Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI VÀ THỨ BA BÀI : QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.97 KB, 12 trang )

BUỔI THẢO LUẬN THỨ HAI VÀ THỨ BA
BÀI : QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG
Quan hệ đại diện giữa vợ và chờng:
Tình huống 1:
Anh A và chị B xác lập một quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị B là công chức nhà
nước, Anh A ở nhà do không có công ăn việc làm nên quyết định dùng 100 trệu
tài sản chung của vợ chồng để đầu tư nuôi tôm. Chị B yêu cầu là anh A khi muốn
sử dụng số tiền này thì phải hỏi ý kiến của chị vì chị lo sợ anh A sẽ đưa ra các
quyết định không chín chắn liên quan đến việc định đoạt số tiền trên.
Hãy sử dụng các quy định của PL HN&GĐ nhận xét về yêu cầu của chị B.
Tình huống 2:
Anh M và chị N xác lập quan hệ HN hợp pháp. Hai anh chị dùng TS chung của vợ
chồng mua một chiếc xe ô tô để sử dụng trong gia đình. Giấy chứng nhận quyền sở
hữu chiếc xe ghi tên anh M là chủ sở hữu. Do không đủ tiền góp vốn hùn hạp đầu
tư cùng bạn trong một dự án mà anh M cho là có khả năng sinh lời rất lớn nên anh
M bán chiếc xe cho anh H. nếu phát sinh tranh chấp giữa chị N và anh H thì vụ
việc sẽ được giải quyết như thế nào?
Tình huống 3:
Anh A và chị B xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp ngày 6/7/2009. Anh chị có một
con chung là K (sinh ngày 19/8/2010). Vợ chồng A và B là các doanh nhân, họ có
sự nghiệp kinh doanh khá thành công.
Ngày 19/5/2015 anh A và chị B cùng đến ngân hàng M để gửi tiết kiệm số tiền là
10 tỷ đồng. Sau khi trao đổi cùng vợ chồng anh A và chị B, giao dịch viên của
ngân hàng đã mở tải khoản và phát hành thẻ tiết kiệm đứng tên anh A với thời hạn
gửi là 12 tháng kèm theo điều kiện khoản tiền gửi không được rút trước hạn.
Sau khi hoàn thiện mọi thủ tục, anh A, chị B ra về cùng với thẻ tiết kiệm mang tên
anh A. Khi đến thời hạn rút tiền tiết kiệm anh A đến Ngân hàng M thực hiện các
thủ tục cần thiết để lấy toàn bộ tiền gốc và lãi.
Tuy nhiên, khi giao dịch viên tại Ngân hàng M đang thực hiện tất toán thì chị B
xuất hiện với đề nghị Ngân hàng M không được cho anh A rút tiền (gốc và lãi) trên
thẻ tiết kiệm đứng tên anh A. Chị B xác định số tiền trong sổ tiết kiệm thuộc sở


hữu chung của vợ chồng anh chị, hiện hai anh chị đang làm thủ tục ly hôn. Nếu
Ngân hàng M cho anh A rút tiền thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của chị. Trong khi đó, anh A khẳng định số tiền đứng tên trên thẻ tiết
kiệm là tiền riêng của anh và không liên quan đến tài sản chung của vợ – chồng.


Anh A cũng cho biết anh cần phải tất toán thẻ tiết kiệm trong ngày để trả tiền cho
đối tác làm ăn, nếu khơng trả thì sẽ bị phạt do chậm thanh toán. Nếu Ngân hàng M
không cho anh A rút tiền để anh bị đối tác phạt vi phạm hợp đờng thì Ngân hàng M
sẽ phải chịu số tiền phạt đó.
Sử dụng quy định pháp luật hôn nhân và gia đình để xác định cách giải quyết của
giao dịch viên ngân hàng trong trường hợp trên.
Quan hệ tài sản giữa vợ và chờng
Tình huống 3:

Vợ chờng anh M chị T kết hôn với nhau vào ngày 1/6/2010. Anh chị là công
chức nhà nước làm việc chung một cơ quan quản lý nhà nước về nghệ thuật. Anh
M có khả năng ca hát và sáng tác các tác phẩm âm nhạc. Trước khi kết hôn với chị
T anh M có hơn 10 bài hát được phổ biến đến công chúng. Sau khi kết hôn, anh M
vẫn tiếp tục việc sáng tác. Số lượng bài hát mà anh M là tác giả ngày càng tăng,
hiện anh đã tập hợp số lượng bài hát sáng tác trong thời kỳ hôn nhân của mình đủ
để in thành tập sách với hơn 40 bài hát. Anh M trở thành người nổi tiếng và nhận
được tiền từ hoạt đợng sáng tác nhạc của mình.
Vợ chờng anh M chị T có hai con chung là D (sinh ngày 4/8/2011) và V
(sinh ngày 6/7/2014). Thời gian gần đây chị T thể hiện thái độ không đồng ý với
việc anh M giao du với nhóm người chị T cho là bất hảo. Tuy nhiên anh M cho
rằng mình cần phải kết thân với những người đó vì việc kết thân đó tạo cảm hứng
sáng tác cho anh. Mâu thuẫn của hai vợ chồng không được giải quyết mà ngày
càng trở nên sâu sắc, họ quyết định nộp đơn ra tịa xin ly hơn.
Anh M và chị T khơng thể thỏa thuận được với nhau về vấn đề tài sản. Tài sản

tranh chấp trong trường hợp này là các bài hát của anh M. Chị T cho rằng đây là tài
sản chung của vợ chờng, vì anh M đã lấy thời gian dành cho gia đình để sáng tác
những bài hát này và thời gian anh M dành cho âm nhạc thì chị phải thay anh cáng
đáng việc nhà và chăm sóc con cái. Chị T yêu cầu phải chia đôi 40 bài hát do anh
M sáng tác trong thời kỳ hôn nhân cũng như nhuận bút và những lợi nhuận đã phát
sinh từ các tác phẩm của anh M. Anh M không đồng ý với ý kiến của chị T, anh
giải thích: 40 bài hát của anh là tác phẩm âm nhạc, là tài sản sở hữu trí tuệ của anh,
gắn liền với tên tuổi, nhân thân của anh nên không thể chia được. Anh cho rằng
việc sáng tác của anh khơng làm ảnh hưởng gì đến c̣c sống gia đình, hầu hết các
bài hát anh sáng tác tại phòng làm việc khi ở cơ quan lúc rảnh rỗi hoặc ở công
viên, quán cà phê khi ngồi cùng bạn bè.
Tòa án thụ lý và giải quyết cho anh M chị T ly hôn.


Bằng các quy định của pháp luật hãy trình bày hình thức sở hữu khối tài sản tranh
chấp của anh M và chị T mà Tòa án cần phải xác định trong vụ việc nêu trên.

Tình huống 4:

Anh P và chị X gặp gỡ và sau đó chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày
1/7/1989 mà không đăng ký kết hôn. Sau 10 năm sống chung và có với nhau một
con chung là M (sinh ngày 2/5/1991). Năm 2009 anh P và chị X phát sinh mâu
thuẫn do việc anh P muốn dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh mà chị X
không đồng ý. Hai anh chị tự thỏa tḥn việc chia tịan bợ tài sản chung của anh
chị bằng văn bản vào ngày 12/4/2015. Năm 2015 anh P trúng số độc đắc với toàn
bộ số tiền trúng thưởng là 1 tỷ đồng. Anh P chị X dùng 1 tỷ đồng làm vốn tiến
hành hoạt động kinh doanh chung. Bốn năm sau do tình cờ phát hiện anh P thuê
một căn hộ và lén lút chung sống với chị R, chị X kiên quyết muốn ly hôn. Anh P
chị X tranh chấp số tiền trúng số 1 tỷ và những tài sản phát sinh từ hoạt động kinh
doanh chung của hai người.

Anh P và chị X tìm đến hai văn phòng luật sư khác nhau để yêu cầu cung
cấp dịch vụ pháp lý bảo vệ quyền lợi của mình.
Vận dụng những quy định của pháp luật để trình bày bản tư vấn cho anh P
và chị X.
Tình huống 5:
Anh A và chị B chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 15/10/1987 mà
không đăng ký kết hôn. Năm 1989 anh chị mua một căn nhà cấp bốn nhỏ với diện
tích 45m trên miếng đất diện tích là 80m . Năm 1993 mẹ anh A qua đời , anh A
được thừa kế số tiền 250 triệu. Anh A dùng số tiền này xây lại ngôi nhà khang
trang trên tịan bợ diện tích miếng đất để 2 vợ chồng cùng ở. Năm 1994 anh A và
chị B được uỷ ban nhân dân phường cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Đến
năm 2002 giữa anh A và chị B phát sinh nhiều mâu thuẫn trầm trọng và chị B đã
gửi đơn ra toà án yêu cầu giải quyết ly hôn và chia tài sản. Anh chị tranh chấp với
nhau về căn nhà mới xây.
Hãy xác định hình thức sở hữu của căn nhà đó.

Tình huống 6:


Chị A sở hữu một ngôi nhà tại 14 đường M phường X quận Y TP H trước khi kết
hôn. Chị A kết hôn với anh K. Chị A và anh K cùng góp tiền mua chung một căn
hộ dùng để sinh sống sau khi kết hôn. Trong thời kỳ hơn nhân với anh K, chị A tìm
được người đờng ý mua căn nhà 14 đường M phường X quận Y TP H với giá là 3
tỷ đồng. Chị có ý định dùng tiền này để mua một căn nhà khác. Tuy nhiên chị A
băn khoăn trong việc bảo vệ quyền lợi của mình trong trường hợp tranh chấp có
thể phát sinh với anh K về quyền sở hữu ngôi nhà mà mình sẽ mua.
Chị A tìm đến văn phịng luật sư để tham vấn ý kiến trong việc bảo vệ quyền lợi
của mình.
Hãy sử dụng các kiến thức pháp luật để tư vấn cho chị A trong vụ việc nêu trên.
Tình huống 7:

Năm 2010 anh M và chị N quen biết và sau mợt thời gian tìm hiểu và yêu nhau đã
quyết định dọn về sống chung với nhau.
Năm 2012 thì anh chị tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn, xác lập quan hệ hôn nhân
hợp pháp. Anh chị có 2 con chung là D (sinh năm 2012) và H (sinh năm 2014).
Năm 2016 giữa anh chị phát sinh mâu thuẫn đến mức không thể hàn gắn được.
Anh M và chị N có ý định yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Anh chị đạt được thỏa thuận được với nhau về người trực tiếp nuôi dưỡng cũng
như vấn đề cấp dưỡng cho các con chung của anh chị. Tuy nhiên họ không thể thỏa
thuận được vấn đề tài sản chung cũng như cách chia khối tài sản này.
Chị N cho rằng vợ chồng anh chị không có tài sản chung, hiện anh chị và các con
sống chung với gia đình nhà chị nên nhà cửa, đất đai là của cha mẹ chị.
Anh M cũng khẳng định là nhà mà hai vợ chồng anh chị và các con đang ở là
tḥc sở hữu của cha mẹ vợ, vì ngơi nhà đó gia đình cha mẹ vợ khơng sử dụng đến
nên có để cho vợ chồng anh sử dụng. Anh không có ý định tranh chấp ngôi nhà
này. Tuy nhiên quyền sử dụng hai mảnh đất được mua vào năm 2014 hiện Giấy
chứng nhận quyền sở hữu do chị N và mẹ của chị N đứng tên là do anh M mua,
nhưng vì anh M khơng có hợ khẩu thường trú tại tỉnh này nên anh để vợ và mẹ vợ
có hộ khẩu tại đây đứng tên cho tiện trong các thủ tục giấy tờ.
Ngoài ra, anh M còn cho rằng là cha của chị N trong buổi giỗ của gia đình có nói
là tặng cho vợ chờng anh chị quyền sử dụng mảnh đất nông nghiệp trồng cây lâu
năm 1000m2. Tuy nhiên cha chị N chưa tiến hành thủ tục tách thửa, nên hiện cha
chị N vẫn đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng mảnh đất này. Từ khi
được cha vợ hứa cho quyền sử dụng đất anh M đã trồng 2000 cây vải thiều, hiện đã
đến mùa thu hoạch trái.


Anh M tìm đến văn phịng ḷt sư để mong được tư vấn để bảo vệ quyền lợi của
mình trong trường hợp vợ chồng anh chị ly hôn.
Hãy sử dụng quy định của pháp luật để tư vấn cho anh M.


Tình huống 8:
Anh S, chị X xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp vào ngày 1/3/1999. Vào ngày
15/7/2015 do muốn đầu tư kinh doanh riêng, anh S yêu cầu chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Chị X đồng ý, họ tự thỏa thuận tiến hành chia
tịan bợ tài sản chung của vợ chờng trong thời kỳ hơn nhân. Sau khi chia t sản
chung trong thời kỳ hôn nhân anh S dùng phần tài sản mà mình nhận được sau khi
chia là 2 tỷ đờng để kinh doanh, anh S nhận được lợi nhuận là 400 triệu. Bên cạnh
việc kinh doanh đó anh S còn làm trưởng phịng tín dụng ở mợt ngân hàng với số
lương tháng là 50 triệu đồng. Chị X cho rằng số tiền lợi nhuận 400 triệu anh S
nhận được do việc kinh doanh riêng là tài sản của riêng anh H nhưng số lương anh
S nhận được hàng tháng là tài sản chung của vợ chồng. Anh S không đồng ý vì anh
cho rằng tiền lương cũng là tài sản riêng của anh.
Theo quy định của pháp luật hiện hành hãy giải quyết tranh chấp trên giữa anh S
và chị X?
Tình huống 9:
Đọc Quyết định Giám Đốc Thẩm 23/2010/DS-GĐT về việc xét xử vụ án ly hôn.
Sử dụng các quy định của pháp ḷt hơn nhân và gia đình để nhận xét về cách thức
xác định các hình thức sở hữu tài sản với những tài sản tranh chấp là nhà số 1 Hồ
C.S; nhà đất số 27 lô 2A Tr. Y; nhà đất số 16 ngõ 2 G.V trong các quyết định của
bản án sơ thẩm số 86/2007/HNGĐ –ST và bản án phúc thẩm số 19/2008/HNGĐ PT khi các cấp tòa giải quyết vụ việc tranh chấp tài sản nêu trên.

Ngày 06 tháng 5 năm 2010, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao đã mở phiên tòa
giám đốc thẩm xét xử vụ án "ly hôn" giữa các đương sự:
Nguyên đơn: ông Hiên, sinh năm 1942;
Trú tại: Số 16 (số cũ là 10A4) ngõ 2 G.V,H.N.
Bị đơn : Bà Huệ, sinh năm 1956;
Trú tại: Số 22 Hai Bà Trưng, H.P.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nhung (con gái ông Hiên), sinh năm 197 2;
2. Anh Kiên (con rể ông Hiên), sinh năm 1971;

Đều trú tại số 6 (cũ là số 1) ngõ Hồ C.S, H.N;
4. Chị Hương (con dâu ông Hiên), sinh năm 1974;


5. Anh Thành (con ông Hiên), sinh năm 1971;
6.Đều trú tại số 16 (số cũ là 10A4) ngõ số 2, G.V, H.N.
8. Chị Giang (con gái ông Hiên), sinh năm 1986
Trú tại số 16 (số cũ và 10A4) ngõ số 2, G.V, H.N.
9. Bà Hịa (vợ cũ ơng Hiên), sinh năm 1949;
Trú tại số 6 (cũ là số 1) ngõ Hồ C.S, H.N;
10. Ngân hàng cổ phần Phương Nam;
11. Trung tâm tư vấn pháp luật về xây dựng và bất đợng sản;
12. Văn phịng tư vấn và nghiên cứu xây dựng tượng đài Trần Hưng Đạo.
NHẬN THẤY
Tại đơn xin ly hơn đề ngày 18/5/2007 và trong quá trình giải qút vụ án, ngun
đơn là ơng Hiên trình bày:
Ơng và bà Huệ đăng ký kết hôn ngày 15/11/2000. Trước khi kết hôn với nhau, ông
Hiên và bà Huệ đều đã có vợ, chồng và có con riêng, nhưng đã ly hôn. Sau kết
hôn, ông và bà ở với nhau rất ít, bà Huệ thường xuyên về ở tại H.P để chăm sóc
cho mẹ và con của bà Huệ. Đến năm 2001, thì phát sinh mâu thuẫn do tính cách
khơng hợp, nên không thể ở với nhau được. Nay ông làm đơn xin ly hôn.
Về con chung: không có con chung.
Về nhà ở chung: không có.
Về động sản: sau khi kết hôn, kinh tế của hai người riêng biệt nên không có tài sản
chung; các tài sản hiện có ở nhà gồm 04 chiếc điều hỏa và 05 bình nóng lạnh là của
anh Thành con trai ông, bộ bàn ghế bằng gỗ trắc ông mua từ năm 1999, 02giường,
02 tủ gỗ là của ông mua trước khi kết hôn, ông đề nghị Tịa án giải qút theo pháp
ḷt; chiếc xe ơ tơ Matiz do bà Huệ mua năm 2002, ông đã mua lại chiếc xe này
vào tháng 3 năm 2003 và trả bà Huệ đủ 10.000USD nên đây là tài sản riêng của
ông.

Về nhà ở riêng: nhà số 1 ngõ Hồ C.S đã được cấp sổ đỏ tên ông vào năm 2000; nhà
số 16 ngõ 2 G.V, H.N(số cũ là số 10 A4, ngõ 2, G.V) là tiêu chuẩn của ông được
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội duyệt bán năm 1999, do ông có 34 năm công
tác. Toàn bộ số tiền mua nhà này là 613.440.000 đồng, do ông vay của bà NHịa
(vợ cũ của ơng) 399.000.000 đờng và cịn lại là tiền của ông. Nhà đã được cấp sổ
đỏ đứng tên ông.
Về nợ chung: không có.
Về nợ riêng: khoản nợ 2,3 tỷ đồng tại Ngân hàng cổ phần Phương Nam do ông thế
chấp nhà của ông tại số 16 ngõ 2 G.V. Theo quy định của Ngân hàng, lúc đó ông và
bà Huệ có tên trong đăng ký kết hơn nên phải cùng ký vào hợp đờng vay thì Ngân
hàng mới giải ngân, nhưng đây là nợ riêng của ông, ông không yêu cầu Tòa án giải
quyết.
Bị đơn là bà Ḥ trình bày:
Sau khi kết hơn với ơng Hiên vào năm 2000, ông bà sống tại số 1 ngõ Hồ C.S,
H.N) sau đó chuyển nhiều nơi, gần nhất là chuyển về số 10 A4 ngõ 2 G.V, H.Ni.
Tháng 3/2006, do ông bà có mâu thuẫn sâu sắc nên bà đã chuyển về H.P là nơi bà
Huệ ở trước khi lấy ông Hiên.


Về con chung: không có.
Về động sản: có 02 giương đôi, 02 tủ gỗ, 02 bộ bàn ghế, 04 điều hịa nhiệt đợ loại
9.000 BTU, 05 bình nóng lạnh và 01 xe ôtô Matiz biển kiểm soát 16H-3807 đăng
ký tên bà, khi mua là 10.000 USD. Bà Huệ xác định những tài sản trên là tài sản
chung của hai vợ chồng. Khi ly hôn bà đề nghị giải quyết theo pháp luật.
Về bất động sản:
1. Nhà số 1 ngõ Hồ C.S, H. N: có nguồn gốc là của ông Hiên, sổ đỏ đứng tên ông
Hiên. Trước khi ông bà kết hôn nhà xây 04 tầng, sau kết hôn bà đã bỏ tiền ra xây
tầng 5. Nay ông bà ly hôn, bà yêu cầu được chia l/2 giá trị xây dựng tầng 5.
2. Nhà đất tại số 27 lô 2A Tr.Y, H. N:
Nhà mua năm 2001, vì vợ chờng thống nhất mua để bán nên hợp đồng mua nhà

này đứng tên mợt mình ơng Hiên. Ơng Hiên trực tiếp nợp tiền đặt cọc để mua nhà
là 45.000.000 đồng, bao gồm tiền của bà Huệ đưa cho ông Hiên gồm 03 cây vàng
tương đương 15.000.000 đồng và đi vay 30.000.000 đồng. Tháng 1/2002 ông Hiên
chuyển tên hợp đồng sang chị Nhung (con riêng ông Hiên), tổng số tiền mua là
1.623.253.000 đồng, sổ đỏ đứng tên chị Nhung, bà biết và hoàn toàn nhất trí. Năm
2003, bà vay của bà Hoàng Thị Hán 40.000USD để hoàn thiện nhà, sau này đã lấy
tiền bán nhà để trả nợ bà Hán. Nhà xây xong năm 2004, chị Nhung đã bán cho
người khác được 4.400.000.000 đồng, lãi khoảng 2.200.000.000đồng, ông Hiên
quản lý toàn bộ số tiền bán nhà, đã chi 1.400.000.000 đồng trong số tiền lãi để mua
nhà số 10A4 G.V, còn lại ăn tiêu hết. Bà yêu cầu được chia số tiền lãi bán nhà.
3. Nhà đất tại số 16 (số cũ là 10A4) ngõ 2, G.V, H.N:
Tiêu chuẩn mua nhà này là của ông Hiên được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội
duyệt bán từ năm 1999, trước khí ông bà kết hôn. Khi Ủy ban nhân dân thành phố
Hà Nội duyệt bán thì ơng Hiên khơng có tiền. Năm 2001, ơng bà phải đi vay
100.000.000 đồng để đặt cọc mua nhà này. Trong số tiền này, bà góp 1.300 Bảng
Anh tương đương 30.000.000 đồng, khi đưa tiền cho ông Hiên, không có giấy tờ
gì. Tổng số tiền mua nhà là 613.000.000 đờng, đều do hai vợ chồng đi vay. Khi
nhận bàn giao nhà xây thô, ông bà phải bỏ ra 800.000.000 đồng để hoàn thiện nhà,
số tiền này lấy từ tiền lãi bán nhà 27 lô 2A, Tr.Y. ông Hiên làm sổ đỏ đúng tên mợt
mình ơng Hiên, bà khơng biết. Năm 2004, khi ông Hiên thế chấp sổ đỏ nhà 16 ngõ
G.V cho Ngân hàng ở phố Dã Tượng, Hà Nội để vay 1,3 tỷ đồng, do Ngân hàng
yêu cầu bà (với tư cách là vợ ông Hiên) phải ký vào hợp đồng vay, bà mới biết sổ
đỏ mang tên một mình ơng Hiên. Bà xác định ngơi nhà này là tài sản chung vợ
chồng và đề nghị chia đôi bằng hiện vật hoặc bằng giá trị. Do mâu thuẫn vợ chồng
nên đến tháng 10/2006 và tháng 3/2007 bà mới làm đơn gửi Sở Tài nguyên môi
trường và nhà đất Hà Nội đề nghị bổ sung tên bà vào Giấy chứng nhận quyền sứ
dụng đất nhưng chưa có kết quả.
4. Nhà ở tại P501- Yên Ninh,H.N: ông bà mua căn nhà này vào ngày 25/12/2002
với giá 1.450.000.000 đồng. Số tiền này do ông bà thế chấp nhà số 16, ngõ 2 G.V
để vay 1,3 tỷ đồng của Ngân hàng tại số 4 Dã Tượng. Giấy tờ mua nhả đứng tên

ông Hiên, sổ đỏ đứng tên cháu Thành. Khi nộp tiền công ty chỉ thu 600.000.000
đờng, số tiền cịn lại (850.000.000 đờng) cho nợ, đến khi cháu Thành bán nhà được
2,3 tỷ đồng đã trả. Bà yêu cầu được chia số tiền lãi bán nhà này là 800.000.000
đồng.


5. Phịng 405 nhà 50 Châu Long, Hà Nợi:
Nhà này đã được cấp sổ đỏ đứng tên vợ chồng anh Thành (con riêng của ơng
Hiên). Ơng bà đã cho vợ chồng anh Thành 100.000.000 đồng để nộp tiền mua nhà;
nay bà khơng u cầu Tịa án giải qút về nhà này nữa.
Về nợ: ngày 03/10/2005, ông Hiên ép bà đến Ngân hàng thương mại cổ phần
Phương Nam vay 2,3 tỷ đồng trên danh nghĩa góp cổ phần vào Công ty Xây dựng
Phát triển nhà 41; sau đó, ông Hiên rút vốn ra để mua 02 lô đất dự án tại Việt
Hưng; bà xác định đây là khoản nợ riêng của ông Hiên vì thực chất ông Hiên quản
lý sử dụng tất cả số tiền trên.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
1. Chị Nhung và anh Kiên trình bày:
Ngày 18/01/2002 chị ký hợp đồng mua nhà 27 lô 2A Tr.Y với Công ty đầu tư phát
triển hạ tầng đô thị nhà xây thô 03 tầng diện tích 99,6m2 đất với giá 1.623.253.000
đồng. Chị nộp tiền cho Công ty toàn bộ số tiền mua nhà làm nhiều lần. Nguồn gốc
tiền mua nhà này của mẹ chị là bà Hòa đưa cho chị 500.000.000 đờng (bà Hịa bán
nhà ở 43 ngõ 39 tập thể Hào Nam được 889.000.000 đờng) cịn lại là tiền của vợ
chồng chị đi vay bạn bè, anh em người thân. Anh chị khẳng định toàn bộ số tiền
mua nhà Tr.Y là của anh chị không liên quan gì đến ơng Hiên, bà Ḥ. Sau khi nợp
tiền, ngày 20/6/2004, Công ty bàn giao nhà cho chị theo biên bản bàn giao số 424
ngày 20/6/2004. Ngày 13/l0/2004, Công ty và chị đã ký biên bản thanh lý hợp
đồng số 361. Ngày 16/11/2004, Uỷ ban nhân dân quận Cầu Giấy đã cấp sổ đỏ nhà
27 lô 2A Tr.Y đứng tên vợ chồng chị. Ngày 01/12/2004, anh chị đã bán ngôi nhà
trên cho chị Lê Thúy Liên. Việc mua bán có lập hợp đờng mua bán tại Phịng Cơng
chứng nhà nước số 3, hai bên đã trả tiền và trao nhà khơng có thắc mắc khiếu kiện

gì. Anh chị khẳng định nhà 27 lô 2A Tr.Y thuộc quyền sở hữu của anh chị, khơng
liên quan gì đến ơng Hiên, bà Huệ.
2. Anh Thành và chị Hương trình bày:
Về nhà ở tại P501, Yên Ninh, H.N. Ngày 25/12/2002 anh Thành ký hợp đồng mua
nhà số 439 với Công ty cổ phần đầu tư xây dựng Ba Đình để mua căn hợ nêu trên
với giá 1.486.300.000 đồng. Anh là người trực tiếp nộp tiền và nộp nhiều lần.
Ngày 27/5/2004, anh chị vay Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
400.000.000 đồng, số tiền còn lại vay bạn bè, anh chị em, khơng có liên quan gì
đến ơng Hiên, bà Ḥ. Ngày 20/1/2006, Ủy ban nhân dân quận Ba Đình đã cấp sổ
đỏ đứng tên anh. Ngày 26/01/2006, anh chị đã bán cho bà Nguyễn Thúy Hoa với
giá 2.300.000.000 đồng, bên bán và bên mua khơng cịn tranh chấp gì.
Về nhà ở tại P405 Châu Long, Trúc Bạch, Ba Đình: đây là căn hộ được mua theo
tiêu chuẩn của vợ chồng anh do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội phê duyệt với
giá 90.000.000 đồng. Đây là tài sản riêng của anh chị, khơng liên quan gì đến ơng
Hiên, bà Ḥ.
3. Bà Hịa (vợ cũ của ơng Hiên) trình bày:
Bà và ông Hiên kết hôn năm 1976, năm 1980 thì ly hơn. Ơng bà có hai con chung
là Nhung và Phương.
Trong thời gian chung sống với ông Hiên, bà ở tại nhà số 1 ngõ Hồ Cây Sữa, H.N
của mẹ ông Hiên. Ngày 06/8/2003, bà đã bán nhà tại 43 ngõ 39 Hào Nam, ô Chợ
Dừa được 899.000.000 đồng và bà đưa chị Nhung 500.000.000 đồng để mua nhà ở


Tr.Y. Số tiền cịn lại ơng Hiên vay để mua nhà ở G.V. Hiện bà chưa có u cầu địi
ơng Hiên số tiền này.
4. Chị Giang trình bày:
Nhà ở G.V là do bố chị mua và hai bố con đã ở nhà này từ khi bàn giao đến nay.
Bà Huệ khơng ở và khơng có liên quan gì đến nhà này.
5. Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam: xác định ông Hiên và bà Huệ có
ký hợp đồng vay số tiền 2.300.000.000 đồng với thời hạn vay 12 tháng, từ

30/10/2005 đến 03/10/2006, tài sản thế chấp là nhà số 16 ngõ 2 G.V. Hiện khoản
vay còn nợ gốc 820.000.000 đồng cộng lãi phát sinh. Ngân hàng không yêu cầu
giải quyết trong vụ án ly hôn này.
Tại bản án sơ thẩm số 86/HNGĐ ngày 19, 24/12/2007, Tòa án nhân dân quận
Đống Đa quyết định tóm tắt như sau:
1. Công nhận việc tḥn tình ly hơn giữa: ơng Trần Hiên và và Trịnh Thị Huệ
2. Về tài sản:
- Chia cho ông Hiên được sở hữu: 01 giường gỗ trị giá 1.000.000 đờng; 05 bình
nóng lạnh trị giá 5.000.000 đờng, 01 tủ gỗ hai buồng cánh kính đựng sách giá
500.000đ, 01 ô tô Matiz giá 80.000.000 đồng tổng cộng 86.000.000 đông.
- Chia cho bà Huệ được sở hữu: 01 giường gỗ kiểu Đức trị giá 2.000.000 đồng, 01
tủ gỗ hai buồng cánh gỗ giá 500.000 đồng, tổng cộng 2. 500. 000 đồng. Buộc ông
Hiên phải thanh toán trên chênh lệch tài sản cho bà Huệ 43.000.000 đồng.
- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Hiên sau khi ly hôn là bà Huệ được sở hữu 01 bộ
bàn ghế salon da nỉ.
- Bác u cầu địi chia 04 điều hịa nhiệt đợ, bợ bàn ghế gỗ trắc của bà Huệ.
3. Về nhà ở: bác các yêu cầu khác của và Huệ về việc:
Đòi chia giá trị xây dựng tầng 5 nhà số 6 (số 1 cũ) ngõ Hờ C.S, H.N
- Địi chia nhà số 16 ngõ 2 G.V, H.N.
- Đòi chia lãi từ việc bán nhà 27 Lô 2A khu đô thị mới Tr.Y, H.N và bán căn hộ
P501, 18 Yên Ninh, Ba Đình.
Ghi nhận sự tự nguyện của bà Huệ, anh Thành và chị Hương khơng u cầu Tịa án
giải qút về nhà tại P405- 50 Châu Long, Ba Đình Hà Nợi.
4. Về nợ: Ghi nhận sự tự nguyện của ông Hiên, bà Huệ và Ngân hàng thương mại
cổ phần Phương Nam khơng u cầu Tịa án gỉai qút về khoản nợ nên Tịa khơng
xét.
Ngoài ra bản án cịn tun về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 31/12/2007, ông Trần Hiên có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm nêu trên với
nội dung: về tài sản, không nhất trí với quyết định của Tòa án ở những điểm sau:
Chiếc xe oto Matiz, Tòa án xác định đây là tài sản chung nhưng đây là tài sản riêng

của ơng vì ơng đã trả hết l0.000USD cho người thân của bà Huệ và trực tiếp đưa
cho bà Huệ;
- 05 chiếc bình nóng lạnh, 2giường, tủ đều là tài sản riêng của ơng vì bà Huệ không
làm ăn chung, không có tiền chung, nên không tạo dựng được bất kỳ một tài sản
chung nào.
Ngày 02/01/2008, bà Huệ kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ thẩm vì đã xâm
phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà về tài sản .
Tại phiên tịa phúc thẩm, ơng Đoàn Trọng Bằng là người đại diện theo ủy quyền


của bà Huệ giải quyết về tài sản trong vụ án ly hôn và ông Hiên đều rút yêu cầu
kháng cáo về tải sản là động sản.
Tại bản án phúc thẩm số19/2008/HNGĐ-PT ngày 25/3/2008, Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội đã quyết định: sửa bản án sơ thẩm về án phí; giữ nguyên các
phần khác của bản án sơ thẩm.
Sau khi có bản án phúc thẩm, ngày 18/4/2008 và ngày 24/7/2008 bà Trịnh Thị Huệ
có đơn khiếu nại yêu cầu được xem xét lại việc xét xử của Tòa án cấp sơ thẩm và
phúc thẩm đối với nhà đất tại số 16 ngõ 2, G.V, H.N và nhà 27 lơ 2A Tr.Y, H.N; bà
cho rằng Tịa án cấp phúc thẩm khơng chấp nhận đơn xin hoãn phiên tịa của bà là
vi phạm tố tụng.
Tại quyết định kháng nghị số115/KN-HNGĐ ngày 01/4/2009, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với bản án phúc thẩm số19/2008/HNGĐPT ngày 25/3/2008 của Tịa án nhân dân thành phố Hờ Nợi; đề nghị Tòa Dân sự
Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy về phần chia tài sản của bản án
phúc thẩm nêu trên và bản án sơ thẩm số 86/2007/HNGĐ ngày 19, 24/12/2007 của
Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
quận Đống Đa để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số221/2009/GĐT-DS ngày 09/6/2009, Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị số115/KN-HNGĐ ngày 01/4/2009
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Tại Công văn số 35/TDS ngày 18/8/2009, Hội đồng xét xử Giám đốc thẩm Tòa

Dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã đính chính phần Quyết định hủy Bản án dân sự
phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm của... Quyết định Giám đốc thẩm thành: . . .
Hủy một phần về tài sản của Bán án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm . .
.
Sau khi xét xử giám đốc thẩm, ông Hiên có nhiều đơn khiếu nại đề nghị được xem
xét theo thủ tục giám đốc thẩm vì Quyết định giám đốc thẩm vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng và sai về nợi dung. Ơng cho rằng: qút định giám đốc thẩm
của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và phúc
thẩm cả phần tình cảm mà khơng ai khiếu nại, vi phạm nghiêm trọng quyền quyết
định và tự định đoạt của đương sự; sau đó lại ra quyết định đính chính là vi phạm
khoản 1 Điều 240 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã xét
xử khách quan và đúng pháp luật.
Tại Quyết định số189/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 04/11/2009, Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm số221/2009/GĐTDS ngày 09/6/2009 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao; đề nghị Hợi đờng
Thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Quyết
định giám đốc thẩm nêu trên, hủy phần giải quyết về chia tài sản của bản án bản án
phúc thẩm số19/2008/HNGĐ-PT ngày 25/3/2008 của Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội và bản án sơ thẩm số 86/HNGĐ ngày 19, 24/12/2007 của Tòa án nhân dân
quận Đống Đa, thành phố Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tịa án nhân dân q̣n
Đống Đa, thành phố Hà Nợi để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp
luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng


Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
XÉT THẤY:
1. Về tố tụng:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật Tố tụng dân sự thì: "Sau khi tuyên án
xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án từ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng

về chính tả về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai. ..". Tại Công văn số 35/TDC
ngày 18/8/2009, Hội đồng Giám đốc thẩm Tòa Dân sự đã đính chính phần Quyết
định hủy Bản án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thâm... thành: ... Hủy một
phần về tài sản của Bán án dân sự phúc thẩm và Bản án dân sự sơ thẩm...tại phần
Quyết định Giám đốc thẩm số221/2009/GĐT-DS ngày 09/6/2009 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao là trái với quy định tại Khoản 1 Điều 240 BLTTDS 2004
và điểm 12 Mục III Nghị quyết số02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Tòa án
nhân dân tối cao. Do đó, kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao về phần này là có căn cứ.
2. Về nội dung:
Phần nhận định của quyết định giám đốc thẩm hủy phần chia tài sản chung của vợ
chồng trong vụ án tranh chấp hơn nhân và gia đình giữa ơng Hiên và bà Huệ đối
với các nhà đất nêu trên là có căn cứ, nhưng phần quyết định lại quyết định hủy
toàn bộ bản án sơ thẩm và phúc thẩm, sau đó lại đính chính phần quyết định (thực
chất là sửa lại quyết định) là không đúng quy định tại Điều 240 Bợ ḷt tố tụng dân
sự.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 Bộ luật
Tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy Quyết định giám đốc thẩm số221/2009/GĐT-DS ngày 09/6/2009 của Tòa
dân sự Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án phúc thẩm số19/2008/HNGĐ-PT ngày
25/3/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và bản án sơ thẩm số 86/HNGĐ
ngày 19, 24/12/2007 của Tòa án nhân dân quận Đống Đa, thành phố Hà Nội đối
với quyết định chia tài sản chung của vợ chồng giữa ông Hiên và bà Huệ;
2 . Giao hờ sơ vụ án cho Tịa án nhân dân q̣n Đống Đa, thành phố Hà Nội để xét
xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

10) Anh Hùng và chị Mai sau mợt thời gian tìm hiểu và yêu nhau, họ quyết định
kết hôn với nhau để xây dựng gia đình. Anh Hùng và chị Mai cùng thống nhất
quan điểm lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận để xây dựng, củng cố gia đình

trong các quan hệ tài sản thông qua bản thỏa thuận mà anh chị lập trước khi kết
hôn. Anh chị lựa chọn dịch vụ tư vấn tại văn phòng luật sư để lập Bản thỏa thuận.


Hãy cung cấp cho anh Hùng và chị Mai Bản thỏa thuận điều chỉnh quan hệ tài sản
như các anh chị đó mong muốn.



×