sẽ giúp mỗi người
khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác,
khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, không lo kèn cựa về mặt hưởng
thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá,v,v..


5

Người khẳng định: trong cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh
phúc của nhân dân, đã có rất nhiều những người con ưu tú của Đảng như Trần Phú,
Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh
Khai, v.v đã vì dân, vì Đảng, mà oanh liệt hy sinh, nêu gương chói lọi của đạo đức
cách mạng, chí công vô tư, thực sự “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng”; luôn “đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên
trước lợi ích riêng của cá nhân mình, v.v.. “ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin,
luôn luôn tự phê bình và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của
mình và cùng đồng chí mình tiến bộ” (tr. 602).
* Cán bộ, đảng viên không chỉ phải nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử vừa cải tạo
thế giới, mà còn phải luôn hiểu rõ nhiệm vụ tự cải tạo bản thân mình
Người yêu cầu: Trong bối cảnh nhân dân miền Bắc tiến hành cuộc đấu tranh
lâu dài, gian khổ, tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời chi viện cho miền Nam tiếp
tục cuộc đấu tranh giải phóng, hơn bao giờ hết, càng cần phải có những người cách
mạng, thấm nhuần đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư…
+ Kẻ thù của đạo đức cách mạng:
* Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc, thói quen và truyền thống lạc hậu, là hai
kẻ địch nguy hiểm.

* Còn chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản thường xuyên ẩn nấp trong mỗi
con người, là đồng minh của hai kẻ địch kia, luôn sẵn sàng chờ dịp ngóc đầu dậy,
đè bẹp ý chí cách mạng của mỗi người.
* Chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành
người ta đi xuống dốc. Mà ai cũng biết rằng xuống dốc thì dễ hơn lên dốc.
Người nhấn mạnh: “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng
phải quyết tâm đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến
đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu” (tr.606).
Theo Người, lời nói và việc làm của cán bộ, đảng viên rất quan hệ đến sự
nghiệp cách mạng, vì nó ảnh hưởng lớn đến quần chúng. Do đó, trong bất kỳ tình
huống khó khăn nào, người cán bộ đảng viên cũng phải kiên quyết làm đúng chính
sách và nghị quyết của Đảng, gương mẫu trước quần chúng, nâng cao tinh thần


6

trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại
chủ nghĩa cá nhân.
Theo Hồ Chí Minh, chính sự gương mẫu, tận tụy của cán bộ, đảng viên luôn
luôn đi đầu trong mọi cụng việc, lãnh đạo toàn dân thực hiện mọi nhiệm vụ đã gúp
phần làm nên lên những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh
khẳng định đạo đức cách mạng là gốc, là nền tảng của người cách mạng, có liên
quan trực tiếp tới sự thành bại của cách mạng Việt Nam.
- Rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân
+ Cách thức để gột rửa sạch những vết tích xấu xa của xã hội cũ, chống lại
chủ nghĩa cá nhân là phải rèn luyện đạo đức cách mạng, phải thường xuyên, liên
tục, ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi.
* Môi trường rèn luyện: trong mọi hoạt động cách mạng, dù đó là thời kỳ hoạt
động bí mật, thời kỳ khởi nghĩa, thời kỳ kháng chiến, hay trong công cuộc xây
dựng miền Bắc tiến dần lên CNXH và đấu tranh thống nhất nước nhà…

Nêu ra hiện tượng một số cán bộ đảng viên vì chưa rửa gột sạch chủ nghĩa cá
nhân, nên còn “kể công” với Đảng, muốn Đảng “cảm ơn”, đòi ưu đãi, và cho rằng
họ “không có tiền đồ”, họ “bị hy sinh”. … Đó là những người “dần dần xa rời
Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng”. Người cũng chỉ ra
những biểu hiện khác: có một số ít đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân trói buộc mà trở
nên kiêu ngạo, công thần, tự cao tự đại; họ phê bình người khác mà không muốn
người khác phê bình họ không tự phê bình hoặc tự phê bình một cách không thật
thà, nghiêm chỉnh; họ sợ tự phê bình thì sẽ mất thể diện, mất uy tín; họ không lắng
nghe ý kiến của quần chúng; họ xem khinh những cán bộ ngoài Đảng, v.v...
* Biện pháp: Người kết luận: “chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ phạm sai lầm
mà không quyết tâm sửa chữa. Muốn sửa chữa cho tốt thì phải sẵn sàng nghe quần
chúng phê bình và thật thà tự phê bình.
* Cán bộ đảng viên của Đảng phải cố gắng học tập lý luận Mác-Lênin.
Bởi, “có học tập lý luận Mác - Lênin mới củng cố được đạo đức cách mạng,
giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết và trình độ chính trị, mới làm được tốt
công tác Đảng giao phó cho mình”. Tuy nhiên, quá trình học tập đã, là “học tập cái


7

tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập
những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách sáng tạo
vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm. Lý luận đi đôi với thực tiễn” (2),
chứ không phải là học thuộc lòng một số sách vở về chủ nghĩa Mác-Lênin.
Hồ Chí Minh kết luận: Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng mẹ, đẻ ra trăm
thứ bệnh nguy hiểm. Đã thực sự là thứ giặc nội xâm, là kẻ thù của tình đoàn kết và
thương yêu lẫn nhau, và đã là “một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người
cách mạng phải tiêu diệt nó”.
- Nội dung đạo đức cách mạng
+ “Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng là điều chủ chốt

nhất.
+ Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường
lối, chính sách của Đảng.
+ Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích
riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà
đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
+Ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn dựng tự phê bình và phê
bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí mình
tiến bộ”.
+ Đối với mỗi cán bộ đảng viên Hồ Chí Minh yêu cầu :
* Đạo đức cách mạng thể hiện : tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân
dân ;
* Ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng, hết sức phục vụ giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, tuyệt đối không thể lừng chừng;
* Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm
đấu tranh, chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, quyết không
chịu khuất phục, không chịu cúi đầu;
* Đạo đức cách mạng là bất kỳ khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm
đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng;
(2)

Sđd, tr.292


8

* Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng
phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của Đảng và lợi ích của cá
nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của
Đảng ;

* Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần
chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
* Đạo đức cách mạng là đạo đức đề cao chủ nghĩa tập thể; đạo đức cách mạng
phản ánh sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, nếu lợi ích cá nhân
mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá
nhân phải phục tựng lợi ích chung của tập thể .
Đạo đức cách mạng, đạo đức mới đối lập với đạo đức cũ. Sở dĩ có sự đối lập
này, theo Người là do: “Chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với chủ nghĩa tập thể”;
“Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách mạng”.
- Phương pháp tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
+ Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng phải được tiến hành thường xuyên,
công phu, bền bỉ suốt đời.
Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức là biện pháp thiết thực để hoàn thiện nhân cách,
đó cũng là nét đặc sắc của văn hoá phương Đông. Hồ Chí Minh khẳng định đạo
đức cách mạng không phải tự nhiên mà có mà là kết quả của quá trình đấu tranh,
rèn luyện công phu, kiên trì, bền bỉ của mỗi người, gắn liền với thực tiễn đấu tranh
cách mạng.
+ Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức.
Nói đi đôi với làm là nét đặc sắc trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và là
nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho
cán bộ và nhân dân ta.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm thì mới mang lại hiệu quả
thiết thực. Nếu nói mà không làm, hoặc nói nhiều làm ít, thậm Chí nói một đằng
làm một nẻo, không những không có hiệu quả, mà còn nguy hại cho cả bản thân và
tập thể.


9

Theo Hồ Chí Minh: Nói đi đôi với làm là thái độ của người cách mạng, Người

yêu cầu cán bộ đảng viên “đã nói thì phải làm” ; trước mọi công việc phải “óc
nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”. Hồ Chí Minh là một tấm
gương sáng về đạo đức, trên thực tế Người làm nhiều hơn những điều đã nói, có
những việc Người làm mà không nói. Chính vì vậy, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh có sức thuyết phục và cảm hoá lớn đối với người khác.
Để giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ và nhân dân, Hồ Chí
Minh rất coi trọng và đề cao “đạo làm gương”.
+ Xây đi đôi với chống, nhất là chống chủ nghĩa cá nhân.
Muốn xây dựng CNXH thành công thì phải chống được chủ nghĩa cá nhân và
thực hiện cho được đạo đức cách mạng: “ Thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không
thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bá chủ nghĩa cá nhân” (1). Cùng với
việc xây dựng đạo đức mới, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải
chống những biểu hiện xấu xa, trái với những yêu cầu của đạo đức mới. Muốn xây
dựng CNXH thì phải chống chủ nghĩa cá nhân. Để xây và chống, cần phát huy vai
trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt,
phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc thi đua “ba xây, ba chống”, viết sách
“Người tốt,việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục về đạo đức, lối sống.
Trước đó, trong các bài nói, bài viết của mình Hồ Chí Minh thường sử dụng
hai cụm từ có nội hàm cơ bản giống nhau là chủ nghĩa cá nhân và cá nhân chủ
nghĩa. Tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng mà Người trình bày đặc trưng, bản
chất và những biểu hiện chính của chủ nghĩa cá nhân. Khi trình bày quan điểm của
mình về chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh xuất phát từ thái độ, mối quan hệ giữa cá
nhân với Tổ quốc, với chế độ, với nhân dân, với công việc, với các truyền thống tốt
đẹp của dân tộc và chuẩn mực đạo đức cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
cá nhân là trái với đạo đức cách mạng, cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ
nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh gọi chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch ở bên trong. Người so sánh:
Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ
(1)


Sđd, tr.291


10

trong phá ra.Tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh là kiên quyết chống mọi kẻ thù,
đồng thời phải kiên quyết “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.
Tác phẩm đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đời đã hơn 50
năm. Những nội dung, những vấn đề có tính nguyên tắc bảo đảm vai trò lãnh đạo
của Đảng, chống chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện đạo đức cách mạng trong tác phẩm
vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình
hình hiện nay.
3. Ý nghĩa của các tác phẩm
Tư tưởng đạo đức CM Hồ Chí Minh đã thực sự biến thành sức mạnh vật chất
của Đảng và nhân dân ta, một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mở ra một thời kỳ mới cho CM nước ta. Sức
mạnh ấy thể hiện:
- Là cơ sở lý luận để giáo dục, giác ngộ về sự cần thiết, nội dung đạo đức CM
tạo sự thống nhất trong nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là cán bộ, đảng
viên.
- Là cơ sở để xây dựng, bổ sung, phát triển các chuẩn mực đạo đức đúng đắn,
phù hợp thực tiễn, phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ của từng tổ chức, từng người.
- Nâng cao đạo đức CM là một nhiệm vụ then chốt, một nhiệm vụ trung tâm
của cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.
- Là cơ sở để đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các hành vi vi phạm đạo
đức trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay.
II. TÁC PHẨM “NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, QUÉT SẠCH
CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN” (3-2-1969)
1. Bối cảnh ra đời của tác phẩm
(Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 15, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 546 - 548)

Phát vấn : Đ/c cho biết tác phẩm ra đời nhân sự kiện gì của Đảng ta?
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng luôn giành sự quan tâm nhiều
nhất đến vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Từ khi
Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng quan tâm
nhiều hơn đến vần đề này.


11

Những bài nói, bài viết bàn về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa
cá nhân của Hồ Chí Minh được viết và công bố vào những thời điểm rất có ý nghĩa
thời sự. Đặc biệt, để chuẩn bị cho dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng, ngày
3/2/1969, ngay từ tháng 01, Hồ Chí Minh đã chủ động viết bài “quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”.
- Sau 15 năm cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, cách mạng nước ta đã
giành được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực đời sống xã hội
+ Công cuộc XD chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thể hiện tính ưu việt của nó:
Chính trị ổn định, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được bảo đảm, miền Bắc
thực sự là hậu phương vững chắc cho cách mạng miền Nam.
+ Cách mạng miền Nam cũng giành thắng lợi lớn, lần lượt đánh bại các chiến
lược quân sự của Mỹ như: Chiến tranh từ một phía (chiến tranh đơn phương từ
1954-1960); Chiến tranh đặc biệt (1960-1964); Chiến tranh cục bộ (1965-1968)…
Đặc biệt thời kỳ này đã làm phá sản cuộc phản công chiến lược mùa khô
1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ, Ngụy. Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt tết
Mậu Thân 1968, dồn Mỹ lún sâu vào thế phòng ngự chiến lược.
- Sau Mậu Thân 1968 lực lượng quân sự của ta ở miền Nam có tổn thất, miền
Bắc bị tàn phá nặng nề do chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của
Mỹ. Song đã buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari (1968).
- Một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng có giảm sút niềm tin, dao động,
trông chờ vào đàm phán ở Hội nghị Pari; một số sa sút về đạo đức lối sống, rơi vào

chủ nghĩa cá nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bước sang tuổi 79, sức khoẻ tuy đã yếu (sức khoẻ
của Bác đã giảm từ 1965), nhưng Bác vẫn nhận ra điều đó và Bác đặc biệt quan
tâm đến công tác xây dựng Đảng, hàng năm đến ngày thành lập Đảng, Người
thường viết bài nhắc nhở cán bộ, đảng viên về “Đạo đức cách mạng”.
Bài viết “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, là bài
viết sau cùng của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Dù rất ngắn gọn, nhưng
những luận điểm được Người đề cập trong tác phẩm này mang tính tổng kết thực


12

tiễn ; bổ sung, phát triển, tư tưởng, lý luận về xây dựng Đảng nói chung, về đạo
đức nói riêng.
- Vài nét về sự ra đời của tác phẩm
Phát vấn: Đồng chí nào cho biết vài nét sơ lược về sự ra đời bài viết này
Nhận rõ tính cấp thiết của công tác chính trị, tư tưởng trong thời điểm có tính
chất bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và chuẩn bị cho dịp kỷ
niệm 39 năm ngày thành lập Đảng.
+ Ngày 25-1-1969, Bác mời đồng chí phụ trách công tác tuyên huấn của Đảng
đến giao nhiệm vụ chuẩn bị viết bài nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập
Đảng. Bác nói rõ mục đích, nội dung và nhấn mạnh yêu cầu ngắn gọn, tập trung
vào chủ đề: Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
+ Ngày 28-1-1969, Bác sửa lại bài viết và cho đánh máy thành nhiều bản rồi
gửi từng đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị tham gia ý kiến.
+ Chiều 30-1-1969, Bác và Văn phòng đọc lại ý kiến đóng góp của các đồng
chí Uỷ viên Bộ Chính trị, bổ sung vào bản thảo, cho đi đánh máy. Bác dặn: Đánh
máy xong gửi lại để Bác sửa lần cuối.
+ 3 giờ 30 phút ngày 1-2-1969, đồng chí phụ trách tuyên huấn sang gặp Bác
xin bản thảo chính thức để kịp gửi đăng báo.

Cầm bản thảo cuối cùng do Bác tự tay đánh máy đối chiếu với bản thảo đầu
do Ban Tuyên huấn chuẩn bị. Đồng chí cán bộ tuyên huấn gượng cười thưa với
Bác: Bác chữa hết rồi còn gì nữa đâu ạ!
Bác mỉm cười độ lượng nói: Bác chữa nhưng vẫn còn giữ nguyên ý chính của
bài: Quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Coi đó là quan
trọng nhất.
Đồng chí tuyên huấn xin phép Bác sửa lại đầu đề bài báo là: Nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Với lý do: cán bộ, đảng viên ta nói
chung là tốt, ưu điểm vẫn là cơ bản.
Bác quay sang hỏi ý kiến đồng chí văn phòng: Ý kiến chú thế nào?
Đồng chí văn phòng nhất trí với ý kiến đồng chí phụ trách công tác tuyên
huấn


13

Bác im lặng suy nghĩ, cuối cùng Bác nói: Ý kiến của các chú, Bác thấy cũng
có lý. Nhưng Bác còn phân vân một điều, ví như gia đình các chú tiết kiệm mua
sắm được bộ bàn ghế, giường tủ mới. Vậy trước khi kê vào phòng, các chú có quét
dọn sạch sẽ hay cứ để rác rởi bẩn thỉu mà khiêng bàn ghế, giường tủ vào?
Bác nói: Vì hai chú đã đề nghị là đa số, Bác đồng ý nhượng bộ, đổi lại tên đầu
bài. Nhưng ở trong bài thì để nguyên ý của Bác “Quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
nâng cao đạo đức cách mạng”. Bài viết được đăng trên Báo nhân dân số 5409,
ngày 3-2-1969.
2. Những nội dung chủ yếu của tác phẩm nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân
a) Kết cấu của tác phẩm (gồm 3 phần)
Tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” tác
giả viết rất ngắn gọn, súc tích. Ngay tên tác phẩm đã cho thấy căn bệnh trầm kha
cái gốc của mọi tệ hại, đó là “chủ nghĩa cá nhân” và khẳng định phương thuốc cơ

bản, lợi hại nhất để diệt trừ căn bệnh này là “Nâng cao đạo đức cách mạng”.
- Phần mở đầu: Tổng kết ngắn gọn về truyền thống yêu nước cách mạng của
nhân dân ta, mà tiêu biểu là đảng viên, cán bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng:
“Đảng ta đã đào tạo một thế hệ thanh niên cách mạng, gái cũng như trai, rất
hăng hái, dũng cảm trong mọi công tác. Đó là những bông hoa tươi thắm của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng. Nhân dân ta và Đảng ta rất tự hào có những người con
xứng đáng như thế”1.
- Phần hai của tác phẩm: Nhận định đánh giá tình hình, nêu rõ bên cạnh
những đồng chí tốt thì còn một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn
thấp kém vì mang nặng “chủ nghĩa cá nhân”,
- Phần thứ ba kết luận bài báo, Hồ Chí Minh mong việc nâng cao đạo đức
cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân là “một việc làm thiết thực để kỷ niệm
ngày thành lập Đảng ta, Đảng vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân anh hùng
của chúng ta”. Đó cũng là một việc làm cần thiết để “giúp tất cả cán bộ, đảng viên

1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị q́c gia, Hà Nội. 2011, tập 15, tr 548


14

đều tiến bộ, góp sức nhiều hơn nữa cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước toàn thắng
và xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công”.
b) Nội dung cơ bản của tác phẩm
Đ/c cho biết nội dung xuyên suốt trong tác phẩm là gì?
- Khẳng định những thành tựu cách mạng gắn liền với tấm gương đạo đức của
cách mạng trong cán bộ, đảng viên
Mở đầu tác phẩm: Bác viết “Nhân dân ta thường nói: Đảng viên đi trước, làng
nước theo sau. Đó là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng

ta”1.
Đảng viên đi trước, làng nước theo sau là cách nói dân gian thể hiện tình cảm
của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên. Khó khăn gian khổ đảng viên phải đi
trước, sung sướng thì hưởng thụ sau. Đó cũng là mong muốn mà Hồ Chí Minh
thường căn dặn cán bộ, đảng viên. Trong các bài nói, bài viết của mình, Hồ Chí
Minh nhiều lần đề cập đến luận điểm trên.
+ Năm 1947, trong Thư gửi các bạn thanh niên, Hồ Chí Minh đòi hỏi, thanh
niên, nhất là cán bộ Đoàn, phải thực hiện cho được: Các sự hy sinh khó nhọc thì
mình làm trước người ta, còn sự sung sướng thanh nhàn thì mình nhường người ta
hưởng trước.
+ Năm 1955, trong bài Đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng đại đa số
chiến sĩ cách mạng là những người có đạo đức, có đem hết lòng hết sức phục vụ
nhân dân, sinh hoạt ngày thường thì gương mẫu, gian khổ, chất phác.
+ Tháng 12/1961, nói chuyện với những cán bộ, đảng viên đang hoạt động lâu
năm ở Nghệ An, Hồ Chí Minh chỉ rõ, ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng ta không có
lợi ích nào khác. Sự khổ sở, khó khăn thì đảng viên ta đi trước, khi sướng thì đảng
viên ta hưởng sau.
Theo Hồ Chí Minh, chính sự gương mẫu, tận tụy của cán bộ, đảng viên đi
đầu, lãnh đạo toàn dân thực hiện mọi nhiệm vụ đã góp phần làm nên lên những
thắng lợi rất vẻ vang của cách mạng Việt Nam:
Thứ nhất, làm cách mạng Tháng Tám thành cơng.
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị q́c gia, Hà Nội. 2011, tập 15, tr 546.


15

Thứ hai, cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp thắng lợi.
Thứ ba, miền Bắc vừa chiến đấu chống Mỹ cứu nước, vừa XDCNXH.

=> Hai nhiệm vụ ấy đều nhằm một mục tiêu chung là: Củng cố hoà bình, thực
hiện thống nhất nước nhà trên nền tảng độc lập và dân chủ.
Thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ ấy là cuộc đấu tranh gay go, kịch liệt, lâu
dài nhưng Hồ Chí Minh tin tưởng sâu sắc rằng đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi
nước ta, nước Việt Nam nhất định sẽ thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Hồ Chí Minh nghiêm khắc chỉ ra những khuyết điểm của cán bộ, đảng viên
bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân.
+ Còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém,
mang nặng chủ nghĩa cá nhân.
Theo đ/c hiểu chủ nghĩa cá nhân là gì, biểu hiện của nó ra sao?
* Các quan niệm về chủ nghĩa cá nhân
Trong xã hội ở phương Tây, giai cấp tư sản luôn đề cao, tuyệt đối hóa vấn đề
tự do cá nhân, coi CNCN là ngọn nguồn của sự phát triển đất nước.
Nếu phương Tây coi CNCN là ngọn nguồn của sự phát triển đất nước, thì
phương Đông lại coi CNCN là những thói hư, tật xấu trong xã hội.
Học thuyết của Khổng Tử chưa nói đến CNCN, mà nói hạng người “tiểu
nhân” - những kẻ chỉ biết đến mình, chỉ nghĩ đến chỗ ở và ân huệ.
Trong Đạo gia (do Lão Tử sáng lập) lại khuyên con người sống vô vi, nhàn
hạ, thanh đạm, hòa hợp với tự nhiên, biết đủ, biết dừng, không tham lam, không
bon chen, không cạnh tranh.
Như vậy, Nho gia và Đạo gia cũng có những khía cạnh tương đồng, như coi
khinh và phản đối lối sống chạy theo lợi ích vật chất tầm thường, ích kỷ của cá
nhân, gắn hạnh phúc với đạo đức, phản đối việc mưu cầu hạnh phúc bằng con
đường bất chính.
Phật giáo cũng chưa đề cập CNCN mà chỉ đề cập đến nghiệp chướng, quả
báo. Phật giáo cho rằng tham, sân, si (tham lam, giận dữ, ngu muội)…
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định. CNCN là một
phạm trù lịch sử, là sản phẩm của các phương thức sản xuất lấy tư hữu tư liệu sản



16

xuất làm cơ sở, là sự tha hóa của cá nhân tách khỏi tập thể xã hội và nảy sinh trên
cơ sở chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do phân chia xã hội thành các giai
cấp. Do vậy, ở xã hội nguyên thủy chưa biết đến CNCN, vì mọi thành viên trong
xã hội lúc đó tồn tại không tách rời tập thể.
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ, khi các giai cấp áp bức bóc lột còn
nắm giữ và chi phối phần lớn các điều kiện kinh tế - vật chất của xã hội thì không
bao giờ họ từ bỏ những lợi ích ích kỷ của mình và họ sẵn sàng chà đạp lên đồng
loại. Chính vì vậy, CNCN luôn là sản phẩm đồng hành của chế độ tư hữu và chủ
yếu gắn liền với giai cấp thống trị bóc lột, là con đẻ của xã hội có giai cấp và xuất
hiện cùng với sự ra đời của xã hội có giai cấp và tất nhiên nó cũng bị tiêu diệt cùng
với sự tiêu diệt của xã hội đó.
Hiện nay, trong nhiều công trình nghiên cứu, quan niệm CNCN cũng được đề
cập đến ở các khía cạnh khác nhau. Từ điển Bách khoa Việt Nam viết: “Chủ nghĩa
cá nhân, quan niệm mỗi cá nhân là có quyền tuyệt đối, tự do và độc lập đối với xã
hội” [tr.495]. Trong Từ điển tiếng Việt phổ thông, cho rằng CNCN là “Thế giới
quan dựa trên cơ sở đối lập quyền lợi của cá nhân riêng lẻ với quyền lợi của xã hội,
đặt quyền lợi của cá nhân trên quyền lợi của tập thể” [tr.160]. Từ điển tiếng Việt
khẳng định, CNCN là “Thế giới quan dựa trên cơ sở đem đối lập cá nhân riêng lẻ
với xã hội, về đạo đức hướng theo chủ nghĩa vị kỷ” [tr.235].
+ Quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa cá nhân
Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, Hồ Chí Minh thường sử dụng
các cụm từ như: chủ nghĩa cá nhân, cá nhân chủ nghĩa và tư tưởng cá nhân.
Trong Hồ Chí Minh toàn tập, Người sử dụng cụm từ chủ nghĩa cá nhân 81
lần; cụm từ cá nhân chủ nghĩa sử dụng 31 lần; cụm từ tư tưởng cá nhân được sử
dụng 13 lần.
Tuy cách sử dụng khác nhau, nhưng các cụm từ này đều có nội hàm giống
nhau, đều thể hiện thái độ, hành vi, tác hại trong mối quan hệ của cá nhân với Tổ
quốc, dân tộc, xã hội, cộng đồng; mối quan hệ giữa con với con người; mối quan

hệ giữa cá nhân với những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những chuẩn
mực đạo đức cách mạng.


17

Hồ Chí Minh luôn có một quan điểm nhất quán về diện mạo của CNCN như
là một mặt đối lập với đạo đức cách mạng, làm tha hóa, biến chất nhân cách của
người cộng sản, là kẻ thù của CNXH.
Tóm lại, cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là CNCN, có thể nêu lên một
số quan điểm của Hồ Chí Minh có tính chất như là khái niệm về CNCN.
* “Bài nói tại Trường Công An Trung ương” 28/01/1958, Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Thế nào là chủ nghĩa cá nhân? Là so bì đãi ngộ: lương thấp, cao, quần áo đẹp,
xấu, là uể oải, muốn nghỉ ngơi, hưởng thụ, an nhàn”1.
* Nói chuyện với lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính ở cơ quan TW,
ngày 06/02/1953, Hồ Chí Minh nói: “Cá nhân chủ nghĩa: Cái gì cũng chỉ biết có
mình và gia đình mình chứ ít khi nghĩ đến cái gia đình lớn là dân tộc, cái mình lớn
hơn là phải hòa vào với dân tộc”3.
* Theo Người: CNCN “là bệnh chính, bệnh mẹ, do đó mà sinh ra nhiều chứng
bệnh khác, như: Tự tư tự lợi, sợ khó, sợ khổ; Không yên tâm công tác. Ham địa vị
danh tiếng; Lãng phí, tham ô. Quan liêu, mệnh lệnh, v.v.. 5 và “Cá nhân chủ nghĩa
nó đẻ ra cái tư tưởng danh lợi,… Rồi tư tưởng danh lợi lại đẻ ra con nó, rồi con nó
lại đẻ ra cháu nó... tức là hai cái khinh là: khinh lao động chân tay và khinh người
lao động chân tay và hai cái sợ là: sợ khó nhọc và sợ khổ”6.
* Tại Đại hội lần thứ III của Đoàn thanh niên Lao động Việt Nam (1961), Hồ
Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa cá nhân… Nó là kẻ thù hung ác của đạo đức
cách mạng, của chủ nghĩa xã hội”1.
Năm 1965, trong “Bài nói tại Hội nghị chỉnh huấn do Trung ương triệu tập”,
Người tiếp tục khẳng định: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người
chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt”2.

Như vậy, trong quan niệm về CNCN, Hồ Chí Minh bao giờ cũng đặt CNCN
trong mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể, xã hội và chỉ rõ cái cốt lõi của nó là chỉ
biết nghĩ đến lợi ích của cá nhân mình, gia đình mình, mà không thấy lợi ích
1

HCM tt, t15, tr.547.
Tâp 8,tr.54.
5
Tập 8, tr.156.
6
Tập 11, tr.399.
1
Tập 13, tr.90.
2
Tập14, tr.469.
3


18

chung. Đó là những biểu hiện xấu, trái với đạo đức cách mạng, cần phải kiên quyết
đấu tranh loại bỏ. Bởi, “…nếu nó còn lại trong mình, dù là ít thôi, thì nó sẽ chờ dịp
để phát triển, để che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta một lòng một dạ đấu
tranh cho sự nghiệp cách mạng”4.
+ Trong tác phẩm bàn về thực trạng chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh cho
rằng:
Các loại bệnh nảy sinh từ CNCN mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra trong tác phẩm
và nhiều bài nói, bài viết: bệnh quan liêu; bệnh tham lam; bệnh lười biếng; bệnh
kiêu ngạo; bệnh hiếu danh; bệnh “hữu danh, vô thực”; bệnh cận thị; bệnh tị nạnh;
bệnh xu nịnh, a dua; bệnh kéo bè, kéo cánh...

Người nói: “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham
ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự
cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ
xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh...Cũng do cá nhân
chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách
nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm
hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân. Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà
phạm nhiều sai lầm”1.
Trên thực tế, chủ nghĩa cá nhân là thứ vi trùng rất độc, nó là thứ giặc “nội
xâm” đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm vẫn đang tồn tại trong một bộ phận cán
bộ, đảng viên làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đe doạ sự tồn
vong của Đảng.
Ghi nhớ những lời dạy của Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân là cơ sở
để cán bộ, đảng viên tự phê bình, phê bình trong công cuộc xây dựng và chỉnh đốn
Đảng ta hiện nay.
+ Tác hại của chủ nghĩa cá nhân
* Về mặt chính trị, tư tưởng: Chủ nghĩa cá nhân xét đến cùng, trước hết là
vấn đề tư tưởng, nên tác hại của nó cũng được thể hiện tương đối tập trung trên
lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
4
1

Tập 11, tr.602.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị q́c gia, Hà Nội. 2011, tập 15, tr. 546, 546.


19

CNCN luôn đi ngược lại tư tưởng cộng đồng, đối lập với tư tưởng XHCN.
CNCN trong lĩnh vực chính trị luôn gắn với động cơ, tham vọng về chính trị và

mang sắc thái chính trị tương đối rõ nét. Biểu hiện trên lĩnh vực này là: tranh giành
quyền lực, kèn cựa địa vị, đặc quyền đặc lợi, vu cáo lật đổ nhau... CNCN trong
chính trị thường gắn rất chặt với chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa bè phái; người mang
nặng CNCN sớm hay muộn sẽ dẫn đến chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa bè phái dưới
nhiều hình thức. Như vậy, về mặt chính trị, CNCN làm ảnh hưởng không nhỏ đến
vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, làm mục nát bộ máy Đảng, Nhà
nước từ bên trong, gây ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, cản trở
công cuộc đổi mới.
* Về mặt kinh tế: Chủ nghĩa cá nhân còn gây thiệt hại về kinh tế rất to lớn
của Nhà nước và của nhân dân.
Biến tài sản của Nhà nước, của nhân dân thành tài sản riêng của cá nhân, như
lấy của công, chiếm dụng của công làm hại đến sự nghiệp XD nước nhà, đến công
việc cải thiện đời sống ND, làm tổn thất lớn tiền, của, của nhân dân.
* Về lĩnh vực văn hóa: CNCN đã làm xuất hiện khuynh hướng thương mại
hóa, chạy theo thị hiếu không lành mạnh, xa lạ với lối sống trong xã hội mới, từng
bước đánh mất lý tưởng cao đẹp là phục vụ Tổ quốc, phục vụ ND
* Về mặt xã hội: CNCN gây nên những biểu hiện suy thoái về đạo đức lối
sống trong bộ phận cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân
trái ngược với đạo đức cách mạng,…, che lấp đạo đức cách mạng, để ngăn trở ta
một lòng một dạ đấu tranh cho sự nghiệp cách mạng” 2. Tóm lại, tác hại của CNCN
dù lớn, nhỏ, mức độ có khác nhau, nhưng đều gây ra mọi thứ có hại cho cách
mạng, cho nên người cách mạng chỉ có một cách là “quét sạch” CNCN.
- Giải pháp nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh khẳng định: nâng cao đạo đức cách mạng không thể tách rời với
chống chủ nghĩa cá nhân, luôn luôn gắn xây với chống.
Xây là để nâng cao đạo đức cách mạng, chống là hướng tới mục tiêu quét
sạch chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh chủ trương:
2

Tập 11, tr.602.



20

Phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng và nâng cao
đạo đức cách mạng để tăng cưêng sức mạnh chống chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí
Minh đề cập những giải pháp chủ yếu để nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch
chủ nghĩa cá nhân:
+ Giải pháp từ phía tổ chức Đảng
Thứ nhất, tăng cường giáo dục trong toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, về đưêng lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người đảng
viên;
Thứ hai, thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng;
nghiêm túc trong tự phê bình và phê bình;
Thứ ba, chế độ sinh hoạt và kỷ luật đảng phải nghiêm minh. Theo Người,
Đảng lao động Việt Nam phải có kỷ luật sắt, đồng thời là kỷ luật tự giác, muốn
nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì công tác kiểm tra
của Đảng phải chặt chẽ.
+ Giải pháp từ phía cán bộ, đảng viên
Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân
dân lên trên hết, trước hết;
* Tu dưỡng đạo đức cách mạng thường xuyên, bền bỉ suốt đời;
* Nói đi đôi với làm, nêu gương sáng về đạo đức;
* Xây đi đôi với chống, lấy xây làm chính;
* Nêu cao tự phê bình và phê bình;
* Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân;
* Phải sâu sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân.;
* Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi
n.vụ

Tóm lại, Hồ Chí Minh nhắc nhở: quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo
đức cách mạng là một việc làm thiết thực để kỷ niệm ngày thành lập Đảng ta; đó
cũng là việc làm cần thiết để giúp mọi cán bộ, đảng viên tiến bộ góp sức vào sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.


21

3. Ý nghĩa của tác phẩm
a) Ý nghĩa lịch sử của tác phẩm
- Tác phẩm góp phần đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, kiến quốc chống đế
quốc quốc Mỹ xâm lược và xây dựng miền Bắc XHCN.
- Tạo ra sức mạnh mới cho cách mạng nước ta
+ Củng cố vững chắc thêm khối đại đoàn kết dân tộc.
+ Khích lệ tinh thần dám hy sinh cho Tổ quốc, cho nhân dân, tinh thần không
lay chuyển trước nghèo khó, không khuất phục trước uy vũ, không bị cám dỗ và
biến chất trước giàu sang
- Thể hiện sự quan tâm sâu sắc và tinh thần kiên quyết đấu tranh chống “giặc
nội xâm” của Hồ Chí Minh.
b) Ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm
- Tác phẩm là cơ sở lý luận giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân ta quán triệt
sâu sắc chủ trương, chính sách của Đảng, của Chính phủ về cải tạo nền đạo đức cũ,
xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta.
- Tác phẩm là một trong những cơ sở lý luận đấu tranh chống các quan điểm
sai trái về đạo đức.
- Tác phẩm góp phần xây dựng, bổ sung, phát triển và từng bước hoàn thiện
hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực, phẩm chất đạo đức cách mạng cho phù
hợp với điều kiện mới.
- Tác phẩm góp phần xây dựng, củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết dân tộc, trí tuệ, sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong

công cuộc XD và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN .
- Tác phẩm có ý nghĩa thiết thực, góp phần ngăn chặn và khắc phục sự suy
thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên, xây dựng và chỉnh đốn Đảng ta trong sạch, vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ.
- Tác phẩm góp phần đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh, phòng chống tự diễn biến, tự suy thoái của cán bộ,
đảng viên hiện nay.


22

Tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” đã
chứng tỏ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, coi đạo đức thật sự
là cái gốc, là nền tảng của mỗi người. Qua tác phẩm chúng ta thêm hiểu về Người,
thấy được Người đã sáng suốt thế nào khi sớm quan tâm đến đạo đức và căn dặn
nhắc nhở Đảng ta, phải coi đó là một nhiệm vụ then chốt, một nhiệm vụ trung tâm
của cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay.
* Với cương vị là người học viên hiện tại và người cán bộ chính trị, người
giảng viên trong tương lai, mỗi đồng chí cần nhận thức rõ giá trị của tác phẩm
"Đạo đức cách mạng" và "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân của Hồ Chí Minh. Qua đó, cần đề cao ý thức trách nhiệm trong việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức gắn với việc “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh” hiện nay./.



×