Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa ngữ văn…

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.83 KB, 91 trang )

Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…

Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên
khoa Ngữ văn
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
1
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học Trung Quốc là nền văn học lớn trên thế giới với nhiều thành
tựu rực rỡ như Thi Kinh, thơ Đường, tiểu thuyết cổ điển Minh - Thanh Nó
có sức sống lâu bền, tầm ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc ở nhiều nơi trên thế
giới, trong đó có Việt Nam - nước gần gũi với Trung Quốc không chỉ về mặt
địa lý mà còn về văn hóa. Ở Việt Nam, các tác phẩm văn học Trung Quốc
được tiếp nhận bởi khá nhiều tầng lớp người đọc khác nhau với những kinh
nghiệm tiếp nhận khác nhau, mục đích khác nhau. Việc nghiên cứu sự tiếp
nhận này có một ý nghĩa quan trọng. Nghiên cứu không chỉ để khẳng định
người đọc mà quan trọng là để khẳng định giá trị bản thân văn học. Bởi vì
“chính cuộc sống lịch sử lâu dài của văn học cho ta thấy được những vấn đề
về bản chất, đặc trưng, chức năng, cấu trúc giá trị của văn học mà lý luận từ
phía sáng tác không giải thích được”
1
.
Bản thân các tác phẩm văn học Trung Quốc không nằm ngoài sự
khẳng định của lý thuyết tiếp nhận: “… văn học dĩ nhiên không tự nó sống
được. Chính nhu cầu của người đọc, khả năng phát hiện, sáng tạo của nó đã
làm cho các tác phẩm nghệ thuật có tầm cỡ trở nên bất hủ”
2
. Ở đây, chúng
1


Trần Đình Sử, Mấy vấn đề lý luận tiếp nhận văn học - in trong Văn học nghệ thuật và
sự tiếp nhận, Nguyễn Văn Dân (chủ biên), Viện thông tin KHXH, Hà Nội, 1991.
2
Như trên.
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
2
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
tôi muốn nghiên cứu giá trị của các tác phẩm văn học này thông qua nhu cầu,
sự phát hiện sáng tạo của một đối tượng độc giả đặc biệt: các sinh viên (và cả
các giảng viên) khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là khoa
Văn học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn). Như chúng ta đã
biết, nơi đây là một trung tâm nghiên cứu và đào tạo văn học có uy tín và
chất lượng cao. Các thế hệ thầy trò của khoa đã có được nhiều thành tựu
đáng ghi nhận trong việc nghiên cứu văn học nói chung và nghiên cứu văn
học Trung Quốc nói riêng. Trong thời kỳ trước năm 2000, việc nghiên cứu
văn học Trung Quốc ở khoa Ngữ văn có nhiều kết quả đáng chú ý với những
điểm khác biệt so với thời kỳ sau này (thể hiện rất rõ ở các khóa luận tốt
nghiệp của sinh viên). Sự khác biệt này một mặt do điều kiện nghiên cứu,
mặt khác đây là thời kỳ mà nhiều nhà khoa học nổi tiếng đã tham gia công
tác giảng dạy ở khoa và hướng dẫn sinh viên làm Khóa luận như các thầy Lê
Huy Tiêu, Nguyễn Liên, Lê Đức Niệm… Có thể nói, các khóa luận tốt
nghiệp của sinh viên khoa Ngữ văn thời kỳ này thể hiện một diện mạo đặc
biệt của việc nghiên cứu văn học Trung Quốc ở một trung tâm đào tạo -
nghiên cứu văn học của Việt Nam. Tìm hiểu các khóa luận này, ta sẽ thấy
nhiều nét khác so với các công trình nghiên cứu đã được công bố rộng rãi
trên các sách báo, tạp chí…
Với những điểm đã trình bày ở trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu văn học Trung Quốc trong khóa luận tốt nghiệp
1
của sinh

viên khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (1966 - 2000)” (từ
đây xin gọi tắt là KLTN) với mong muốn bước đầu nhìn lại và khẳng định
thành quả nghiên cứu của những người đi trước. Không chỉ có vậy, như đã
1
Gọi theo cách dùng hiện nay của khoa Văn học - Trường ĐHKHXH &NV Hà Nội: Từ
1966 -1997: Công trình nghiên cứu của sinh viên tốt nghiệp ra trường được gọi là luận
văn tốt nghiệp, báo cáo của sinh viên khi kết thúc năm học (năm thứ 3) gọi là khóa luận.
Từ 1997 đến nay: Công trình nghiên cứu của sinh viên khi tốt nghiệp ra trường gọi là
khóa luận tốt nghiệp, báo cáo của sinh viên năm thứ 3 gọi là niên luận.
Trong khóa luận này chúng tôi dung KLTN để chỉ chung luận văn tốt nghiệp trước đây
và khóa luận tốt nghiệp hiện nay.
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
3
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
nói, việc nghiên cứu này sẽ cho thấy được nhiều điều về giá trị của các tác
phẩm văn học Trung Quốc thông qua sự tiếp nhận của một đối tượng đặc
biệt ở Việt Nam và nhiều điều về bản thân và thời đại của các đối tượng độc
giả này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trước đến nay, ở Việt Nam đã có rất nhiều các công trình nghiên
cứu, tìm hiểu văn học Trung Quốc với hàng trăm cuốn sách nghiên cứu, giáo
trình, các bài báo khoa học… Cùng với đó là khá nhiều công trình nghiên
cứu về việc tiếp nhận văn học Trung Quốc ở Việt Nam với những phạm vi
khác nhau như nghiên cứu trong giới học thuật, nghiên cứu trong nhà trường
phổ thông… Riêng việc nghiên cứu văn học Trung Quốc qua sự tiếp nhận
của đối tượng là các sinh viên văn học thì chưa được chú ý. Cụ thể, về việc
nghiên cứu văn học Trung Quốc qua các KLTN tại khoa Ngữ văn trường ĐH
Tổng hợp mới chỉ có một báo cáo khoa học sinh viên với đề tài: “Khóa luận
nghiên cứu văn học Trung Quốc của sinh viên khoa Ngữ văn, ĐH Tổng
hợp Hà Nội (1966 - 2000) - nhìn từ góc độ tiếp nhận” (Nguyễn Thị Kim

Hằng - Văn CLC K52). Trong báo cáo này tác giả mới chỉ thống kê, phân
loại đề tài khóa luận và đưa ra những nhận xét ban đầu mà chưa có sự lý giải
cụ thể các hiện tượng tiếp nhận, cũng như nghiên cứu về các “độc giả” trong
khóa luận.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi mở rộng và đi sâu hơn vấn đề nghiên
cứu trong báo cáo khoa học ở trên, vận dụng lý thuyết mỹ học tiếp nhận để
nghiên cứu nhằm đưa ra những kết luận, lý giải cụ thể hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với mục đích như sau:
Thứ nhất, tổng hợp lại kết quả nghiên cứu của các khoá luận nghiên
cứu về văn học Trung Quốc của sinh viên khoa Ngữ văn trường ĐH Tổng
hợp Hà Nội, góp phần làm cơ sở tư liệu cho các đề tài nghiên cứu sau này.
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
4
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
Thứ hai, tìm hiểu để thấy được những đặc điểm cơ bản trong cách tiếp
nhận văn học Trung Quốc của một thế hệ sinh viên và giảng viên (những
người hướng dẫn) khoa Ngữ văn trường ĐH Tổng hợp trước đây (khoa Văn
học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn hiện nay) và lý giải các
đặc điểm đó dưới góc độ mỹ học tiếp nhận.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các khóa luận tốt nghiệp của sinh
viên khoa Ngữ văn ĐHTH Hà Nội từ năm 1966 đến năm 2000 đã được vào
sổ và lưu giữ tại thư viện khoa Văn học trường ĐH KHXH&NV Hà Nội (Số
liệu thống kê trong sổ lưu giữ là 103 KLTN).
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận chung
Đề tài được tiến hành với sự chỉ dẫn phương pháp lý luận của văn học
so sánh, mỹ học tiếp nhận, xã hội học văn học, văn hoá học. Trong đó:
- Văn học so sánh (nhìn ở góc độ một ngành khoa học): Cung cấp

phương tiện lý luận để nghiên cứu nội dung các khoá luận.
- Mỹ học tiếp nhận: cung cấp phương tiện lý luận để tìm hiểu nội
dung và cả các yếu tố ngoài nội dung của các khoá luận, từ đó rút ra các đặc
điểm của “độc giả” trong các khoá luận để xác lập “phông tiếp nhận” và
“tầm đón nhận” của các tác giả khoá luận.
- Xã hội học văn học: Cung cấp phương tiện lý luận để thực hiện các
nghiên cứu xã hội học về độc giả, hỗ trợ thêm cho lý luận mỹ học tiếp nhận.
- Văn hoá học: Cung cấp phương tiện lý luận để thực hiện các nghiên
cứu về bối cảnh văn hoá Việt Nam lúc bấy giờ và tri thức văn hoá của các
tác giả khoá luận, hỗ trợ thêm cho lý luận mỹ học tiếp nhận.
5.2. Các phương pháp cụ thể
Với sự chỉ dẫn của hệ thống phương pháp luận nghiên cứu ở trên, chúng
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với bằng các phương pháp cụ thể như sau:
- Thống kê, phân loại và mô tả
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
5
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
- So sánh văn học
- Phương pháp hệ thống
- Phân tích và tổng hợp
6. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung nghiên cứu của đề tài được
triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Bức tranh văn học Trung Quốc trong KLTN
Nội dung chương này trả lời câu hỏi: “Độc giả” Việt Nam (người
hướng dẫn và các tác giả KLTN) tiếp nhận những gì từ văn học Trung Quốc
(có đối sánh với toàn cảnh văn học Trung Quốc).
Trong chương này chúng tôi thống kê, phân loại đề tài khóa luận, trên
cơ sở đó mô tả (theo trục đồng đại và lịch đại) quá trình các KLTN nghiên
cứu về các tác giả - tác phẩm văn học Trung Quốc. Qua việc nhận diện và

chỉ ra các hiện tượng tiếp nhận, chúng tôi trả lời câu hỏi: Tại sao “độc giả”
Việt Nam chỉ tiếp nhận những tác giả - tác phẩm này?
Chương 2: Quá trình đọc và phát hiện nghĩa tác phẩm văn học
Trung Quốc trong KLTN
Trong chương này, chúng tôi triển khai mô tả việc các tác giả KLTN
đọc và tìm tòi, phát hiện nghĩa các tác phẩm văn học Trung Quốc, trả lời câu
hỏi: Họ đã đọc tác phẩm văn học Trung Quốc như thế nào?
Chương 3: “Độc giả” văn học Trung Quốc trong KLTN
Trong chương này, chúng tôi thực hiện những nghiên cứu xã hội học
về độc giả (các tác giả KLTN và người hướng dẫn - liên độc giả), chỉ rõ
những đặc điểm của độc giả và bối cảnh thời đại; qua đó xác lập “phông tiếp
nhận” và “tầm đón nhận” của độc giả.

Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
6
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
Việc nghiên cứu thực hiện ở 3 khía cạnh:
- Cách chọn đề tài khóa luận
- Phương pháp nghiên cứu
- Tài liệu tham khảo
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
BỨC TRANH VĂN HỌC TRUNG QUỐC TRONG KLTN
1.1. Thống kê, phân loại đề tài KLTN
Theo khảo sát của chúng tôi, số lượng khóa luận nghiên cứu về văn
học Trung Quốc từ 1966 đến 2000 được vào sổ lưu giữ tại thư viện khoa Văn
học (Trường ĐHKHXH & NV Hà Nội) là 97 khóa luận. Trên thực tế, do
nhiều lý do khách quan, các khóa luận còn được lưu giữ không đầy đủ về số
lượng như đã vào sổ, nhưng sự thiếu sót này cũng không ảnh hưởng nhiều
đến việc nhận diện bức tranh văn học Trung Quốc trong các KLTN. Ở đây

chúng tôi tiến hành việc nhận diện bức tranh văn học Trung Quốc qua thống
kê, phân loại các đề tài trên sổ lưu giữ. Do 97 khóa luận này được viết theo
những đề tài khác nhau về các vấn đề lý luận văn học, văn học sử, tiếp nhận
văn học… nên có thể được phân loại theo nhiều cách với những cơ sở, tiêu
chí khác nhau. Trong khóa luận này, để tiện theo dõi, chúng tôi lựa chọn
phân loại các đề tài KLTN thành 2 nhóm là nhóm đề tài về tác giả - tác phẩm
và nhóm đề tài về lý luận - dịch thuật - tiếp nhận. Với mỗi nhóm, chúng tôi
thống kê tần số xuất hiện của các đề tài, từ đó nhận diện những nét chính về
bức tranh văn học Trung Quốc trong KLTN.
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
7
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
Chúng tôi xin lưu ý rằng việc phân loại này chỉ là tương đối. Có một
số đề tài có thể được xếp vào cả 2 nhóm ở trên, ví dụ như đề tài TQ 21: “Sơ
lược tổng kết những ý kiến khác nhau trong việc đánh giá cuốn Hồng lâu
mộng ở Trung Quốc từ trước đến nay”. Ngoài ra, trong nhóm đề tài tác giả -
tác phẩm, có đề tài có thể xuất hiện 2-3 lần. Ví dụ như đề tài TQ 86: “Tìm
hiểu nghệ thuật xây dưng nhân vật anh hùng trong Tam quốc diễn nghĩa,
Thủy Hử và Tây du ký” được chúng tôi đưa vào đề tài về tác phẩm Tam
quốc diễn nghĩa, Thủy hử và Tây du ký.
1.1.1. Nhóm đề tài KLTN về tác giả - tác phẩm
Bảng 1. Các đề tài KLTN về tác giả - tác phẩm VHTQ
(Thống kê theo số lượt xuất hiện trong tên đề tài của 97 KLTN)
Thời kỳ Tác giả - tác phẩm Số lượng
KL
Tỉ lệ
Văn học
Tiên Tần
(1 KL ≈ 1,03%)
1. Kinh Thi (TQ 62) 1 1,03%

Văn học
đời Đường
(24 KL≈24,74%)
1. Lý Bạch (TQ 66,70,82,99,122,
153)
6 6,19%
2. Đỗ Phủ (TQ 45,49,66,70,73,76,
77,81,82,83,99,110,122,141,143,132,
153)
17 17,53%
3. Bạch Cư Dị (TQ 38, 130, 138,
152)
4 4,12%
4. Thơ Đường (nói chung) (TQ 67,
69)
2 2,06%
Văn học
đời Minh
1. Thủy hử (TQ 57, 75, 86, 139) 4 4,12%
2. Tam quốc diễn nghĩa (TQ 72,80,
86, 91, 127, 131, 155)
9 9,3%
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
8
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
(12 KL≈12,37%) 3. Tây du ký (TQ 86) 1 1,03%
4. Tiểu thuyết cổ điển (nói chung)
(TQ 44, 65)
2 2,06%
Văn học

đời Thanh
(3KL≈ 3,09%)
1. Liêu trai chí dị (TQ 142) 1 1,03%
2. Nho lâm ngoại sử (TQ 133, 151) 2 2,06%
3. Hồng lâu mộng (TQ 21,68, 74, 98,
101,102,103,119,123,124,125,126,
144, 150)
14 14,43%
Văn học
hiện đại
(23KL ≈23,7%)
1. Lỗ Tấn (TQ 32, 47,71,78,90,93,
107, 108, 118,128,129,136)
12 12,37%
2. Kịch hiện đại (TQ 31, 34, 94, 95) 4 4,12%
3. Tiểu thuyết hiện đại
(tiêu biểu là Đá đỏ, Sáng nghiệp sử,
Một nửa đàn ông là đàn bà)
(TQ 33, 46, 50, 64, 96,104,109)
8 8,25%
Nhận xét: Qua bảng thống kê trên ta thấy:
 Các đề tài KLTN chỉ tập trung vào một số tác giả - tác phẩm
văn học Trung Quốc nhất định, nói cách khác là số lượng tác giả và các tác
phẩm / nhóm tác phẩm được nghiên cứu trong các KLTN là không nhiều.
Đặc biệt, so với một nền văn học đồ sộ, lâu đời như văn học Trung Quốc thì
số tác giả - tác phẩm xuất hiện ở đây là rất ít. Cụ thể:
- Về các thời kì văn học: Các KLTN mới chỉ nghiên cứu một số đối
tượng thuộc các thời kì văn học: Văn học Tiên Tần, văn học đời Đường, văn
học đời Minh, văn học đời Thanh và văn học hiện đại. Có thể nhận thấy đây
đều là những thời kì tiêu biểu trên con đường phát triển của văn học Trung

Quốc, những giai đoạn mà văn học Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu
nhất. Thời Tiên Tần có Thi Kinh, Sở từ; thời Đường có Đường thi; thời Minh
- Thanh có tiểu thuyết cổ điển với tứ đại danh tác Tam quốc diễn nghĩa,
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
9
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
Thủy hử, Tây du ký, Hồng lâu mộng; thời hiện đại có kịch, tiểu thuyết với
nhiều nét mới mẻ, hấp dẫn. Nghiên cứu văn học Trung Quốc tất nhiên phải
nghiên cứu các thời kì này. Nhưng văn học Trung Quốc không phải chỉ có
những thời kì này đáng nghiên cứu, còn những thời kì khác cũng có nhiều
thành tựu mà các KLTN chưa đề cập tới.
- Về tác giả: Các KLTN trên chỉ tập trung nghiên cứu một số tác giả
là Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Lỗ Tấn - những tác giả tiêu biểu nhất của
các thời kì văn học kể trên.
- Về tác phẩm: Các tác phẩm văn học Trung Quốc được nghiên cứu
trong các KLTN cũng không phong phú. Chủ yếu là những tác phẩm của các
tác giả nói trên: thơ Đỗ Phủ, Lý Bạch (những KLTN nghiên cứu thơ Đường
cũng chủ yếu là nghiên cứu thơ Đỗ Phủ, Lý Bạch). Với nhóm tác phẩm tiểu
thuyết cổ điển cũng chỉ có “tứ đại danh tác” Thủy hử, Tam quốc diễn nghĩa,
Tây du ký, Hồng lâu mộng. Về tác phẩm văn học hiện đại: tiểu thuyết có AQ
chính truyện và các tập truyện khác của Lỗ Tấn như Gào thét, Bàng hoàng,
có Sáng nghiệp sử (Liễu Thanh), Đá đỏ (La Quảng Bân, Dương Ích Ngôn),
Một nửa đàn ông là đàn bà (Trương Hiền Lượng); kịch có một số vở trước
1949 như Lôi Vũ (Tào Ngu), Khuất Nguyên (Quách Mạt Nhược) của những
năm 60 như Sau khi được mùa (Lam Trừng), Mùa xuân thứ hai (Lưu
Xuyên), Đứng gác dưới ánh đèn nê ông (Thẩm Tây Nông và Mạc Nhạn), …
Trừ một số tác phẩm tiểu thuyết và kịch hiện đại là khá mới với các sinh viên
làm KLTN lúc bấy giờ, các tác phẩm còn lại đều là tác phẩm nổi tiếng rất
quen thuộc với người Việt Nam qua nhiều thế hệ.
 Với một số ít tác giả - tác phẩm của một vài thời kỳ văn học đã kể,

sự phân bố xuất hiện trong đề tài khóa luận cũng không đồng đều:
- Về thời kì văn học: Trong số các thời kì văn học mà các KLTN chú
ý nghiên cứu, thời kì mà nhiều đề tài KL hướng đến nhất là văn học đời
Đường (24 KL chiếm 24,74%), văn học hiện đại (23 KL chiếm 23,7%). Thời
kì có ít tác phẩm được nghiên cứu nhất là văn học Tiên Tần (chỉ có 1KL
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
10
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
chiếm 1,03%). Quan sát cụ thể hơn, ta thấy các thể loại văn học được nghiên
cứu ở mỗi thời kì là rất ít. Văn học thời Đường chỉ có các tác phẩm, tác giả
thơ được nghiên cứu. Thời Minh - Thanh thì chỉ có các tiểu thuyết xuất hiện
trong các đề tài KLTN. Thời kì hiện đại, mặc dù đời sống văn học Trung
Quốc phát triển mạnh mẽ vớ nhiều thể loại, song chỉ có kịch hiện đại và tiểu
thuyết được các tác giả KLTN chú ý.
- Về tác giả văn học: Trong số các tác giả văn học Trung Quốc được
nghiên cứu trong KLTN, tác giả được quan tâm nhiều nhất là Đỗ Phủ (17 KL
chiếm 17,53%), tiếp đến là Lỗ Tấn (12 KL chiếm 12,37%). Lý Bạch và Đỗ
Phủ được nghiên cứu tương đối ít ( 6 và 4 KL trong 97 KL). Đối với những
tác giả này, các KLTN chủ yếu tìm hiểu phong cách sáng tác, tư tưởng, tình
cảm của họ thể hiện qua các tác phẩm.
- Về tác phẩm văn học: Các tác phẩm văn học cổ điển được nghiên
cứu nhiều hơn cả. Trong đó, nổi bật nhất là các KLTN nghiên cứu về tiểu
thuyết Hồng lâu mộng (14 KL chiếm 14,43%), tiếp đến là Tam quốc diễn
nghĩa (9 KL chiếm 9,3%). Các tác phẩm cổ điển khác như Tây du ký, Liêu
trai chí dị, Nho lâm ngoại sử lại ít được chú ý (chỉ có 1 -2 KL). Với các tác
phẩm văn học hiện đại thì các đề tài KL phân bố đồng đều hơn, không có tác
phẩm nào thực sự nổi bật. Chỉ có các tập truyện Gào thét và Bàng hoàng của
Lỗ Tấn xuất hiện tương đối nhiều trong các đề tài nghiên cứu về tác giả này
(đã xét ở trên). Bên cạnh đó, các tiểu thuyết Đá đỏ, Sáng nghiệp sử, Một nửa
đàn ông là đàn bà đều ngang nhau về tần số xuất hiện trong các KLTN (2 -3

KL đối với mỗi tác phẩm).
Như vậy, ở nhóm đề tài về tác giả - tác phẩm này, ta nhận thấy các
KLTN đều đã chú ý đến những tác giả - tác phẩm tiêu biểu nhất, những
thành tựu có thể coi là nổi bật nhất của văn học Trung Quốc. Tuy nhiên, số
lượng tác giả - tác phẩm (của một vài thời kì văn học nhất định) xuất hiện
trong các KL không phải là nhiều và tần số xuất hiện cũng không đồng đều.
Ngoài ra, nếu theo dõi kỹ bảng thống kê chi tiết các đề tài (xem phần phụ
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
11
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
lục), ta còn nhận thấy việc nghiên cứu các tác giả - tác phẩm văn học Trung
Quốc trong KLTN có những điểm tập trung nhất định. Ví dụ như năm 1976
-1980 có nhiều KLTN nghiên cứu về Đỗ Phủ, năm 1995 có đến ¾ KLTN
nghiên cứu về bộ tiểu thuyết Hồng lâu mộng.
1.1.2. Nhóm đề tài về lý luận - dịch thuật - tiếp nhận.
Bảng 2. Các đề tài KLTN về lý luận - dịch thuật - tiếp nhận VHTQ
Nhóm Đề tài Số
lượng
Tỉ lệ
Mã số Tên đề tài

luận
TQ 79 Bước đầu tìm hiểu những nguyên lí văn
học cơ bản do Bạch Cư Dị đề xướng
2 2,06%
TQ 85 Bước đầu phê phán quan điểm văn nghệ
của chủ nghĩa Mao trong những năm 1942
- 1969
Dịch
thuật -

tiếp
nhận
TQ 21 Sơ lược tổng kết những ý kiến khác nhau
trong việc đánh giá cuốn Hồng lâu mộng
ở Trung Quốc từ trước đến nay
17 17,
53%
TQ 48 Tìm hiểu việc dịch thuật và nghiên cứu
Đường thi ở Việt Nam trước cách mạng
tháng Tám
TQ 54 Vấn đề thừa kế di sản thơ Đường và sáng
tạo cái mới qua Truyện Kiều của Nguyễn
Du
TQ 84 Tình hình nghiên cứu Lỗ Tấn ở Việt Nam
TQ 105 Tình hình giới thiệu, nghiên cứu và phiên
dịch thơ ca Trung Quốc ở Việt Nam từ
trước đến nay
TQ 111 Tình hình dịch thuật và nghiên cứu tiểu
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
12
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
thuyết cổ điển Trung Quốc ở Việt Nam
thời kì trước 1945
TQ 112 Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của thơ
Đường với tác phẩm Chinh phụ ngâm
khúc của Đặng Trần Côn
TQ 113 Dịch thuật, giới thiệu và nghiên cứu tiểu
thuyết cổ điển Trung Quốc ở Việt Nam từ
1945 -nay
TQ 114 Thơ Đường và thơ Mới

TQ 115 Thơ Đường trong sáng tác của Nguyễn
Du
TQ 117 Tìm hiểu thơ Bác Hồ với thơ Đường
TQ 120 Nguyễn Du với tinh hoa cổ điển Trung
Quốc
TQ 135 Ảnh hưởng của thơ Đường đến Chinh
phụ ngâm của Đặng Trần Côn
TQ 137 Nguyễn Trãi với thơ Đường
TQ 154 Sự tiếp biến thể loại thơ Đường của Bác
Hồ trong “Nhật kí trong tù”
TQ 156 Sự tiếp biến điển cố văn học Trung Quốc
qua Truyện Kiều - Nguyễn Du
TQ 140 Nguyễn Du với tinh hoa thơ cổ điển
Trung Quốc
Nhận xét:
 Trong tổng số 97 KLTN được khảo sát, chỉ có 2 KL nghiên cứu về
mảng lý luận văn học của văn học Trung Quốc. Trong đó có 1 KL nghiên
cứu về lý luận văn học cổ điển và 1 KL nghiên cứu về lý luận văn học hiện
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
13
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
đại. Con số này so với tổng số 97 KLTN là rất ít, chứng tỏ vấn đề này vẫn
chưa được các tác giả KLTN chú ý lắm.
 Số lượng KL thuộc mảng dịch thuật - tiếp nhận các tác giả - tác
phẩm văn học Trung Quốc là tương đối nhiều: 17 trên 97 KL (chiếm
17,53%). Đáng lưu ý là ở mảng dịch thuật - tiếp nhận này, các KLTN cũng
chủ yếu chỉ chú ý đến việc dịch thuật - tiếp nhận một vài tác giả nhất định
như Lỗ Tấn, Đỗ Phủ, một vài tác phẩm/ nhóm tác phẩm như thơ Đường, tiểu
thuyết cổ điển. Đặc biệt, các KLTN nghiên cứu về dịch thuật - tiếp nhận thơ
Đường ở Việt Nam là nhiều nhất (9 trong số 17 KL ở mảng này). Có thể nói,

cũng giống như ở nhóm đề tài về tác giả - tác phẩm ở trên, các đề tài KLTN
ở nhóm dịch thuật - tiếp nhận này cũng chỉ hướng đến những tác giả - tác
phẩm tiêu biểu nhất của văn học Trung Quốc. Điều này liên quan đến một
thực tế là những thành tựu văn học nổi bật nhất chính là những đối tượng
được tiếp nhận nhiều nhất. Chính ảnh hưởng sâu rộng của các tác giả - tác
phẩm văn học Trung Quốc đến các tác giả - tác phẩm văn học Việt Nam và
sự tiếp nhận nồng nhiệt của nhiều đối tượng độc giả Việt Nam là minh chứng
cho thành công của các tác giả - tác phẩm này.
Tiểu kết:
Qua phần thống kê - phân loại các KLTN nghiên cứu về văn học
Trung Quốc trên đây, chúng ta đã phần nào thấy được một cách bao quát về
bức tranh văn học Trung Quốc trong các KLTN của sinh viên khoa Văn
trường ĐH Tổng hợp Hà Nội trong những năm 1966 - 2000.
Bức tranh văn học Trung Quốc ở đây không thực sự đa dạng về đường
nét và màu sắc. Tuy các KLTN có nghiên cứu cả văn học cổ điển và hiện
đại, nhưng các thời kì văn học được nghiên cứu không nhiều, chỉ có một vài
thời kì nổi bật. Trong các thời kì này, các gương mặt tác giả, các tác phẩm
xuất hiện cũng không có sự phong phú, đa dạng. Chỉ có các tác gia nổi tiếng
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
14
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
như “thi thánh” Đỗ Phủ, “thi tiên” Lý Bạch, nhà văn được coi là “linh hồn
dân tộc” Lỗ Tấn; các tác phẩm được coi là tinh hoa văn học như thơ Đường,
tác phẩm kinh điển như Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng,… Đó là các
tác giả - tác phẩm mà người đọc Việt Nam rất quen thuộc, hơn nữa lại là
những kho tàng quý báu của văn học Trung Quốc mà bao nhiêu thế hệ đã
khám phá vẫn chưa đi hết được tận cùng. Đó là những đối tượng có sức hấp
dẫn đặc biệt đối với bất kỳ nhà nghiên cứu nào, và các tác giả KLTN cũng
không phải là ngoại lệ. Bên cạnh những đường nét hết sức quen thuộc như
vừa nêu, bức tranh văn học Trung Quốc trong KLTN còn có những nét vẽ,

những màu sắc khá mới mẻ (tất nhiên là đặt trong bối cảnh thời đại bấy giờ).
Đó là những vở kịch, những tiểu thuyết hiện đại mang hơi thở mới của thời
đại, cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa. Những KLTN nghiên cứu các tác phẩm
này đã mang lại những mảng màu tươi sáng cho bức tranh chung của văn
học Trung Quốc trong KLTN mà ta đang xét. Có những nét cổ điển, những
nét hiện đại nhiều màu sắc, bức tranh văn học Trung Quốc trong KLTN cũng
có một vài mảng tối, đó là những quan điểm văn nghệ đáng phê phán của
chủ nghĩa Mao trong những năm 1942 - 1969 đã được đề cập đến một cách
cụ thể trong một KLTN nghiên cứu về lý luận văn học Trung Quốc.
Có thể nói, bức tranh văn học Trung Quốc trong KLTN là bức tranh
có khá nhiều mảng trống với nhiều thành tựu của văn học Trung Quốc chưa
được chú ý đến. Tuy nhiên, đây là một bức tranh có những điểm nhấn quan
trọng, nói cách khác là nhìn toàn cảnh văn học Trung Quốc trong KLTN, ta
sẽ thấy nổi bật lên một số hiện tượng tiếp nhận đặc biệt trong việc tiếp nhận
văn học của các tác giả KLTN.
1.2 . Một số hiện tượng tiếp nhận trong cái nhìn đối sánh với toàn cảnh
văn học Trung Quốc.
1.2.1. Những mảng trống của bức tranh văn học trong KLTN
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
15
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
Như đã nhận xét ở trên, các KLTN mới chỉ chú ý nghiên cứu một số
thành tựu nổi bật nhất của văn học Trung Quốc ở một vài thời kì. Còn rất
nhiều thời kì văn học với những thành tựu quan trọng mà các KLTN chưa đề
cập tới.
Bảng 3. Những “mảng trống” của bức tranh VHTQ trong KLTN
1
Thời kì Thành tựu Tác giả - tác phẩm
tiêu biểu
Văn học

Tiên Tần
Thần thoại cổ đại
Thơ ca Tiên Tần
- Sở từ
- Ca dao ngạn ngữ cổ
- Khuất Nguyên: Ly tao,
Cửu ca…
Văn xuôi Tiên Tần: văn xuôi các
nhà, văn xuôi lịch sử
Ngụ ngôn Tiên Tần
Văn học
Tần Hán
Thơ ca đời Hán
Nhạc phủ lưỡng Hán
Hán phú Tư Mã Tương Như,
Dương Hùng, Ban Cố,
Trương Hoành…
Văn xuôi Tần Hán Sử ký
Lý luận phê bình văn học thời Hán
Văn học
Thơ ca Tam quốc Lưỡng Tấn
- Kiến An
- Chính Thủy
- Thái Khang
- Tào Tháo. Tào Thực,
Vương Xán, Thái Diễm
- Nguyễn Tịch, Kê
Khang
1
Thống kê dựa theo cuốn: Khái yếu lịch sử văn học Trung Quốc, tập thể 74 tác giả biên

soạn, Nxb Đại bách khoa toàn thư Trung Quốc, Người dịch: Bùi Hữu Hồng, Nxb Thế
giới, Hà Nội, 2000.
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
16
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
Tam quốc
Lưỡng Tấn
- Thời giao giữa Đông Tấn và Tây
Tấn
- Trương Hoa, Trương
Tải, Trương Hiệp, Lục
Cơ, Lục Vân…
- Lưu Côn, Quách
Nghiệp
Phú Tam quốc Lưỡng Tấn - Tào Thực, Hà Án,
Nguyễn Tịch, Kê
Khang, …
Văn xuôi TQLT
Lý luận phê bình TQLT
Văn học
Nam triều
Thơ ca Nam triều
Nhạc phủ Nam triều
Từ phú Nam triều - Giang Yêm
Văn Nam triều - Giang Yêm, Lưu
Tuấn, Từ Lăng
Văn học
Bắc triều
Thơ ca Bắc triều - Dương Hưu Chi, Lô
Tư Đạo, Dữu Tín,Vương

Bao
Nhạc phủ Bắc triều
Từ phú Bắc triều
Văn Bắc triều - Dữu Tín
Lý luận phê bình văn học Nam
Bắc triều
- Lưu Hiệp: Văn tâm
điêu long
Tiểu thuyết Hán Ngụy Lục triều
Văn học
Tùy Đường
Ngũ đại
Từ Đường Ngũ đại
Văn Tùy Đường ngũ đại
Truyền kì đời Đường
Văn học thông tục Đôn Hoàng đời
Đường
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
17
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
Văn học
đời Tống
(Bắc Tống,
Nam Tống)
Thơ ca đời Tống - Tô Thức, Lục Du,…
Từ đời Tống - Tô Thức, Tân Khí Tật,

Văn đời Tống - Âu Dương Tu, Tô
Thức…
Văn bút ký đời Tống

Chí quái và truyền kỳ đời Tống
Thoại bản
Lý luận phê bình văn học đời Tống - Mai Nghiêu Thần, Âu
Dương Tu, Vương An
Thạch, Tô Thức, Lục
Du…
Văn học
đời Kim
Chư cung điệu Tống Kim
Lý luận phê bình văn học đời Kim
Văn học
đời Nguyên
Thơ ca đời Nguyên
Từ đời Nguyên
Tản văn đời Nguyên
Tản khúc đời Nguyên
Tạp kịch đời Nguyên Quan Hán Khanh,
Vương Thực Phủ, …
Nam hý đời Nguyên
Tiểu thuyết đời Nguyên
Lý luận phê bình văn học đời
Nguyên
Văn học
Thơ ca đời Minh
Từ đời Minh
Tản văn đời Minh
Hý khúc đời Minh
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
18
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…

đời Minh Tản khúc đời Minh
Lý luận phê bình văn học đời
Minh
Văn học
đời Thanh
Thơ ca đời Thanh
Từ đời Thanh
Văn đời Thanh
Tản khúc đời Thanh
Truyền kỳ và tạp kịch đời Thanh
Lý luận phê bình văn học đời
Thanh
Văn học
cận đại
Thơ ca cận đại
Từ cận đại
Tản văn cận đại
Tiểu thuyết cận đại
Hý kịch cận đại
Lý luận phê bình văn học cận đại
Văn học
hiện đại
Thơ ca hiện đại - Quách Mạt Nhược,
Văn Nhất Đa, Ngải
Thanh…
Tản văn hiện đại - Băng Tâm, Chu Tự
Thanh
Qua bảng trên ta thấy văn học Trung Quốc có rất nhiều thành tựu mà
các KLTN mới chỉ nghiên cứu được một phần nhỏ trong số đó. Tất nhiên
đây là một bức tranh vô cùng đồ sộ mà chỉ với gần 100 KLTN khó có thể

phản ánh hết được. Những mảng trống này đã và đang được tiếp tục được
khám phá với các thế hệ sinh viên khoa Văn sau này.
1.2.2. Một số hiện tượng tiếp nhận văn học Trung Quốc trong các KLTN
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
19
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
Ở phần trên chúng tôi đã nhận xét các KL mà ta đang nghiên cứu có
sự tập trung vào một số tác giả - tác phẩm văn học nhất định. Đặt trong cái
nhìn toàn cảnh về văn học Trung Quốc, đó có thể coi là những hiện tượng
tiếp nhận tiêu biểu - tiếp nhận những gì nổi bật nhất, đáng chú ý nhất của
một nền văn học lớn. Qua khảo sát các đề tài KLTN, chúng tôi chọn ra một
số hiện tượng tiếp nhận tiêu biểu nhất trong các KLTN nghiên cứu về văn
học Trung Quốc:
- Thơ Đường (đặc biệt là tác gia Đỗ Phủ)
- Tiểu thuyết cổ điển Minh - Thanh (đặc biệt là Tam quốc chí diễn
nghĩa và Hồng lâu mộng)
- Tiểu thuyết hiện đại (đặc biệt là tác gia Lỗ Tấn)
- Kịch hiện đại
Ta có thể nhìn nhận một cách cụ thể các hiện tượng tiếp nhận này như
sau:
 Thơ Đường:
Thơ Đường là thành tựu duy nhất của văn học đời Đường được nghiên
cứu trong các KLTN. Với tổng số 33 KL (24 KL ở nhóm tác giả - tác phẩm
và 9 KL ở nhóm dịch thuật - tiếp nhận), thơ Đường là hiện tượng đáng chú ý
nhất trong việc tiếp nhận văn học Trung Quốc của các tác giả KLTN. Những
người viết KL (và những người hướng dẫn) đã chú ý tới một số nét chủ yếu
trong khi nghiên cứu về thơ Đường, đó là:
- Thơ Đỗ Phủ: Các KLTN nghiên cứu về nội dung thơ Đỗ Phủ (chủ
nghĩa nhân đạo, vấn đề trung vua yêu nước… ), nghệ thuật thơ Đỗ Phủ (thi
pháp, không gian và thời gian nghệ thuật, nghệ thuật miêu tả chiến tranh… ).

Bên cạnh đó, các tác giả KL cũng quan tâm đến ảnh hưởng của Đỗ Phủ với
các nhà thơ Việt Nam (TQ 45, 49).
- Thơ Lý Bạch: Trong các KLTN, thơ Lý Bạch ít được chú ý hơn so
với thơ Đỗ Phủ, tuy nhiên những KL nghiên cứu về thơ ông vẫn chiếm một
vị trí quan trọng trong hệ thống KLTN về văn học Trung Quốc mà ta đang
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
20
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
tìm hiểu. Thơ Lý Bạch chủ yếu được nghiên cứu về mặt nội dung: hình
tượng người phụ nữ, chiến tranh, chủ nghĩa nhân đạo, đề tài biệt li…
Ngoài ra thơ Bạch Cư Dị cũng được nghiên cứu riêng trong một số
khóa luận.
- Tiếp nhận thơ Đường ở Việt Nam: Đây là vấn đề được rất nhiều tác
giả KL quan tâm. Việc tiếp nhận thơ Đường ở Việt Nam có tới 9 KL nghiên
cứu. Những vấn đề được quan tâm cụ thể ở đây là ảnh hưởng của thơ Đường
với một số tác phẩm nổi tiếng của Việt Nam như Truyện Kiều, Chinh phụ
ngâm khúc; với các tác giả như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du; sự tiếp biến về thể
loại thơ Đường trong thơ trung đại, thơ Mới của Việt Nam, trong Nhật kí
trong tù…
Việc được quan tâm nghiên cứu nhiều như vậy trong các KLTN đã
chứng minh thêm cho giá trị to lớn, sức ảnh hưởng sâu rộng của thành tựu
được coi là đỉnh cao của thi ca cổ điển Trung Quốc này.
 Tiểu thuyết cổ điển Minh - Thanh:
Đây cũng là một hiện tượng tiếp nhận nổi bật với môt số lượng khóa
luận tương đối lớn. Các khóa luận này chủ yếu tập trung vào mấy bộ tiểu
thuyết: Tam quốc chí diễn nghĩa, Thủy hử, Hồng lâu mộng.
Tam quốc chí diễn nghĩa được đọc, khám phá ở nhiều khía cạnh: hình
tượng nhân vật Tào Tháo, nghệ thuật kết cấu, nghệ thuật tự sự, nghệ thuật
xây dựng tính cách nhân vật… Ngoài ra tác phẩm này còn được đọc trong sự
so sánh với Hoàng Lê nhất thống chí của Việt Nam (TQ 101).

Với Thủy hử, các tác giả KLTN quan tâm đến tính chất anh hùng, tư
tưởng chính thống, các anh hùng nông dân, nghệ thuật xây dựng nhân vật
của tác phẩm.
Tiểu thuyết đời Thanh Hồng lâu mộng thu hút khá nhiều tác giả
KLTN tìm hiểu ở nhiều bình diện: các nhân vật như Lâm Đại Ngọc, Tiết Bảo
Thoa, Vương Hi Phượng, hình tượng người phụ nữ nói chung, vấn đề tình
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
21
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
yêu, hôn nhân, gia đình trong tác phẩm; nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật,

Ngoài việc khám phá nội dung - nghệ thuật các tác phẩm trên, các
KLTN còn nghiên cứu đến việc dịch thuật - giới thiệu các tác phẩm tiểu
thuyết cố điển Minh - Thanh ở Việt Nam qua các giai đoạn trước và sau
1945 (KL TQ 111, 113).
 Tiểu thuyết hiện đại:
Các KLTN nghiên cứu tiểu thuyết hiện đại tập trung vào nghiên cứu
các tác phẩm của Lỗ Tấn với các tác phẩm tiêu biểu nhất là hai tập Gào thét,
Bàng hoàng và tác phẩm AQ chính truyện. Các nội dung được tác giả KLTN
quan tâm khám phá ở đây là tiếng cười Lỗ Tấn, phong cách Lỗ Tấn, cái bi và
cái hài, nhân vật, kết cấu truyện, không gian và thời gian nghệ thuật…
Đối với các tác phẩm khác như Đá đỏ, Sáng nghiệp sử, vấn đề được
các “độc giả” trong KLTN chú ý lại là các nhân vật anh hùng, chủ nghĩa anh
hùng trong tác phẩm.
 Kịch hiện đại:
Tiếp nhận kịch hiện đại Trung Quốc không nổi bật so với việc tiếp
nhận các thành tựu kể trên, song nó vẫn là hiện tượng đáng được kể đến khi
nghiên cứu về bức tranh văn học Trung Quốc trong KLTN. Các tác giả
KLTN quan tâm cả đến nội dung và nghệ thuật của các vở kịch này, ví dụ
như vấn đề biểu hiện mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, mối quan hệ giữa

hoàn cảnh và tính cách, thi pháp kịch…
Nói tóm lại, các hiện tượng tiếp nhận tiêu biểu kể trên đều gắn với
những tác giả - tác phẩm tiêu biểu nhất của văn học Trung Quốc. Việc lựa
chọn tiếp nhận các thành tựu này được chi phối bởi nhiều lý do khác nhau
mà chúng tôi sẽ tìm hiểu trong phần tiếp theo.
1.3. Lý giải một số hiện tượng tiếp nhận
1.3.1. Hiện tượng tiếp nhận thơ Đường
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
22
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
Đường thi từ trước đến nay vẫn được đánh giá là thành tựu vô cùng
rực rỡ của thơ ca cổ điển Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã
nhận định: “Trên thi đàn mà nhà thơ lớp lớp xuất hiện, tác phẩm như rừng,
đã xuất hiện những nhà thơ vĩ đại có ảnh hưởng tầm cỡ thế giới như Lý
Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị làm tăng thêm hào quang cho thời đại, trở thành
niềm kiêu hãnh của các dân tộc Trung Hoa. Thơ Đường sáng tác phồn vinh,
trường phái nhiều, phong cách đề tài phong phú đa dạng, các thể chế thơ ca
ngày càng hoàn thiện và định hình toàn diện, chứng tỏ thơ ca cổ điển Trung
Quốc đã phát triển tới giai đoạn hoàn toàn thuần thục” [10; 236]. Chính vì sự
đặc sắc, giàu giá trị như vậy, thơ Đường đã có sức ảnh hưởng sâu rộng
không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở nhiều nước khác trong đó có Việt Nam. Ở
Việt Nam thời trung đại, thơ Đường đã có ảnh hưởng lớn, được nhiều tác giả
văn học Việt Nam tiếp nhận như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn,
… Đến thời kì hiện đại, thơ Đường vẫn được nhiều tầng lớp độc giả Việt
Nam đọc một cách say mê. Đầu thế kỉ XX, phong trào dịch thuật, giới thiệu
Đường thi phát triển mạnh mẽ trên các tạp chí, sau đó ra đời nhiều tuyển tập
thơ Đường. Đền những năm 60, phong trào vẫn còn những dư âm nhất định.
Nhắc lại điều này để thấy rằng việc tiếp nhận Đường thi ở Việt Nam đã có
truyền thống, và truyền thống này vẫn tiếp tục được lưu giữ trong thời kì ra
đời các KLTN mà ta đang xét. Việc các sinh viên khoa Văn ĐH Tổng hợp

quan tâm nhiều đến thơ Đường, nghiên cứu thơ Đường trong các khóa luận
của mình cũng không nằm ngoài truyền thống này.
Mặt khác, bộ môn văn học Trung Quốc ở khoa Văn ĐH Tổng hợp thời
kì này rất phát triển với nhiều thành tựu nghiên cứu. Những người đảm nhận
việc giảng dạy văn học Trung Quốc ở đây đều là những nhà nghiên cứu có
tên tuổi như Lê Đức Niệm, Lê Huy Tiêu,… Đặc biệt GS Lê Đức Niệm là
một chuyên gia về thơ Đường với nhiều công trình nghiên cứu đã được công
bố. Quan sát kĩ các KLTN, ta thấy những KL nghiên cứu về tác giả - tác
phẩm thơ Đường đều do GS Lê Đức Niệm hướng dẫn. Như vậy có thể thấy,
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
23
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
ngoài việc thơ Đường tự thân có sức hấp dẫn đối với các tác giả KL hay việc
tiếp nhận đã có truyền thống, việc tiếp nhận thơ Đường qua KLTN của các
sinh viên cũng có sự định hướng nhất định từ quá trình giảng dạy văn học
Trung Quốc ở khoa Văn.
Thơ Đường có hàng chục nghìn tác phẩm với cả nghìn tác giả, trong
đó có những tác giả nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Vương
Duy, Lý Thương Ẩn,… nhưng trong các KLTN, sự tiếp nhận chủ yếu hướng
đến hai tác giả là Đỗ Phủ và Lý Bạch. Đây là điều tương đối dễ hiểu bởi đó
là hai tác gia nổi tiếng nhất, những người cắm mốc son cao nhất cho thơ ca
Thịnh Đường: “Văn chương Lý, Đỗ còn, hào quang ngời muôn trượng” (Hàn
Dũ). Hai tác gia này, mỗi người có một phong cách riêng rất đặc biệt: “Tử
Mỹ không làm nổi cái bay bổng của Thái Bạch, Thái Bạch không làm nổi cái
trầm uất của Tử Mỹ. Tử Mỹ không thể có được những bài “Mộng du thiên
mụ ngâm”, “Viễn biệt li” như Thái Bạch, Thái Bạch không thể viết ra “Binh
xa hành”, “Thùy lão biệt” như Tử Mỹ” (Nghiêm Vũ, Thương Lãng thi thoại)
[10; 242]. Vậy nhưng tại sao các KLTN lại tập trung vào Đỗ Phủ nhiều hơn
(tới 17 KL)? Điều này có thể được lý giải một mặt do chủ quan của các tác
giả KL, mặt khác do sự chi phối của bối cảnh thời đại. Những năm 60, 70,

đất nước ta đang trong hoàn cảnh có chiến tranh, chiến tranh cũng là vấn đề
được giới văn nghệ, nghiên cứu văn học quan tâm. Trong hoàn cảnh này, khi
nghiên cứu thơ ca cổ điển Trung Quốc, các tác giả KL dễ tìm sự đồng điệu
nơi Đỗ Phủ hơn là Lý Bạch. Bởi các tác phẩm của Đỗ Phủ chính là “thi sử”
(sử bằng thơ) của một thời đại đầy biến động loạn lạc. “Thơ Đỗ Phủ ghi chép
trung thực những biến đông quốc gia và khổ ải của nhân dân, gửi gắm sự
đồng tình sâu sắc đối với người bị bức hại ( ) Ông có tài kết hợp thời sự
chính trị và cảnh ngộ thân thế cá nhân, vừa khái quát điển hình tình cảnh
cuộc sống, lại bộc lộ mãnh liệt tình cảm chủ quan” [10; 244]. Đỗ Phủ được
xem là nhà thơ gần gũi gắn bó với nhân dân lao động, nhà thơ nhân đạo chủ
nghĩa, chống chiến tranh… Chính vì những điểm này, thơ Đỗ Phủ được
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
24
Nghiên cứu VHTQ trong KLTN của sinh viên khoa Ngữ văn…
nhiều tác giả KL trong những năm 60, 70, 80 chú ý và thơ Đỗ Phủ trở thành
một điểm nhấn quan trọng của hiện tượng tiếp nhận Đường thi trong KLTN.
1.3.2. Hiện tượng tiếp nhận tiểu thuyết cổ điển Minh Thanh
Tiểu thuyết cổ điển thời Minh phát triển hết sức mạnh mẽ, để lại nhiều
tác phẩm lớn có giá trị, trong đó nổi bật là ba bộ tiểu thuyết: Tam quốc chí
diễn nghĩa, Thủy hử, Tây du kí.
Với quy mô khoảng 75 vạn chữ, Tam quốc chí diễn nghĩa tái hiện một
cách sinh động các mâu thuẫn, các cuộc đấu tranh giữa các tập đoàn phong
kiến trong một thời đại hỗn độn, loạn lạc. Tam quốc cũng đặc biệt thành
công về mặt nghệ thuật khi xây dựng các nhân vật điển hình, mô tả các trận
chiến… Khác với Tam quốc chí diễn nghĩa, Thủy hử là tiểu thuyết truyền kì
anh hùng, nội dung phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp của nông dân, khởi
nghĩa nông dân trong xã hội phong kiến thông qua câu chuyện về 108 anh
hùng Lương Sơn Bạc. Nó có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với văn học và
cuộc sống. Về nội dung, Thủy hử “có ảnh hưởng sâu xa không thể lường
được đối với tất cả hành động muôn màu muôn vẻ nhằm chống lại giai cấp

thống trị phong kiến của quần chúng nhân dân đời sau” [13; 415]. Về nghệ
thuật, Thủy hử có nhiều thành tựu quan trọng tạo nên truyền thống tốt đẹp
trong sự phát triển lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, được nhiều tác giả đời sau
học tập và kế thừa.
Với tiểu thuyết cổ điển đời Thanh trong KLTN , Hồng lâu mộng là
điểm nhấn nổi bật nhất. Giống như trên, hiện tượng này cũng không nằm
ngoài nguyên nhân cơ bản là giá trị và sức ảnh hưởng to lớn của bộ tiểu
thuyết này không chỉ với văn học và cuộ sống ở Trung Quốc mà còn ở Việt
Nam. Ngay từ khi mới ra đời, Hồng lâu mộng đã làm chấn động cả xã hội
đương thời với những giá trị tư tưởng, nghệ thuật mới mẻ. Nó đươc lưu
truyền rộng rãi và được đánh giá cao, thu hút nhiều nhà nghiên cứu.
Phạm Thị Thủy - K51 Sư phạm Ngữ văn
25

×