Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

TIỂU LUẬN CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA NGUYÊN NHÂN, MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.46 KB, 14 trang )

1

TIỂU LUẬN CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA NGUYÊN NHÂN, MỤC
TIÊU, NỘI DUNG VÀ SỰ VẬN DỤNG Ở VIỆT NAM
MỤC LỤC
1. Nguyên nhân, điều kiện khách quan, chủ quan của cách mạng xã hội chủ
nghĩa
1.1. Khái niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa
1.2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
1.3. Những điều kiện khách quan, chủ quan của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa
2. Mục tiêu, nội dung, động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
2.1. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa
2.2. Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
2.3. Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
3. Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự vận
dụng ở Việt Nam
3.1. Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin
3.2. Sự vận dụng lý luận cách mạng không ngừng ở Việt Nam


2

NỘI DUNG
MỞ ĐẦU
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng do giai cấp cơng nhân lãnh
đạo, nhắm xố bỏ chế độ xã hội cũ, nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, Đảng ta là sự
vận dụng một cách trung thành, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào quá trình cách
mạng Việt Nam; đưa cách mạng Việt Nam tiến lên từng bước vững chắc
1. Nguyên nhân, điều kiện khách quan, chủ quan của cách mạng xã hội


chủ nghĩa
1.1. Khái niệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh
đạo, nhắm xoá bỏ chế độ xã hội cũ, nhất là chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội để tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Tuy nhiên, cách mạng xã hội chủ nghĩa có lúc được nghiên cứu theo nghĩa
rộng, có lúc được nghiên cứu theo nghĩa hẹp.
– Theo nghĩa hẹp: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng về chính
trị. Trong đó quần chúng nhân dân lao động vùng dậy dưới sự lãnh đạo của giai
cấp cơng nhân để giành lấy chính quyền, thiết lập nhà nước chun chính vơ sản
(nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động) tạo tiền đề
cho việc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế, văn hoá, tư
tưởng ở giai đoạn tiếp theo.
– Theo nghĩa rộng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng xã
hội. Đó q trình cải biến một cách tồn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội, bao gồm chính trị, kinh tế, văn hố, tư tưởng … dưới sự lãnh đạo của giai


3

cấp công nhân để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng
sản.
Như vậy, theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả việc giành
chính quyền về tay giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và cả quá trình cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội chủ nghĩa trên tất cả mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
1.2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng xã
hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển sẽ
mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó và tất yếu phải thay thế

quan hệ sản xuất lỗi thời bằng quan hệ sản xuất mới tiên tiến hơn. Do vậy, dưới
chủ nghĩa tư bản, nhất là khi máy hơi nước ra đời làm cho lực lượng sản xuất ngày
càng phát triển, ngày càng mang tính chất xã hội hố cao; dẫn đến mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất mang tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
Biểu hiện của mâu thuẫn trên, trong lĩnh vực kinh tế là tính tổ chức, tính kế
hoạch trong từng doanh nghiệp ngày càng tăng với tính tổ chức của sản xuất tồn
xã hội do tính cạnh tranh của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa gây ra.
Quy luật cạnh tranh, tính chất vơ chính phủ trong sản xuất dẫn tới khủng
hoảng thừa, buộc một số doanh nghiệp phải ngừng sản xuất, khi sản xuất đình trệ,
cơng nhân khơng có việc làm, họ đã đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp tư sản.
Để khắc phục tình trạng đó, giai cấp tư sản đã tổ chức ra các Xanhđica, Tờ rớt,
Côngxocxiom và nhà nước tư bản ngày càng can thiệp sâu vào kinh tế, bằng việc
quốc hữu hoá một số ngành khi khó khăn, tư hữu hố khi thuận lợi.
Tuy rằng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ
tư bản ngày càng gay gắt, nhưng cách mạng xã hội chủ nghĩa không diễn ra một
cách tự phát mà phải thông qua hoạt động của con người và những điều kiện khách
quan, chủ quan nhất định.


4

1.3. Những điều kiện khách quan, chủ quan của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn nổ ra và giành thắng lợi, phải có những
điều kiện khách quan và chủ quan.
– Những điều kiện khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Những điều kiện khách quan là phải có những mâu thuẫn về kinh tế – xã hội
diễn ra gay gắt trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Đó là mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất mang tính xã hội hố cao với quan hệ sản xuất chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Đây là mâu thuẫn cơ bản nhất, quyết định nhất của cách mạng xã hội

chủ nghĩa. Mâu thuẫn kinh tế này đã dẫn đến mâu thuẫn về xã hội là mâu thuẫn
giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản.
Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nền đại công nghiệp phát triển cao dựa trên cơ
sở sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – kỹ thuật đã hình thành những thành phố
lớn, những khu cơng nghiệp tập trung, làm cho lực lượng sản xuất đạt đến trình độ
xã hội hố cao. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đã tạo ra một đội ngũ công
nhân ngày càng đông về số lượng và cao về chất lượng. Họ gắn bó hữu cơ với nền
sản xuất hiện đại và giữ vai trò quyết định trong việc tạo ra ngày càng nhiều của
cải vật chất cho xã hội, nhưng của cải đó lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt. Điều đó
giúp cho cơng nhân dễ dàng nhận thấy sự bạo tàn của giai cấp tư sản và họ trở
thành kẻ thù của giai cấp tư sản; làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản ngày càng gay gắt.
Giai cấp tư sản không chỉ áp bức, bóc lột giai cấp cơng nhân và nhân dân lao
động trong nước, mà với lịng tham vơ hạn, với khát vọng quyền lực, giai cấp tư
sản đã tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược các nước khác, biến những nước
này thành thuộc địa của chúng. Điều đó cịn làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các nước
tư bản với các nước thuộc địa ngày càng trở nên gay gắt.


5

Những mâu thuẫn trên đã dẫn tới nguy cơ tạo thành cách mạng xã hội và nó
địi hỏi phải được giải quyết bằng cuộc cách mạng xã hội, nhằm xoá bỏ ách áp bức,
bóc lột của giai cấp tư sản, thiết lập một chế độ xã hội mới – xã hội xã hội chủ
nghĩa.
– Những điều kiện chủ quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Những điều kiện khách quan đã tạo ra nguy cơ tạo thành cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Nhưng để cho nguy cơ đó biến thành hiện thực thì phải có những điều
kiện chủ quan.
Điều kiện chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất là sự trưởng thành của giai cấp

công nhân, đặc biệt là khi nó đã có Đảng tiên phong của mình là Đảng Cộng sản.
Lúc đó, giai cấp cơng nhân mới có đủ khả năng điều kiện để đứng ra đảm đương sứ
mệnh lịch sử của mình là tổ chức phát động quần chúng nhân dân lao động tiến
hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nếu khơng có điều kiện chủ quan này thì
cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn khơng nổ ra. Bằng chứng là ở các nước tư bản chủ
nghĩa hiện nay như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp . . . Mâu thuẫn kinh tế – xã hội đã có,
những giai cấp công nhân và Đảng cộng sản ở những nước đó chưa muốn phát
động cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, sự khống chế của giai cấp tư sản
ở những nước đó quá chặt chẽ nên cách mạng xã hội chủ nghĩa chưa thể nổ ra
được. Điều kiện chủ quan thứ hai là sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác để tạo nên lực lượng khổng lồ, sức
mạnh to lớn để đảm bảo cho cách mạng thắng lợi.
2. Mục tiêu, nội dung, động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
2.1. Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng xã hội, giải phóng con
người, đó là mục tiêu cao cả mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Việc thực hiện
mục tiêu đó gắn liền với từng giai đoạn của cách mạng xã hội chủ nghĩa:


6

– Mục tiêu trong giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành
lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
– Mục tiêu trong giai đoạn thứ hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xố bỏ
chế độ người bóc lột người, giải phóng xã hội, giải phóng con người, đưa lại cuộc
sống ấm no hạnh phúc cho toàn dân; và một khi xố bỏ được tình trạng người bóc
lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xoá bỏ.
2.2. Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng có nội dung tồn diện trên tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội.

– Trên lĩnh vực chính trị
Nội dung cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị là
đưa quần chúng nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, làm thuê, bị áp bức bóc lột trở
thành người làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội. Muốn thực hiện được nội dung đó,
giai cấp cơng nhân cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản phải dùng bạo lực cách mạng đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp tư sản, như
C. Mác – Ph. Ăngghen nói: “Giai cấp vơ sản mỗi nước trước hết phải giành lấy
chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc” (C. Mác – Ph. Ăngghen:
Toàn tập, Tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, Tr. 623 – 624).
Bước tiếp theo là giai cấp công nhân phải xây dựng một nền dân chủ rộng rãi
cho nhân dân, đảm bảo cho nhân dân lao động thực hiện đầy đủ quyền làm chủ về
chính trị, tham gia vào công việc quản lý xã hội, quản lý nhà nước, làm cho nhà
nước thực sự là của dân, do dân và vì dân.
– Trên lĩnh vực kinh tế
Việc giành được chính quyền về tay giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động
mới chỉ là nhiệm vụ quan trọng bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết
định cho sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa phải là phát triển kinh tế;
nâng cao năng suất lao động và cải thiện đời sống nhân dân. Nên thực chất của


7

cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng về kinh tế. Trong Điều lệ Quốc tế I,
C. Mác viết: “Bất cứ cuộc cách mạng chính trị nào cũng chỉ là thủ đoạn để giải
phóng giai cấp cơng nhân về mặt kinh tế”. Trong Hệ tư tưởng Đức, ông nói: Xây
dựng chủ nghĩa cộng sản về thực chất là xây dựng về kinh tế. Chỉ có giải phóng về
kinh tế là cơ sở giải phóng giai cấp cơng nhân về mặt tinh thần, làm chủ được kinh
tế mới làm chủ được mặt tinh thần.
Nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế trước hết phải
thay đổi vị trí, vai trị của người lao động đối với tư liệu sản xuất. Xoá bỏ chế độ

chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xác lập chế độ sở hữu xã
hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới những hình thức thích hợp; thực hiện những
biện pháp cần thiết gắn người lao động với tư liệu sản xuất. Sau đó phải cải tạo nền
sản xuất cũ, lạc hậu thành nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa có cơng nghiệp hiện
đại, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến để đưa năng suất lao động
lên cao, nhằm từng bước cải tiện đời sống nhân dân và tạo ra những cơ sở vật chất
kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc
“Làm theo năng lực, hưởng theo lao động”.
– Trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng
Cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo nên sự biến đổi căn bản trong phương thức
và nội dung sinh hoạt tinh thần của xã hội theo hướng tiến bộ. Trên cơ sở kế thừa
và nâng cao các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, thực hiện việc tiếp thu
các giá trị văn hóa tiên tiến của thời đại để thực hiện việc giải phóng những người
lao động về mặt tinh thần thơng qua việc xây dựng từng bước thế giới quan và
nhân sinh quan cộng sản, xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C. Mác – Ph. Ăngghen đã chỉ
rõ: “Cách mạng cộng sản chủ nghĩa là sự đoạn tuyệt triệt để nhất với những quan
hệ sở hữu kế thừa của q khứ; khơng có gì đáng ngạc nhiên khi thấy rằng trong
tiến trình phát triển của nó, nó đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư


8

tưởng kế thừa của quá khứ” (C. Mác – Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội 1995, tr. 626)
Các nội dung trên diễn ra đồng thời và có quan hệ mật thiết, tác động, thúc
đẩy lẫn nhau đưa đến sự thành công của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
2.3. Động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Cách mạng xã hội chủ nghĩa với mục đích giải phóng giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động ra khỏi tình trạng áp bức, bóc lột. Do vậy, nó thu hút sự tham

gia đông đảo của giai cấp công nhân và tầng lớp nhân dân lao động, tạo thành
những động lực to lớn của cách mạng.
Trước hết, đối với giai cấp công nhân: Giai cấp công nhân thông qua đội tiên
phong của nó là Đảng cộng sản, là động lực cơ bản, quan trọng nhất, bởi lẽ, giai
cấp công nhân có vai trị quan trọng trong lĩnh vực kinh tế, sản xuất ra nhiều của
cải vật chất làm giàu cho xã hội. Mặt khác, giai cấp công nhân đề ra mục tiêu giải
phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bất công, nghèo nàn, lạc hậu đã được các
tầng lớp nhân dân hưởng ứng, đi theo tạo thành một sức mạnh tổng hợp. Hơn nữa,
giai cấp công nhân với đường lối, chiến lược cách mạng đúng đắn đã đưa cách
mạng từng bước đi đến thắng lợi. Do vậy, giai cấp cơng nhân và chính đảng của nó
như là đầu tàu thúc đẩy cả con tàu cách mạng chuyển động đi về đích. Nên thực tế
lịch sử cho thấy, khi nào và ở đâu phong trào công nhân vững mạnh, sự lãnh đạo
của giai cấp cơng nhân sáng suốt thì cách mạng đi lên. Ở đâu phong trào công nhân
suy yếu, sự lãnh đạo của giai cấp công nhân sai lầm thì phong trào cách mạng sẽ
gặp khó khăn.
Thứ hai, đối với giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân là động lực quan trọng
của cách mạng xã hội chủ nghĩa vì giai cấp nơng dân có nhiều lợi ích cơ bản thống
nhất với lợi ích của giai cấp cơng nhân, là lực lượng xã hội to lớn, đông đảo trong
dân cư, có khả năng cách mạng to lớn. Trong mỗi giai đoạn của cách mạng, khơng
thể thiếu vai trị của giai cấp nông dân.


9

Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, giai cấp công nhân chỉ giành
được thắng lợi khi tập hợp được sức mạnh của giai cấp nông dân. C. Mác – Ph.
Ăngghen chỉ ra rằng: “Cách mạng vô sản (theo nghĩa hẹp) phải là bản đồng ca của
hai giai cấp: công nhân và nơng dân. Trong các quốc gia cịn tồn tại phổ biến là
nơng dân, nếu khơng có được bản đồng ca ấy thì bài đơn ca của giai cấp công nhân
sẽ trở thành một bài ca ai điếu.”

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp nơng dân là lực lượng
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời là lực lượng to lớn
bảo vệ vững chắc thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, là điều kiện đảm bảo
sự lãnh đạo của Đảng, là cơ sở xây dựng chính quyền nhà nước vững mạnh.
Thứ ba, đối với tầng lớp trí thức: Trí thức đóng vao trị quan trọng trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.
Lênin đã từng khẳng định: “Khơng có trí thức khơng thể có chủ nghĩa xã hội” Vì
rằng, trí thức là những người có cơng lao chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, phát
triển dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước; tham gia xây dựng đường lối
của Đảng, chính sách của Nhà nước, đưa nó vào trong quần chúng nhân dân. Đặc
biệt là trong thời đại ngày nay, khi khoa học, kỹ thuật và cơng nghệ hiện đại phát
triển thì vai trị động lực phát triển xã hội của trí thức lại càng cao. Tuy vậy, trí thức
khơng bao giờ trở thành lực lượng lãnh đạo cách mạng vì họ khơng đại biểu cho
bất kỳ một phương thức sản xuất nào; khơng có hệ tư tưởng độc lập. Trí thức phục
vụ cho giai cấp nào thì mang ý thức hệ của giai cấp đó. Trí thức dưới chủ nghĩa xã
hội mạng ý thức hệ của giai cấp công nhân.
3. Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự vận
dụng ở Việt Nam
3.1. Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin
– Tư tưởng về cách mạng không ngừng của C. Mác – Ph. Ăngghen


10

C. Mác và Ph. Ănghen là những người đầu tiên nêu lên tư tưởng về cách
mạng không ngừng. Các ông quan niệm rằng: Cách mạng của giai cấp công nhân
phát triển không ngừng nhưng phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong phạm
vi một nước cũng như trên toàn thế giới. Mỗi giai đoạn có những yêu cầu và nhiệm
vụ cụ thể tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Tư tưởng đó thể hiện tính
giai đoạn và tính liên tục của sự phát triển cách mạng.

Các ông còn chỉ ra rằng trong các quốc gia còn tồn tại chế độ quân chủ, phong
trào công nhân chưa đủ mạnh, lúc đầu giai cấp công nhân với tư cách là lực lượng
chính trị xã hội độc lập phải chủ động tích cực tham gia vào cuộc cách mạng dân
chủ do giai cấp tư sản lãnh đạo để đánh đổ chế độ qn chủ. Sau đó, giai cấp cơng
nhân liên minh với các tầng lớp nhân dân lao động, trước hết là nông dân chuyển
sang đấu tranh chống lại giai cấp tư sản và các thế lực đại diện cho chúng.
Trong lời kêu gọi của Uỷ ban Trung ương gửi Đồng minh những người cộng
sản 1850, C. Mác – Ph. Ăngghen viết: “Lợi ích của chúng ta là phải làm cho cách
mạng trở thành cách mạng không ngừng, cho đến khi tất cả các giai cấp ít hay
nhiều hữu sản đều bị gạt ra khỏi chính quyền nhà nước, cho đến khi chẳng những ở
một nước mà ở tất cả mọi nước thống trị trên thế giới, các hội liên hiệp những
người vô sản đã tiến bộ đến mức có thể chấm dứt sự cạnh tranh giữa những người
vơ sản ở các nước đó, và ít nhất là tập trung những lực lượng sản xuất quyết định
vào tay mình”. Hay C. Mác cịn nói:
“Chủ nghĩa xã hội này là lời tuyên bố cách mạng không ngừng”
– Sự phát triển của V.I. Lênin
Dựa trên tư tưởng cách mạng không ngừng của C. Mác – Ph. Ănghen, căn cứ
vào điều kiện lịch sử mới: chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, giai
cấp tư sản đã trở thành giai cấp phản động, bỏ rơi ngọn cờ dân chủ, tiến hành
những cuộc chiến tranh xâm lược, biến những nước lạc hậu thành thuộc địa của
chúng. Trong phong trào công nhân đã xuất hiện chủ nghĩa cơ hội, tư tưởng cách


11

mạng không ngừng của C. Mác – Ph. Ăngghen đã bị họ phủ định, V.I. Lênin đã
đấu tranh chống lại những tư tưởng đó và phát triển tư tưởng cách mạng không
ngừng của C. Mác – Ph.Ăngghen thành lý luận về sự chuyển biến cách mạng dân
chủ tư sản kiểu mới sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.


Xuất phát từ tình hình nước Nga vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, là nơi
tập trung những mâu thuẫn, là khâu yếu nhất trong dây chuyền của chủ nghĩa đế
quốc đã xuất hiện cùng một lúc tiền đề của hai cuộc cách mạng, V.I. Lênin cho
rằng: “Giai cấp công nhân Nga phải nắm lấy ngọn cờ cách mạng dân chủ tư sản
(hay còn gọi là cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới), tiến hành cách mạng một cách
triệt để, thực hiện chuyển biến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới là màn mở đầu, là nhịp cầu để chuyển lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và cách mạng xã
hội chủ nghĩa là hai giai đoạn khác nhau nhưng cùng nằm trong một quá trình vận
động khơng ngừng, giữa chúng có sự gắn kết, khơng có bức tường nào ngăn cách


12

cả. Thắng lợi của cách mạng dân chủ nhân dân tạo tiền đề cho cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
V.I. Lênin còn chỉ ra những điều kiện để thực hiện sự chuyển biến từ cách
mạng dân chủ tư sản kiểu mới lên cách mạng xã hội chủ nghĩa:
– Một là, giai cấp cơng nhân thơng qua chính đảng của mình phải giữ vai trị
lãnh đạo trong suốt q trình cách mạng.
– Hai là, phải củng cố, tăng cường khối liên minh cơng cơng vững chắc trong
suốt q trình cách mạng.
– Ba là, chuyên chính dân chủ cách mạng của giai cấp công nhân, nông dân
phải chuyển sang thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản.
3.2. Sự vận dụng lý luận cách mạng không ngừng ở Việt Nam
Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin là lý luận soi
đường cho sự phát triển cách mạng ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, các nước dân
tộc chủ nghĩa, các nước chậm phát triển về kinh tế trong thời đại ngày nay, trong
đó có Việt Nam.
– Tính tất yếu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam

Xuất phát từ việc thấm nhuần quan điểm, tư tưởng của C. Mác – Ph. Ăngghen
và V.I. Lênin về cách mạng không ngừng, đồng thời căn cứ vào tình hình thực tiễn
cách mạng Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là sự áp bức, bóc lột của
thực dân phong kiến đối với quần chúng nhân dân lao động vô cùng dã man, tàn
bạo; những phong trào đấu tranh theo xu hướng tư sản và phong kiến đều bị thất
bại, Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chí Minh đã nhận thức được tính tất yếu lịch sử của
con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản (xã hội chủ nghĩa)
. Người nói: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức”. Do vậy, người đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt
Nam, đưa đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 03 – 02 – 1930.


13

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời làm cho cách mạng Việt Nam thoát khỏi sự
khủng hoảng về đường lối chính trị, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã
kết hợp được hai nhiệm vụ: giải phóng dân tộc bị áp bức và giải phóng giai cấp
những người lao động. Trên con đường đó, điều đầu tiên là phải tiến hành cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân (hay cịn gọi là cách mạng giải phóng dân tộc) nhằm tạo tiền đề cho việc
chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.

– Tính tất yếu chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa
KẾT LUẬN
Trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách
rời nhau và ở nước ta, khi giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong là Đảng
Cộng sản giữ vai trị lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do đó, tính tất yếu của



14

việc chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa đã được khẳng định ngay trong Cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng ta
là: Cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản dân quyền
và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Quan điểm tư tưởng đó lại một lần nữa được khẳng định trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam được trình bày tại Đại hội VII (1991): “Bài học xuyên suốt quá trình
cách mạng nước ta là nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc
lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã
hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc”.
Những quan điểm tư tưởng trên của Đảng ta là sự vận dụng một cách trung
thành, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào quá trình cách mạng Việt Nam; đưa
cách mạng Việt Nam tiến lên từng bước vững chắc./.



×