Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Bản chất cấu trúc estuary của vùng cửa sông bạch đằng structure nature of bach dang estuary

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.61 KB, 9 trang )

Trần Đức Thạnh, Nguyễn Cẩn, Đặng Đức Nga, 2000. Bản chất cấu trúc estuary của vùng cửa sông Bạch
Đằng. Tuyển tập Tài nguyên và Môi trường biển, tập VII, Tr.35-50. NXB. Khoa học và Kỹ thuật.

BẢN CHẤT CẤU TRÚC ESTUARY CỦA
VÙNG CỬA SÔNG BẠCH ĐẰNG

MỞ ĐẦU
Các vịnh (bays), đầm phá ( lagoons), châu thổ (deltas) và các cửa sơng hình phễu
(estuaries) là các hệ tự nhiên hay các thể địa chất hiện đại chủ yếu ở ven bờ Việt Nam, được
coi là các vùng trọng điểm phát triển kinh tế ven biển. Vì vậy, xác định đúng kiểu loại và
hiểu rõ bản chất của chúng có tầm quan trọng đặc biệt về cả khoa học và thực tiễn.
Vùng cửa sông Bạch Đằng có đỉnh ở Bến Triều, đường bờ cơ bản chạy ven Phù
Long - Cát Hải - Đồ Sơn và rìa ngồi đới bờ ngầm cửa sơng đi theo đường đẳng sâu 6m từ
mũi Đồ Sơn đến tây nam đảo Cát Bà. Trước đây, nó thường được coi là bộ phận của ven bờ
châu thổ kéo dài từ Yên Lập đến Nga Sơn [13], gần đây được xếp vào vùng cửa sơng hình
phiễu [19,21]. Tham khảo một số mẫu hình đã có trên thế giới và dựa vào tài liệu khảo sát
trong những năm qua, bài viết này trình bày có hệ thống các luận cứ khẳng định bản chất
cấu trúc hình phễu (estuary) của vùng cửa sơng này. Hy vọng, đây là một định hướng cần
thiết giúp cho điều tra cơ bản và nghiên cứu khai thác, quản lý cửa sông Bạch Đằng trong
hệ thống cửa sông Việt Nam.
QUAN NIỆM CƠ BẢN VỀ ESTUARY (CỬA SƠNG HÌNH PHỄU)
Từ giữa thế kỷ XIX. Ritter, K. đã chia vùng cửa sơng (VCS) thành kiểu châu thổ
hình tam giác có nhiều nhánh và vùng cửa sông lõm dạng phễu. Posen, O. (1866), đề nghị
gọi tên cửa sông dạng phễu là Estuary vì ở đó thuỷ triều rất mạnh và là động lực quan
trọng ( Tiếng Latin eastus, nghĩa là thuỷ triều) [26]. Lapparent, A. (1907) và Haug, E.
(1911) cũng gọi Estuary là VCS có thuỷ triều, khác với VCS châu thổ [10]. Sukin, C.(1938)
cho rằng Estuary có dạng phễu, rộng, phần lớn là sâu, mở ra biển và đại dương, phổ biến ở
những vùng có thuỷ triều, được hình thành do triều lớn, lịng bị bào mịn và có sự hạ lún lục
địa ven bờ. Theo ơng, những Estuary khơng có thuỷ triều gọi là Liman và thường có doi cát
chắn cửa. Nhikolaev, N. I (1949) và sau này là Khain, E. (1973) cho rằng Estuary chủ yếu
hình thành do sụt võng kiến tạo gây ngập chìm khơng đền bù trầm tích [8].


Những năm gần đây, khái niệm Estuary được mở rộng và nguồn gốc hình thành nó
được gắn liền với biển tiến sau băng hà trong Holoxen tạo nên sự ngập chìm khơng đền bù
[4,5,16]. Định nghĩa Estuary của Pritchard được nhiều người chú ý nhất [14]. Theo ông
“Estuary là một thuỷ vực nửa kín ven bờ thơng với biển khơi, trong đó có sự hồ trộn nhất
định giữa nước biển và nước ngọt đưa đến từ lục địa”. Ông chia Estuary thành 4 kiểu. Kiểu
1 là các thung lũng ngập chìm, thuộc kiểu kinh điển, hay gặp ở các đồng bằng rộng
lớn ven biển và do các yếu tố địa chất khống chế. Kiểu 2 là các fjord nguồn gốc sơng băng
ngập chìm. Kiểu 3 là các Estuary có đê cát (bar-built) chắn ngồi, ví dụ như Estuary
Carolina ở Bắc Mỹ. Kiểu này có hình thái đầm phá và thường năng lượng gió có vai trị xáo
trộn nước tích cực thay cho vai trò của thuỷ triều. Kiểu 4 là các Estuary hình thành do các
quá trình kiến tạo tạo nên các vùng sụt hạ ven bờ, ví dụ như vịnh San-Fransisco.

1


Day, J. (1981) còn mở rộng hơn nữa khái niệm Estuary, coi đó là “ một thuỷ vực
ven bờ đóng kín từng phần. Nước của nó thường xun hoặc có chu kỳ giao lưu với biển,
trong đó có sự biến đổi rõ ràng về độ mặn do sự hoà trộn giữa nước biển và nước ngọt từ
lục địa đưa tới ”. Dựa theo quan điểm này, Xaphianov (1987) đề nghị chia Estuary thành 3
nhóm: bình thường, siêu mặn và kín [27]. Gần đây, các nhà địa chất Úc, đại diện là Roy, P.
phân chia Estuary ở Úc thành 3 kiểu: kiểu thung lũng sơng ngập chìm, kiểu có đê cát chắn
ngồi và kiểu các hồ nước mặn đóng kín ven bờ [15]. Leeder, M. R. (1984) cho rằng, động
lực của nước và trầm tích trong Estuary liên quan với tương quan cường độ của các q
trình triều, sơng và sóng. Cũng dựa theo quan điểm của Pritchard, ông chia Estuary thành 4
kiểu theo cân bằng độ muối thể hiện tính phân tầng. Kiểu A, phân tầng mạnh, q trình lịng
sơng thống trị, bồi tụ mạnh. Kiểu B, hoà trộn từng phần, nghiêng về bồi tụ, là kiểu phổ biến.
Kiểu C, đồng nhất theo phương thẳng đứng trên mặt cắt ngang, dịng triều mạnh và khơng
bồi tụ đáy. Kiểu D, đồng nhất theo phương thẳng đứng và theo dọc luồng chảy, chuyển
động vật chất hồn tồn do dịng triều thống trị và xâm thực mạnh luồng [11].
Như vậy, đến nay khái niệm “Estuary” được mở rộng rất nhiều và được hiểu khác

nhau. Cấu trúc của nó từ dạng cụ thể là hình phễu được khái qt thành nửa kín, rồi đóng
kín từng phần, thậm chí đóng kín hồn tồn. Với tiếng Việt “ cửa sơng hình phễu” và tiếng
nước ngồi “Estuary” chỉ còn là tên gọi lịch sử. Thuỷ triều ở Estuary thường lớn và quan
trọng nhưng khơng cịn được coi là điều kiện tiên quyết hình thành cấu trúc này. Độ mặn
Estuary có thể từ nhạt lợ đến siêu mặn, miễn là có sự hồ trộn nhất định giữa nước biển và
nước ngọt từ lục địa tới. Thậm chí, quan niệm về bản chất quá trình ngập chìm (nguyên
nhân kiến tạo và chân tĩnh) khơng đền bù trầm tích, cũng có ý kiến cho rằng Estuary đã
trưởng thành có thể bị lấp đầy trầm tích [15]. Với quan điểm mở rộng, dựa vào bản chất,
khơng dựa vào hình thái, Lafond, R. (1967) đã coi là vịnh Componthom ở Campuchia là
một Estuary [10]. Tuy nhiên, dưới góc độ địa chất vẫn phổ biến quan niệm coi Estuary là
một vùng hạ lưu sơng, thường có dạng hình phễu, bị ngập chìm khơng đền bù trầm tích, và
thuỷ triều có vai trị quan trọng [3,4,5,16]. Những đặc điểm này mang tính phổ biến, phù
hợp với những Estuary lớn và điển hình của thế giới như Xen, Jironda (Pháp), Thame,
Mersey (Anh), Rein, Maas (Hà Lan), Potomac(Mỹ), La-plata (Nam Mỹ), Dương Tử (Trung
Quốc) [26]. Theo quan điểm tướng và mơi trường trầm tích, ln có sự phân biệt rõ ràng
Estuary với VCS châu thổ và đầm phá [3,9].
ở Việt Nam, từ lâu Xamoilov (1952) đã xếp cửa sông Đồng Nai vào kiểu Estuary
[26]. Kiểu loại Estuary của vùng cửa sông Bạch Đằng đã được đề cập trong một số công bố
[7, 12, 17, 18, 24] mới chỉ dựa vào đặc điểm hình thái. Tổng hợp các dấu hiệu quy định
bản chất cấu trúc của nó mới được xem xét sơ lược gần đây, trên cơ sở đối sánh với cấu
trúc khác (châu thổ, vụng biển) ở ven bờ phía bắc [21].
NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA ESTUARY BẠCH ĐẰNG.
1. Cấu trúc nửa kín
Cấu trúc nửa kín của VCS và sự phân cách tương đối của nó với biển là nhờ quần đảo
Cát Bà che chắn ở phía đơng, đơng nam, bán đảo Đồ Sơn ở phía tây và một phần nhờ vào
hệ thống đảo cát phía ngồi. VCS thơng với biển ở phía nam và phần ngầm của nó ăn tới độ
sâu 6m. Với cấu trúc như vậy, chỉ có sóng hướng nam và đơng nam mới có khả năng lan
truyền từ biển vào với độ cao thường không quá 3m.

2



Cấu trúc nửa kín của Estuary Bạch Đằng hiện nay do các kiến trúc tân kiến tạo và
kiến tạo hiện đại (TKT và KTHĐ) quy định (hình 1). Phần trung tâm của Estuary nằm trên
đới võng hạ tương đối với KTHĐ và đới võng hạ khá mạnh trong Holoxen có dạng graben
[1]. Vai trị vơ cùng quan trọng của chuyển động KTHĐ đối với sự hình thành Estuary
Bạch Đằng khơng chỉ là vận động hạ thẳng đứng trong Holoxen, mà còn tạo ra tiền đề một
vùng võng hạ tương đối có cấu trúc nửa kín khi biển tiến chân tĩnh tràn ngập. Estuary Bạch
Đằng có hình thái hình phễu . Thực ra, đây là một tổ hợp của hai phễu. Phễu phụ n Lập
có kích thước nhỏ, phễu chính Nam Triệu có đỉnh ở Bến Triều, đáy là bán đảo Đồ Sơn - Cát
Bà.
2.Thuỷ triều là yếu tố động lực ngoại sinh ưu thế và quy định những nét cơ bản về
trầm tích, địa hình.
Thuỷ triều ở VCS nhật triều đều có biên độ thuộc loại lớn, cực đại 4-4.5m [25], tốc
độ dịng triều cực đại 150-180cm/s, trung bình 20-50cm/s, tương quan thời gian triều chảy
lên và chảy xuống11-12h/13-14h. Thuỷ triều thực sự khống chế chế độ thuỷ văn nói chung,
chế độ dịng chảy nói riêng ở VCS. Vai trị của thuỷ triều còn thể hiện ở tương quan giữa
lượng chảy triều và lượng chảy sông. Theo số liệu khảo sát của các chuyên gia Liên Xô cũ,
tại trạm Hùng Vương nằm sâu trong sông Cấm trong năm 1961, lượng chảy triều lên 7,57
km3, cịn lượng chảy sơng là 9,67km 3. Trong năm 1962, lượng chảy triều lên 7,77km 3,
lượng chảy sơng 9,11km3. Bảng 1 trình bày tương quan lượng chảy triều và sông trong một
pha triều (25 giờ) vào mùa mưa 1991 và mùa khô 1992 [21]. ở vùng cửa sông Lạch Tray và
trên sông Đá Bạch, lượng chảy triều áp đảo lượng chảy sông. ở hệ Lạch Huyện, Yên Lập,
lượng chảy triều gần như chiếm ưu thế tuyệt đối, cịn lượng chảy sơng khơng đáng kể. Vì
vậy, các q trình bồi tụ, xói lở và thành tạo địa hình ở VCS hiện nay đều liên quan đến vai
trị ưu thế của thuỷ triều so với các quá trình sơng và sóng. Tác động của sóng đều thơng
qua hoặc liên quan đến vai trò của thuỷ triều (mực triều, dòng triều). Thuỷ triều còn khống
chế sự trao đổi của nước sông và biển đến sự phân bố của thực vật ngập mặn và hệ động
vật đáy [6].
Bảng 1: Tương quan lượng chảy triều và sông ở một số trạm

(triệu m3).
Trạm

Mùa

Cỗu Rào
(S.Lạch Tray)
Hùng Vương
(S. Cấm)
Cầu Đá Bạch
(S.Đá Bạch)

Khô
Mưa
Khô
Mưa
Khô
Mưa

Lượng chảy
triều lên
5.5
8.2
19.6
21.2
15.8
16.3

Lượng chảy
triều xuống

9.8
10.4
47.6
51.7
18.8
21.5

Lượng chảy
sơng
4.3
2.2
28.0
35.9
3.0
5.1

Các tướng trầm tích có mặt trong giai đoạn phát triển Estuary hầu hết có quan hệ
với động lực thuỷ triều. Trong số 8 kiểu tướng trầm tích đang thành tạo có 6 kiểu liên quan
đến vai trị chủ đạo của thuỷ triều [22]. Những tướng đặc trưng cho Estuary Bạch Đằng là
bãi triều lầy, bãi triều thấp, delta triều xuống và lịng lạch. Bảng 2 trình bày kết quả so sánh
các chỉ tiêu về đường kính hạt trung bình (Md) và hệ số chọn lọc (S 0) giữa các tướng tương
đương Estuary (E) và vùng cửa sông châu thổ (D).

3


Bảng 2. So sánh giá trị Md và S0 giữa các tướng trầm tích tương đương giữa
Estuary Bạch Đằng với VCS châu thổ sơng Hồng.
Tướng trầm tích
Bãi triều lầy E

Bãi bồi ngập triều D
Bãi triều thấp E
Bãi triều thấp D
Lạch triều sông E
Lạch triều sông D
Châu thổ ngầm E
Châu thổ ngầm D

Md(mm)
0.0060- 0.0130
0.0025-0.0060
0.070-0.080
0.003-0.028
0.01-0.08
0.08-0.10
0.014-0.027
0.058-0.064

S0
3.1-6.5
1.4-3.9
1.2-3.7
1.2-5.8
2.4-3.6
1.5-2.4
1.1-1.5
2.0-2.8

Trầm tích hạt mịn ưu thế trên cả hai kiểu VCS, nhưng Estuary có các tướng đới
triều trầm tích thơ hơn, các tướng đới dưới triều trầm tích mịn hơn so với VCS châu thổ. ở

Estuary Bạch Đằng, trong điêù kiện nghèo bồi tích cung cấp , thuỷ triều đã mang đi những
hạt mịn nhất ở đới triều, lắng đọng ở đới dưới triều. Bảng 3 cho thấy, so với VCS châu thổ
sông Hồng (D) các tướng tương đương ở Estuary Bạch Đằng (E) có lượng cacbon hữu cơ,
lưu huỳnh tổng số, nitơ, và Cl - nước bùn luôn cao hơn hàm lượng photpho, tỷ số Fe +3/ Fe+2
luôn nhỏ hơn và biểu thị cho môi trường địa hố trầm tích khử hơn [2].
Bảng 3: So sánh một số đặc trưng địa hoá ở Estuary Bạch Đằng và VCS châu thổ sông
Hồng.
Yếu tố
(%)
Chc %
Ssunfua
P
N
Fe3+/Fe2+
Cl-(%0) Mùa mưa
Cl-(%0) Mùa khô

Ngập triều cao
Bãi triều lầy E Bãi bồi D
2,10
0,80
0,064
0,173
0,52
10,10
12,30

1,10
0,094
0,094

0,135
1,23
1,50
7,00

Ngập triều thấp
Bãi triều thấp E
Bãi triều thấp D
0,83

0,63

0,064
0,115
0,89
5,60
12,20

0,056
0,074
1,69
3,60
10,80

Như vậy về cả phương diện cơ học trầm tích và đặc điểm địa hố, tướng trầm tích bãi
triều đặc trưng cho Estuary Bạch Đằng rất khác tướng bãi bồi châu thổ ngập triều ven bờ
châu thổ sơng Hồng. Về phương diện địa hình và cảnh quan Estuary Bạch Đằng cũng khác
hẳn. Các bãi triều lầy rậm rạp thực vật ngập mặn tự nhiên, hệ lạch triều, kênh triều dày đặc,
các doi cát triều nằm dọc ven bờ luồng, các thềm mài mòn phát triển ở đới triều thấp trên
nền trầm tích bở rời.... là những dạng địa hình nguồn gốc triều đặc trưng, khơng gặp ở VCS

châu thổ sơng Hồng.
3. Dịng bồi tích di chuyển nội tại đóng vai trị chủ đạo.
ở các Estuary, bồi tích được cung cấp từ sơng, biển, nhưng dịng bồi tích di chuyển
nội tại đóng vai trị chủ đạo. Lượng bồi tích sơng cung cấp cho VCS Bạch Đằng khoảng 4
triệu tấn/năm, chủ yếu từ sông Cấm. Phù sa các sông khác đưa ra không đáng kể. Một
lượng bồi tích đáng kể giải phóng từ q trình xói lở bờ, bãi, tham gia vào q trình hồn
lưu bồi tích vùng cửa, ước tính khỏng 2 triệu tấn/ năm. Nguồn thứ ba, tham gia đưa bồi tích

4


vào hoàn lưu là khoảng trên dưới 5triệu tấn/năm bùn cát nạo vét từ luồng dổ ngay trong
phạm vi cửa sơng [21,23].
Hàm lượng trầm tích lơ lửng trong nước VCS Bạch Đằng biến thiên trong khoảng
rộng 10-1000g/m3. Khu luồng Cấm, cửa Nam Triệu-Lạch Tray có độ đục lớn nhất, khu
Lạch Huyện-Yên Lập có độ đục thấp. Vào mùa mưa, trầm tích lơ lửng khoảng 53-215g/m 3
lúc triều xuống, và khoảng 20-50g/m 3 lúc triều lên. Về mùa khơ, trầm tích lơ lửng khi triều
xuống đạt 42-92g/m3 và đạt 56-148g/m3 khi triều lên. Nguyên nhân là do sóng khuấy đục
đáy vùng bờ ngầm và dịng triều đưa trầm tích vào sâu cửa sơng . Chênh lệch trầm tích lơ
lửng gữa mặt và đáy khá lớn, thường 1,5-2 lần, cá biệt 5-8 lần(hình 2và 3).
Hồn lưu bồi tích VCS do dịng chảy triều chi phối . Bảng 4 cho thấy lượng bồi tích
do dịng triều đưa ngược sâu vào cửa sơng có giá trị đáng kể. Đặc biệt là khu Lạch Huyện,
về mùa khơ dịng bồi tích nguồn gốc sóng khuấy đáy đưa ngược vào phía trong ưu thế hơn
bồi tích đưa ra phía biển.
Bảng 4: Tương quan trầm tích lơ lửng di chuyển lên xuống trong một pha
triều(25h)
Trạm và sông
Cầu Rào
(S.Lạch Tray)
Cỗu Đá Bạch

(S.Đá Bạch)
Hùng Vương
(S. Cấm)
Nam Triệu (hạ lưu
sông Bạch Đằng)

Mùa
Mưa 91
Khô 92
Mưa 91
Khô 92
Mưa 91
Khô 92
Mưa 91
Khô 92

Lượng di chuyển
(tấn)
1.780
595
3.793
670
8.958
2.064
12.025
2.428

Triều đưa
lên(%)
69,1

100,0
48,3
83,6
24,5
39,2
27,8
48,3

Sông đưa
xuống(%)
30,9
0,0
51,7
16,4
75,5
60,8
72,2
51,7

ở vùng bờ ngầm cửa sông, hướng di chuyển dịng bồi tích cũng phụ thuộc vào dịng
chảy triều. Dịng bồi tích dọc bờ di chuyển do sóng có giá trị khơng lớn và thường chỉ có ý
nghĩa khi cộng hưởng với dòng di chuyển do triều. Dòng bồi tích di chuyển dọc bờ có
hướng chủ đạo là đơng tây ( bờ Phù Long, Cát Hải ) và bắc nam ( phía ngồi Đường 14 ).
ở VCS hình phễu, lực Coriolit có vai trị đáng kể tham gia định hướng dịng bồi tích
[11]. Do lực này, dịng chảy và dịng bồi tích khi triều chảy lên lệch về phía bờ trái của
luồng, khi chảy xuống lệch về phía phải luồng. Kết quả là các doi cát triều lên phát triển ở
bờ tráicửa luồng Lạch Huyện và Nam Triệu, còn doi cát triều xuống phát triển ở bờ phải.
4. Một vực nước lợ mặn, hồ trộn nước sơng, biển khá tốt và phân tầng yếu
Do tương quan lượng chảy triều - sông và năng lượng xáo trộn của thuỷ triều, VCS
Bạch Đằng là một vực nước lợ mặn có độ mặn thay đổi trong khoảng 0,5-32% 0(0,5-25%0

về mùa mưa, 0,5-32%0 về mùa khô). Độ mặn 0,5-20%0 đặc trưng cho khu cửa Cấm - Nam
Triệu. Độ mặn 10-23%0. Đặc trưng cho khu Lạch Huyện-Yên Lập [21, 22].
Mức độ phân tầng nước theo độ mặn nói chung khơng lớn, biến đổi theo khơng gian
và thời gian, trung bình dưới 3%0 ở phía ngoài cửa Nam Triệu (giữa tầng mặt và tầng đáy),
đạt đến 5%0 ở trên các đoạn sông Bạch Đằng, Đá Bạch, đến 10% 0 ở các đoạn Bạch Đằng
dưới kênh Đình Vũ và trên sơng Cấm (hình 2 và 3 ). ở các mặt cắt trên luồng có khi gặp

5


những khoảng thời gian độ mặn đồng nhất theo chiều thẳng đứng. Thời điểm xuất hiện hiện
tượng này thường là mực nước dao động lên hoặc xuống qua mực triều trung bình. Đây
cũng là khoảng thời gian xâm thực mạnh, bồi tụ yếu.
Khác với VCS châu thổ sơng Hồng có độ phân tầng cao và khi triều cường, khối
nước sông dồn vào đới triều cao, ở VCS Bạch Đằng có sự hoà trộn tốt và khi triều cường
khối nước triều mặn tràn vào đới triều cao. Vì vậy, ở VCS Bạch Đằng nước bùn ở bãi triều
lầy ngập cao có độ mặn cao hơn ở bãi triều thấp. Ngược lại, ở VCS châu thổ sông Hồng
nước bùn bãi bồi ngập triều cao có độ mặn thấp hơn bãi triều thấp (bảng 3). Cơ chế phân
tầng rất quan trọng đối với q trình tích tụ, bào mịn đáy. Phân tầng mạnh kèm theo bồi tụ
mạnh và ngược lại [11, 27].
5. Đang ở giai đoạn ngập chìm khơng đền bù trầm tích, biển lấn hiện đại.
Trong giai đoạn hiện nay (5-7 trăm năm qua) mực nước chân tĩnh tiếp tục nâng cao
xấp xỉ 1mm/năm và đạt 1-1,5mm/năm trrong thế kỷ qua. ở trung tâm VCS, phát triển một
graben đang sụt chìm tương đối mạnh [1], tốc độ đạt 0,2-0,8mm/năm. Ngay rìa graben này
là đới hạ lún yếu, tốc độ từ 0-2mm/năm. Trong khi đó tốc độ trầm tích là 0-6mm/năm trên
các bãi triều lầy, nhỏ hơn nhiều tốc độ ngập chìm tổng hợp. Trên các đới kiến trúc nâng, tốc
độ kiến tạo nâng 0-0,5mm/năm, tốc độ trầm tích 0-0,3mm/năm [21], vì vậy cũng xẩy ra
ngập chìm khơng đền bù trầm tích. Do phù sa sơng ít, xâm thực của thuỷ triều mạnh, nhiều
nơi đã khơng lăng đọng trầm tích và lộ ra lớp trầm tích đầm lầy cổ xám xanh. Như vậy,
ngập chìm khơng đền bù do thiếu hụt bồi tích xẩy ra trên toàn phạm vi VCS Bạch Đằng

hiện nay. Những nguyên nhân sau đây gây ra sự thiếu hụt bồi tích cho VCS. Thứ nhất,
khoảng 5-7 trăm năm trước bán đảo Đồ Sơn nối liền với đồng bằng vừa bồi lấn mở rộng ở
rìa tây nam VCS đã ngăn khơng cho bồi tích dọc bờ tây nam đi lên. Thứ hai, trong q trình
phát triển, nhiều nhánh nối ngang sơng Hồng với hệ thông sông Cầu -Bạch Đằng bị tàn làm
giảm nguồn bồi tích bổ sung từ sơng Hồng. Thứ ba, thuỷ triều lớn, dòng triều mạnh dần
lên đã tăng cường phân tán bồi tích lơ lửng ra khỏi VCS Bạch Đằng. Thứ tư, dòng chảy
tổng hợp ven bờ hướng thống trị TB-ĐN có xu hướng đưa bồi tích xuống phía tây nam, ít
đưa ngược lại, tạo cân bằng âm. Các nguyên nhân thứ nhất và thứ ba là quan trọng hơn.
Trong giai đoạn này, quá trình ngập chìm tăng cường do sự tham gia tăng tốc độ nâng chân
tĩnh, và quá trình sụt hạ kiến tạo mạnh lên ở các đới sụt hạ, quá trình nâng cao yếu đi ở các
đới kiến trúc nâng [21].
Xét tương quan bồi tụ, xói lở thấy rằng hiện nay ở VCS Bạch Đằng q trình xói lở
thống trị, trong đó ở phần trung tâm VCS q trình lún chìm kiến tạo có vai trị khống chế.
Tuy nhiên, biến động xói lở bồi tụ gần đây trở nên phức tạp do sự can thiệp sâu sắc của con
người. Có thể phân chia VCS Bạch Đằng thành hai khu vực là Lạch Huyện-Yên Lập và
Cửa Cấm - Nam Triệu. Trong nửa thế kỷ qua,ở khu vực 1, bãi triều lầy và bãi triều thấp liên
tục bị xói lở. Cịn ở khu vực 2, bồi tụ, xói lở biến động phức tạp theo khơng gian, thời gian.
Bãi triều thấp cả hai khu vực có xu hướng xói lở liên tục rõ hơn (bảng 5). ở bãi triều lầy
khu vực 2 cân bằng nghiêng về bồi tụ do những thay đổi đột biến sau đắp đê Đường 14 và
đắp đập Đình Vũ vào năm 1981.
Bảng 5 . Biến động diện tích vùng triều do bồi tụ, xói lở ở VCS Bạch
Đằng trong năm 1938-1992(m2)
Khu vực

Bãi triều lầy

Bãi triều thấp

6



Lạch Huyện-Yên Lập
Cấm-Nam Triệu
Cộng
Tổng cộng VCS
Trung bình

-12.896.600
+14.900.000
-7.339.100
+7.560.900
-5.335.700

-6.101.500
+2.467.800
-10.924.100
-8.456.300
-14.557.800

98.809m2/năm
(≈ 10ha/năm)

269.588m2/năm
(≈ 27ha/năm)

VCS trong nửa thế kỷ qua xói lở mất 37ha, bồi tụ 27ha bãi triều lầy và bãi biển, cân
bằng mỗi năm mất đi 10ha bãi triều lầy và bãi biển; mỗi năm xói lở mất 31ha, bồi tụ 4ha
bãi triều thấp và cân bằng một năm mất đi 27ha bãi triều thấp.
Đoạn bờ Đượng Gianh tuy ngắn nhưng chạy qua các kiến trúc nâng và hạ KTHĐ,
dịng bồi tích dọc bờ hướng đơng tây đi ngược vào phía trong. Bờ phân hố thành ba phần.

Phần phía đơng bồi tụ tạo bãi ổn định ở cung bờ lõm. Phần giữa bị xói lở mạnh tốc độ
5m/năm(1938-1992). ở đây đê cát trẻ bị đẩy lùi phủ lấp rừng ngập mặn. Vách xâm thực và
thềm mài mịn trên nền trầm tích bở rời phát triển rõ. Phần phía tây cuối dịng bồi tích được
bồi tụ tạo đê cát trẻ. Bãi triều thấp Đượng Gianh liên tục xói lở 24m/năm trong vịng 50
năm qua. Đoạn bờ Cát Hải nằm trên bồn trũng lún hạ tương đối mạnh. Bờ biển từ Hoà
Quang đến Hoàng Châu bị xói lở mạnh 4-8m/năm trong nửa thế kỷ qua cực đại 11m/năm,
có thời điểm đạt 25m/năm. Tốc độ xói lở bãi triều thấp 32m/năm [22].
Biển lấn không chỉ biểu hiện ở xói lở bờ mà cịn ở q trình bào mịn đáy. Mặc dù
có sự biến đổi phức tạp, song có thể thấy xu thế đường đẳng sâu 5m trong thời gian 19411990 lấn về phía lục địa ở phía đông bắc Đồ Sơn, thuộc cấu trúc Estuary. Trong khi đó,
đường này mở lấn ra phía biển tây nam Đồ Sơn, thuộc ven bờ châu thổ (hình 4). Biển lấn
hiện đại là đặc điểm cơ bản nhất của Estuary Bạch Đằng hiện nay, thể hiện sự thắng thế của
biển trong quan hệ tương tác sông-biển. Các hậu quả của biển lấn là xói lở ưu thế so với bồi
tụ, đường bờ bị đẩy lùi về phía lục địa và bị chia cắt phức tạp; mực nước trung bình thực tế
đang dâng cao, hiện tượng đầm lầy hoá, hiện tượng nhiễm mặn và truyền triều sâu vào lục
địa... và cả khu hệ động thực vật thích nghi điều kiện tự nhiên lợ mặn.
KẾT LUẬN
VCS Bạch Đằng có bản chất cấu trúc là một Estuary (cửa sơng hình phễu). Nó được
hình thành trên cơ sở tương tác giữa quá trình phát triển của một graben đang sụt chìm với
sự nâng cao của mực nước chân tĩnh, sự thiếu hụt bồi tích và thuỷ triều có biên độ lớn. Nó
được định vị ở vị trí rìa đơng bắc châu thổ sơng Hồng, nơi dịng bồi tích tổng hợp dọc bờ
hướng về phía tây nam. VCS Bạch Đằng là một vực có cấu trúc nửa kín. ở đây, thuỷ triều
là yếu tố động lực ngoại sinh ưu thế, quy định các đặc trưng về địa hình và trầm tích. Đó là
một vực nước lợ-mặn, hồ trộn nước sơng-biển khá tốt, phân tầng thuộc kiểu B theo phân
loại của Leeder [11]. Mặc dù lượng bồi tích sơng tham gia đáng kể nhưng dịng bồi tích di
chuyển nội tại đóng vai trị chủ đạo. Với cấu trúc phân tầng yếu, cân bằng bồi xói VCS
nghiêng về xói lở, xâm thực. Đây là trường hợp điển hình trên thế giới về một cửa sơng
hình phễu phát triển trong điều kiện nhật triều biên độ lớn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Cẩn và nnk, 1994. Hoạt động đứt gãy hiện đại vùng Hải Phịng-Quảng n.
Tài ngun và Mơi trường biển, tập II. Nxb KH&KT Hà Nội, tr.54-60.


7


2. Nguyễn Đức Cự, 1993. Đặc điểm địa hoá trầm tích bãi triều cửa sơng ven biển Hải
Phịng-Quảng n. Tóm tắt luận án PTS. ĐHTH Hà Nội trang 1-20.
3. Curray, J.R., 1969. Estuaries and lagoon, tidal flats and deltas. The new concepts of
continental margin sedimentation. Am. Geol. Ins. Washington, p.1-22.
4. Emery, K.O.,1967. Estuaries and lagoon in relation to continental selves. In ,
Estuaries. Pub. N083 AAAS, Washington D. C, p.9-14.
5. Guilcher, A.,1967. Origin of sediments in Estuaries. Estuaries. Pub N083, Washington
D. C, p.149-157.
6. Gurianova, E. F và Trần Hữu Phương, 1992. Vùng triều vịnh Bắc Bộ. trong "Khu hệ
động vật Vịnh Bắc Bộ và điều kiện môi trường sống". Nxb "Nauka" . Leningrad, trang
179-197.(Tiếng nga)
7. Nguyễn Chu Hồi và Nguyễn Hữu Cử, 1989. Vấn đề phân loại cửa sông trong nghiên
cứu sử dụng dải ven bờ bắc Việt Nam. Tài nguyên và Mơi trường biển. Tạp chí Hải
Qn số 6, (143), trang 45-46.
8. Khain, V.E.,1971. Địa kiến tạo đại cương. Nxb "Nheđra" Mascơva, trang 1-511.(Tiếng
nga)
9. Krasenhinnhikov, G. F., 1971. Học thuyết về tướng. Nxb "Vưxsaja Skola". Mascơva,
trang 1-493.(tiếng Nga)
10. Lafond, R., 1967. Etudes littorales et estuariennes en zone intertropicale humide.
Thesè de docteur des sciences naturalles. Univ. de Paris Tom I (416p), II (400p),
III(42p).
11. Leeder, M. P., 1984. Trầm tích học. Quá trình và sản phẩm. Nxb "Mir" Mascơva, trang
1-439(tiêng Nga).
12. Vũ Văn Phái. 1988. Hình thái các cửa sơng ven biển phía bắc. Khoa học
(địa lý ). Đại học Tổng hợp Hà Nội, N0 1, trang 31-34.
13. Phân vùng địa lý tự nhiên khu vực lãnh thổ Việt Nam, 1970. Uỷ ban Khoa học và Kỹ

thuật nhà nước. Nxb KH&KT Hà Nội, trang 1-209.
14. Pritchard, D.W., 1967. What is an Estuary? Estuaries Pub. n0 83. AAAS. Washington
D. C, p. 149-157.
15. Roy, P. S., 1984. New South Wales Estuaries: their origin and evolution. Coastal
geomorphology in Austrailia. Acad. Press. p. 99-121.
16. Russel, R.J., 1967. Oringin of estuaries. Estuaries Pub. N083. AAAS. Washington D. C.
p. 93- 99.
17. Trần Đức Thạnh và nnk, 1993. Hệ thống vùng cửa sơng ở ven bờ Hải Phịng-Quảng
n. Hội nghị " Sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ mơi trường" Hà Nội 11/1983. Tóm
tắt báo cáo.
18. Trần Đức Thạnh, 1987. Vùng cửa sông Bạch Đằng. Nghiên cứu lịch sử Hải Phòng.
N02 trang 33-41.
19. Trần Đức Thạnh, 1991. Đặc điểm các bồn tích tụ hiện đại tiêu biểu ở dải ven bờ tây
vịnh Bắc Bộ. Tài nguyên và Môi trường biển. Nxb. KH&KT Hà Nội, trang 39-47.
20. Tran Duc Thanh et al., 1992. Curent status and cause of erosion in Cat Hai island of
Haiphong. Pro. Regional. on Env. Geology, Hanoi, p. 214-219.
21. Trần Đức Thạnh, 1993. Tiến hoá địa chất vùng cửa sơng Bạch Đằng trong Holoxen.
Tóm tắt luận án PTS. ĐHTH Hà Nội, trang1-24.
22. Trần Đức Thạnh, Nguyễn Đức Cự, Nguyễn Chu Hồi và nnk, 1993. Môi trường địa
chất ven bờ Hải Phòng. Lưu trữ tại Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng.

8


23. Tran Duc Thanh, 1995. Coastal morphological changes concerning the management
of coastal zone in Vietnam. Pro. Conference on coastal change.
IOC/UNESCO/Bordomer, p.451-462.
24. Lê Bá Thảo, 1990. Thiên nhiên Việt Nam. Nxb. KH&KT Hà Nội, trang 1-348.
25. Nguyễn Ngọc Thuỵ, 1984. Thuỷ triều vùng biển Việt Nam. Nxb. KH&KT Hà Nội,
trang 1-263.

26. Xamoilov, I. B., 1952. Các vùng cửa sông. Nxb. "Geographyz", Mascơva, trang 1-526.
(tiếng Nga).
27. Xaphianov, G. A., 1987. Vùng cửa sơng hình phễu. Nxb. "Mưsli" Mascơva, trang 1188. (tiếng Nga).
SUMMARY
STRUCTURE NATURE OF BACH DANG ESTUARY
Tran Duc Thanh, Nguyen Can and Dang Duc Nga
The Bach Dang Estuary is located in the northeast of Red River Delta where the
total longshore drift is directed southwestward. It developes on the base of a tectonic valley
of which the centre part is a modern graben sunk rather strongly during Holocene. It is a
semiclosed coastal water body, where the tide is a dominant dynamic factor and regulates
the aspects of morphology and sedimentology. The Bach Dang Estuary where river and
marine water is mixed rather well and water mass is stratified relatively weakly in a range
of brackish- saline water. Although sediments supplied from river is significant, the
sedimentary process in estuary is controlled by the internal sedimentary circulation. In the
condition of subsidence without sedimentary compensation and high tide, the sea has being
ingressed and the coastal erosion has being dominated. It is an estuary typical for the
coastal zone with the diurnal tide of large range.

9



×