Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

LỰA CHỌN ĐẦU TƯ CỦA CÁ NHÂN TRONG ĐIỀU KIỆN RỦI RO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.41 KB, 21 trang )

Tiểu luận Kinh Tế Vi Mơ GVHD: TS. Hay Sinh
Đề tài 5:
Đề tài 5:
LỰA CHỌN ĐẦU TƯ CỦA CÁ NHÂN
LỰA CHỌN ĐẦU TƯ CỦA CÁ NHÂN
TRONG ĐIỀU KIỆN RỦI RO
TRONG ĐIỀU KIỆN RỦI RO
Phần 1:
MƠ TẢ RỦI RO
1. MƠ TẢ RỦI RO
Để mơ tả rủi ro về mặt định lượng, chúng ta cần biết tất cả những kết cục có thể
xảy ra của một hành động cụ thể và khả năng xảy ra của mỗi kết cục đó. Giả sử bạn
đang cân nhắc việc đầu tư vào một cơng ty thăm dò dầu mỏ ở ngồi khơi. Nếu việc
thăm dò thành cơng thì cổ phiếu của cơng ty sẽ tăng từ 30 đơla lên 40 đơla mỗi cổ
phiếu; nếu thất bại, cổ phiếu sẽ giảm xuống 20 đơla. Như vậy, ở đây có 2 kết cục có
thể xảy ra trong tương lai – giá cổ phiếu là 40 đơla hoặc là 20 đơla mỗi cổ phiếu.
2. XÁC SUẤT
Xác suất nói về khả năng xảy ra của một kết cục. Trong ví dụ của chúng ta, xác
suất thành cơng của dự án thăm dò dầu mỏ có thể là ¼, và xác suất thất bại là ¾. Xác
suất là một khái niệm rất khó cơng thức hóa, vì việc lý giải nó phụ thuộc vào bản chất
của những sự kiện bất định, cũng như những gì mà những người có liên quan tin
tưởng. Một cách giải thích khách quan về xác suất, đó là dựa vào tần suất xuất hiện
của một sự kiện nhất định. Giả sử chúng ta biết rằng trong 100 dự án thăm dò dầu mỏ
ngồi khơi gần đây nhất có 25 dự án thành cơng và 75 dự án thất bại. Khi đó, xác suất
thành cơng ¼ là khách quan, vì kết cục này trực tiếp dựa vào tần suất của các sự kiện
tương tự.
Nhưng chúng ta sẽ làm gì nếu khơng có các sự kiện tương tự trong q khứ để
giúp xác định được xác suất? trong những trường hợp này, khơng thể suy luận ra được
ra những thước đo xác suất khách quan, và chúng ta cần tới một cách xác định chủ
quan hơn. Xác suất chủ quan là sự nhận thức về kết cục sẽ xảy ra. Nhận thức này có
thể dựa trên sự đánh giá hoặc kinh nghiệm của một người, song khơng nhất thiết phải


dựa trên tần suất mà một kết cục cụ thể thực sự xuất hiện. Khi xác suất được xác định
1
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
một cách chủ quan, những người khác nhau sẽ gắn những xác suất khác nhau cho các
kết cục khác nhau và do đó, đưa ra các lựa chọn khác nhau. Ví dụ, nếu dự án thăm dò
dầu mỏ dự định tiến hành tại một nơi chưa từng diễn ra các cuộc tìm kiếm nào trước
đó, tôi có lẽ sẽ đưa ra xác suất thành công chủ quan cao hơn bạn vì tôi được biết nhiều
hơn về dự án này, hoặc tôi có những hiểu biết tốt hơn về ngành dầu lửa, và do đó có
thể sử dụng tốt hơn những thông tin chung mà chúng ta cần biết. Thông tin khác nhau
hoặc năng lực khác nhau trong việc xử lý cùng một thông tin là những lý do giải thích
vì sao các cá nhân lại chấp nhận xác suất chủ quan khác nhau.
Cho dù xác suất có được giải thích như thế nào đi nữa thì nó cũng vẫn được
dùng để tính hai chỉ số quan trọng, giúp chúng ta miêu tả và so sánh các lựa chọn rủi
ro với nhau. Một chỉ số cho ta biết giá trị kỳ vọng và chỉ số kia cho biết mức độ biến
thiên của các kết cục có thể xảy ra.
3. GIÁ TRỊ KỲ VỌNG
Giá trị kỳ vọng của một tình huống bất định là bình quân gia quyền của các giá
trị của tất cả các kết cục có thể xảy ra, với xác suất của mỗi kết cục được sử dụng làm
các trọng số. Giá trị kỳ vọng đo lường xu hướng hướng tâm, có nghĩa là đo lường kết
cục trung bình. Ví dụ, việc thăm dò dầu mỏ ngoài khơi của chúng ta có hai kết cục có
thể xảy ra: nếu thành công sẽ đem lại giá trị 40 đôla cho mỗi cổ phiếu, trong khi thất
bại sẽ đem lại giá trị 20 đôla cho mỗi cổ phiếu. Ký hiệu “xác suất” là Pr, giá trị kỳ
vọng trong trường hợp này được biểu diễn như sau:
Giá trị kỳ vọng
= Pr(thành công) x (40 đôla mỗi cổ phiếu) + Pr(thất bại) x (20 đôla mỗi cổ phiếu)
= (1/4) x (40 đôla mỗi cổ phiếu) + (3/4) x (20 đôla mỗi cổ phiếu)
= 25 đôla mỗi cổ phiếu
Tổng quát hơn, nếu có hai kết cục có thể xảy ra với hai giá trị là X1 và X2, và
xác suất của mỗi kết cục là Pr1 và Pr2, thì giá trị kỳ vọng E(X) sẽ là:
E(X) = Pr

1
. X
1
+ Pr
2
. X
2
4. ĐỘ BIẾN THIÊN
Giả sử bạn đang lựa chọn giữa hai công việc bán hàng không trọn ngày có mức
thu nhập kỳ vọng như nhau (1.500 đôla). Công việc thứ nhất được trả công hoàn toàn
2
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
dựa vào hoa hồng thu nhập kiếm được phụ thuộc vào lượng hàng bán được. Công việc
thứ hai được trả lương. Công việc thứ nhất có thể đem lại hai mức thu nhập có xác suất
xảy ra bằng nhau – 2.000 đôla nếu cố gắng bán được nhiều hàng và 1.000 đôla nếu chỉ
bán được lượng hàng khiêm tốn. Công việc thứ hai hầu như luôn được trả công ở mức
1.500 đôla, nhưng nếu như công ty bị phá sản, bạn sẽ chỉ nhận được 510 đôla tiền kết
thúc hợp đồng. Bảng 1.1 tóm tắt những kết cục có thể xảy ra, các mức thu nhập đi liền
với những kết cục đó và xác xuất của chúng.
Bảng 1.1: Thu nhập từ các công việc bán hàng
KẾT CỤC 1 kẾT CỤC 2
Xác suất Thu nhập Xác suất Thu nhập
Công việc 1: hoa hồng theo sản phẩm 0,5 2.000 0.5 1.000
Công việc 2: lương cố định 0,99 1510 0.01 510
Bảng 1.2: Độ lệch so với thu nhập kỳ vọng (đôla)
Kết cục 1 Độ lệch Kết cục 2 Độ lệch
Công việc 1 2.000 500 1.000 500
Công việc 2 1.510 10 510 990
Lưu ý rằng, hai công việc có thu nhập kỳ vọng như nhau vì 0,5 x (2.000 đôla) +
0,5 x (1.000 đôla) = 0,99 x (1.500 đôla) + 0,01 x (510 đôla) = 1.500 đôla. Song độ biến

thiên của các mức thu nhập có thể xảy ra lại khác nhau. Độ biến thiên này có thể đo
được bằng cách thừa nhận rằng những chênh lệch lớn (bất kể âm hay dương) giữa thu
nhập thực tế và thu nhập kỳ vọng, được gọi là độ lệch, đều là dấu hiệu phản ánh mức
rủi ro lớn hơn. Bảng 1.2 cho thấy những độ lệch giữa thu nhập thực tế so với thu nhập
kỳ vọng trong ví dụ hai công việc bán hàng.
Trong công việc thứ nhất – bán hàng ăn hoa hồng, độ lệch trung bình là 500
đôla. Chỉ số này có được bằng cách gắn thêm cho mỗi độ lệch một trọng số, là xác suất
xảy ra của mỗi kết cục. Như vậy:
Độ lệch trung bình = 0,5 x (500 đôla) + 0,5 x (500 đôla) = 500 đôla.
Đối với công việc thứ hai – ăn lương cố định, độ lệch trung bình bằng:
Độ lệch trung bình = 0,99 x (10 đôla) + 0,01 x (900 đôla) = 19,80 đôla
3
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
Bảng 1.3: Tính phương sai (đôla)
Kết cục 1
Độ lệch
bình phương
Kết cục 2
Độ lệch
bình phương
Phương sai
Công việc 1 2.000 250.000 1000 250.000 250.000
Công việc 2 1.510 100 510 980.100 9.900
Vậy là, công việc đầu rủi ro hơn nhiều so với công việc thứ hai vì độ lệch trung
bình là 500 đôla, lớn hơn nhiều so với độ lệch trung bình của công việc thứ hai là
19,80 đôla.
Trên thực tế, chúng ta thường hay gặp hai chỉ số phản ánh độ biến thiên có liên
quan mật thiết với nhau nhưng hơi khác nhau. Phương sai là trung bình của bình
phương các độ lệch so với giá trị kỳ vọng của các giá trị gắn với mỗi kết cục. |Độ lệch
chuẩn là căn bậc hai của phương sai. Bảng 5.3 trình bày những tính toán tương tự cho

ví dụ của chúng ta. Trung bình của các độ lệch bình phương trong công việc 1 được
tính như sau:
Phương sai = 0,5 x (250.000 đôla) + 0,5 x (250.000 đôla) = 250.000 đôla
Do vậy, độ lệch chuẩn bằng căn bậc hai của 250.000 đôla, tức là bằng 500 đôla.
Tương tự, trung bình của các độ lệch bình phương trong công việc 2 được tính bằng:
Phương sai = 0,99 x (100 đôla) + 0,01 x (980100 đôla) = 9900 đôla
Độ lệch chuẩn là căn bậc hai của 9900 đôla, hay là bằng 99,50 đôla. Dù cho
chúng ta có dùng phương sai hay độ lệch chuẩn để xác định mức rủi ro (thực sự đây
chỉ là vấn đề dùng chỉ số nào cho tiện, vì cả hai đều đem lại cùng một cách xếp hạng
các lựa chọn rủi ro) thì công việc thứ hai vẫn ít rủi ro hơn hẳn công việc đầu. Cả
phương sai lẫn độ lệch chuẩn của các mức thu nhập kiếm được đều thấp hơn.
Cũng có thế áp dụng khái niệm phương sai một cách dễ dàng không kém khi số
kết cục xảy ra lớn hơn. Ví dụ, giả sử rằng công việc thứ nhất đem lại các mức thu nhập
biến thiên trong khoảng từ 1.000 đến 2.000 đôla, mức sau hơn mức trước 100 đôla và
xác suất xảy ra các mức thu nhập là như nhau. Công việc thứ hai đem lại các mức thu
nhập từ 1.300 đến 1.700 đôla (cũng lại mức sau hơn mức trước 100 đôla) và xác suất
xảy ra các mức thu nhập là như nhau.
4
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
Có thể thấy rằng công việc thứ nhất rủi ro hơn công việc thứ hai. “Mức độ tản
mạn” của các mức thu nhập có thể xảy ra trong công việc thứ nhất lớn hơn hẳn mức độ
tản mạn của các mức thu nhập trong công việc thứ hai. Và phương sai của các mức thu
nhập gắn với công việc thứ nhất lớn hơn phương sai gắn với công việc thứ hai.
Trong ví dụ cụ thể này, tất cả các mức thu nhập đều có khả năng xảy ra như
nhau, do vậy, đường miêu tả các mức thu nhập trong cả hai công việc đều có độ cao
không đổi. nhưng trong nhiều trường hợp, một số kết cục lại có khả năng xảy ra lớn
hơn so với các kết cục khác. Mặt khác, các mức thu nhập càng gần hai đuôi thì càng ít
khả năng xảy ra. Một lần nữa, thù lao của công việc 1 có phương sai lớn hơn. Từ nay
trở đi, chúng tôi sẽ dùng phương sai của các kết cục để đo độ biến thiên của các tình
huống bất định.

5. RA QUYẾT ĐỊNH
Giả sử bạn đang lựa chọn giữa hai công việc bán hàng đã được mô tả trong ví
dụ ban đầu của chúng ta. Bạn sẽ nhận công việc nào? Nếu bạn không thích mạo hiểm,
bạn sẽ nhận công việc 2. Công việc này đem lại thu nhập kỳ vọng y như công việc 1
mà ít rủi ro hơn. Nhưng giả sử chúng ta thêm 100 đôla và mỗi mức thu nhập trong
công việc 1, nhờ đó thu nhập kỳ vọng tăng từ 1.500 đôla lên thành 1.600 đôla. Bảng
1.4 thể hiện mức thu nhập mới và độ lệch bình phương.
Bảng 1.4: Thu nhập từ các công việc bán hàng – phương sai sửa đổi (đôla)
Kết cục 1 Độ lệch bình phương Kết cục 2 Độ lệch bình phương
Công việc 1 2.100 250.000 1.100 250.000
Công việc 2 1.510 100 510 980.100
Khi đó, có thể mô tả các công việc như sau:
 Công việc 1: Thu nhập kỳ vọng = 1.600 đôla. Phương sai = 250.000 đôla
 Công việc 2: Thu nhập kỳ vọng = 1.500 đôla. Phương sai = 9.900 đôla
Công việc 1 đem lại thu nhập kỳ vọng cao hơn nhưng lại mạo hiểm hơn hẳn
công việc 2. Lựa chọn công việc nào là tùy thuộc vào bạn. Một nhà kinh doanh táo bạo
có thể sẽ chọn thu nhập kỳ vọng cao hơn và phương sai lớn hơn, song một người thận
trọng hơn có thể sẽ chọn công việc 2. Để thấy được con người ta có thể quyết định như
thế nào khi phải lựa chọn một trong hai mức thu nhập khác nhau cả về giá trị kỳ vọng
5
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
lẫn về mức độ rủi ro, chúng ta cần phải phát triển hơn nữa lý thuyết về sự lựa chọn của
người tiêu dùng.
6
ẹoọ thoaỷ duùng
thu nhaọp (ngaứn USD)
10 3020
18
8
3

o
E
C
A
Hỡnh 2.2
Tiu lun Kinh T Vi Mụ GVHD: TS. Hay Sinh
Phn 2:
S THCH V MC RI RO
Trong phn ny tp trung vo cỏc la chn ca ngi tiờu dựng núi chung v
tha dng m ngi tiờu dựng nhn c khi la chn mt trong s nhng phng ỏn
mo him khỏc nhau.
1. S THCH KHC NHAU V RI RO
Con ngi thng mong mun gỏnh chu ri ro nhng mc khỏc nhau.
Mt s thỡ thớch ri ro, mt s khỏc thớch mo him v nhng ngi khỏc thỡ thớch
trung lp. con ngi ta cú s thớch khỏc nhau v ri ro m h mun chp nhn.
Vớ d trong hỡnh 2.1 bờn cnh
v s thớch v ri ro ca ngi
tiờu dựng: Trong hỡnh ny, tha
dng biờn ca ngi tiờu dựng gim
dn khi thu nhp tng, hỡnh ny cho
thy õy l tha dng ca ngi
tiờu dựng ghột ri ro vỡ ngi ny
thớch mi mc thu nhp chc chn
20.000 USD vi mc tha dng l
16 hn l vic mo him dn thõn vo
phng ỏn 10.000 USD hoc 30.000
USD vi xỏc sut mi mc thu nhp
0.5.
Hỡnh 2.2: Mc tha dng
tng khi thu nhp tng: Trong hỡnh ny

minh ha mc tha dng ca ngi
thớch mo him v ngi ny thớch phng ỏn 2 vi tha dng l 10.5 hn l la
chn mc thu nhp chc chn vi tha dng l 8.
7
th a d ng
Thu nh p ngn USD
10 302015 16
18
16
14
13
10
o
E
D
C
B
A
Hỡnh 2.1
Độ thoả dụng
thu nhập (ngàn USD)
10 3020
18
12
6
o
E
C
A
Hình 2.3

Tiểu luận Kinh Tế Vi Mơ GVHD: TS. Hay Sinh
Hình 2.3: Mức độ thỏa dụng
biên khơng đổi. Hình này cho thấy
người tiêu dùng trung lập với rủi ro và
bang quang giữa cơng việc chắc chắn
và cơng việc bất định có cùng mức thu
nhập kỳ vọng. Những người ghét rủi ro
họ sẽ phải trả một số tiền để tránh gặp
rủi ro đó gọi là mức trả cho rủi ro. Giá
trị của mức trả cho rủi ro phụ thuộc vào
những khả năng rủi ro khác nhau mà
một người phải gặp phải.
Một người ghét rủi ro đến mức độ nào phụ thuộc vào bản chất của loại rủi ro và
vào mức thu nhập của người đó. Nói chung người ghét rủi ro thừng chọn những rủi ro
có dao động của các kết cục nhỏ hơn.
Khi con người trung lập với rủi ro, độ thỏa dụng biên theo thu nhập sẽ khơng
đổi do vậy họ có thể sử dụng thu nhập mà họ kiếm được như một chỉ số về mức thỏa
mãn. Một chính sách của chính phủ làm tăng thu nhập sẽ là tăng gấp đơi độ thỏa dụng
của họ. Đồng thời những chính sách của chính phủ làm giảm rủi ro mà dân cư phải
gánh chịu nhưng khơng làm thay đổi thu nhập kỳ vọng của họ sẽ khơng làm ảnh
hưởng gì đến mức độ thỏa mãn của họ.

2. VÍ DỤ VỀ SỰ LỰA CHỌN RỦI RO
Câu hỏi đặt ra là liệu những giám đốc kinh doanh có phải là người hti1ch mạo
hiểm với rủi ro như mọi người đều nghĩ khơng? Theo nghiên cứu đưa ra 4 tình huống
mạo hiểm và mỗi tình huống đều có kết cục thuận lợi và bất lợi vói một xác suất cho
trước của mỗi kết cục, các kết cục và xác suất đã lựa chọn sao cho tình huống đều có
cùng một giá trị kỳ vọng. Theo trật tự rủi ro tăng dần:
 Một vụ kiện có liên quan đến việc vi phạm bản quyền sáng chế
 Nguy cơ mất khách hàng do hành động của đối thủ

 Tranh chấp với cơng đồn
 Liên doanh với đối thủ
8
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
Và nghiên cứu cho thấy rằng sở thích về mức độ rủi ro của những người giám
đốc là khác nhau. Khoảng 20% trả lời:tương đối trung lập với rủi ro, khoảng 40%
thích lựa chọn phương án mạo hiểm, 20% thì ghét rủi ro và 20% không trả lời. Kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng những giám đốc đều cố gắng để loại bỏ hoặc giảm bớt rủi ro
thường là bằng cách trì hoãn hoặc ra quyết định và thu thập thêm thông tin. Tóm lại,
rủi ro tồn tại cả khi lợi ích kỳ vọng là số dương lẫn khi lợi ích kỳ vọng là số âm.
Nghiên cứu trên cho thấy rằng sở thích về độ rủi ro của những người giám đốc thay
đổi tùy thuộc vào việc sự mạo hiểm đó liên quan đến lãi hay lỗ. Những người giám
đốc ưa thích các tình huống mạo hiểm thường thể hiện sở thích này khi sự mạo hiểm
có liên quan đến lỗ. Tuy nhiên khi sự mạo hiểm có liên quan đến lãi thì người giám
đốc lại tỏ ra thận trọng hơn và họ chọn các phương án ít rủi ro hơn.
3. VÍ DỤ VỀ NGĂN CHẶN TÌNH TRẠNG PHẠM LUẬT
Giả sử một thành phố muốn ngăn chặn việc đỗ xe sai quy định. Mỗi lần đỗ xe
sai chỗ một dân cư tiêu biểu sẽ tiết kiệm được 5 USD do tiết kiệm được thời gian của
ngườ này để dùng vào những hoạt động thú vị hơn so với việc tìm chỗ đỗ xe. Giả sử
các lái xe đều trung lập với rủi ro và việc bắt người phạm luật không tốn chi phi thì
cần ấn định tiền phạt cao hơn 5USD là được với mức phạt này sẽ đảm bảo rằng lợi ích
ròng đem lại cho người lái xe do việc đỗ xe sai quy định sẽ nhỏ hơn 0 thì 5 USD thu
được nhỏ hơn tiền phạt vì vậy người lái xe sẽ chọn cách tuân thủ pháp luật.Trong thực
tế những người có lợi ích nhỏ hơn 5 USD sẽ tuân thủ còn những người có lợi ích cao
hơn tiền phạt họ sẽ vi phạm pháp luật (chẳng hạn như: họ có việc gấp bàn chuyện kinh
doanh với đối tác và lợi từ việc này lớn hơn tiền phạt đặt ra họ sẽ chấp nhận đỗ xe sai
quy định) Còn đối với những người ghét rủi ro thì số tiền phạt không cần phải lớn vì
những người lái xe này sẵn sang từ bỏ hành vi phạm luật do những rủi ro do những rủi
ro đi kèm với quá trình thực thi pháp luật.
9

Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
Phần 3:
GIẢM NHẸ RỦI RO
Có 3 phương pháp thường được sử dụng để giảm thiểu rủi ro đó là:
 Đa dạng hóa
 Bảo hiểm
 Tìm kiếm thêm thông tin về các phương án lựa chọn và hậu quả của chúng
1. ĐA DẠNG HÓA
Đa dạng hóa có thể giảm rủi ro tới mức tối thiểu bằng cách phân bổ sức lực hay
vốn đầu tư, nói chung là nguồn lực vào một loạt các hoạt động có kết cục không liên
quan chặt chẽ đến nhau có thể loại trừ một số rủi ro.
Ví dụ, đa dạng hóa danh mục đầu tư chứng khoán là việc bỏ vốn đầu tư vào các
chứng khoán có độ rủi ro khác nhau dựa trên những tỷ lệ đầu tư không giống nhau trên
thị trường, xây dựng lên một cơ cấu tài sản hợp lý để có thể phân tán rủi ro hay hạn
chế tối đa rủi ro đầu tư. Đa dạng hoá danh mục đầu tư chứng khoán tuy không hoàn
toàn xoá bỏ hết rủi ro, nhưng nó có thể làm giảm bớt mức rủi ro theo một nguyên tắc
đầu tư "không nên để tất cả trứng vào cùng một rổ".
Một ví dụ khác, bạn định nhận một việc làm bán thời gian bán đồ gia dụng, có 3
phương án được đưa ra để lựa chọn: Chỉ bán máy điều hòa không khí; Chỉ bán máy
sưởi; Một nửa thời gian bán máy sưởi, một nửa thời gian bán máy điều hòa không khí.
Các khả năng có thể xảy ra đối với thời tiết là: Tương đối nóng: 50%, Tương đối lạnh:
50%.
Thu nhập từ công việc của bạn:
Thời tiết nóng Thời tiết lạnh
Doanh thu từ máy điều hòa 30.000 USD 12.000 USD
Doanh thu từ máy sưởi 12.000 USD 30.000 USD
 Nếu chỉ bán 1 loại máy: thu nhập có được là 30.000 USD hoặc 12.000 USD
 Nếu bán cả 2 loại máy: thu nhập kỳ vọng là
30.000 x 50% + 12.000 x 50% = 21.000 USD.
10

Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
Như vậy, nếu thời gian bán được chia đều cho 2 sản phẩm thì thu nhập chắc
chắn sẽ là 21.000 USD. Có thể thấy, máy điều hòa nhiệt độ và máy sưởi có quan hệ
nghịch đảo với nhau, nếu doanh số mặt hàng này cao thì doanh số mặt hàng kia sẽ thấp
và ngược lại.
Tuy nhiên đa dạng hóa không phải lúc nào cũng đơn giản như vậy. Trong thực
tế việc đa dạng hóa sẽ khó khăn hơn nhưng một nguyên tắc chung của đa dạng hóa đó
là chừng nào còn có thể phân bổ sức lực hay vốn đầu tư của minh vào một loạt hoạt
động có kết cục không có liên quan chặt chẽ với nhau thì khi đó còn có thể loại trừ
một số rủi ro.
2. BẢO HIỂM
Đây là giải pháp dành cho những người ghét rủi ro. Chúng ta thấy rằng những
người ghét rủi ro sẵn sàng chi một số tiền bằng với mức thiệt hại kỳ vọng để mua bảo
hiểm để được đền bù đầy đủ bất kỳ thiệt hại nào mà họ có thể phải gánh chịu. Việc
mua bảo hiểm đảm bảo cho người ta nhận được mức thu nhập không đổi bất chấp thiệt
hại có xảy ra hay không vì phí bảo hiểm bằng với thiệt hại kỳ vọng có thể xảy ra nên
mức thu nhập chắc chắn sẽ bằng với thu nhập kỳ vọng trong tình huống rủi ro xảy ra.
Ví dụ, một người có 50.000 USD và khả năng bị trộm 10.000 USD là 10%
Bị mất trộm
(xác suất 0.1)
Không bị trộm
(xác suất 0.9)
Giá trị tài sản
kỳ vọng
Không bảo hiểm 40.000 50.000 49.000
Có bảo hiểm 49.000 49.000 49.000
Với Thiệt hại kỳ vọng = 10.000 x 0.1 = 1.000 USD
Như vậy quyết định mua hay không mua bảo hiểm không làm thay đổi giá trị
tài sản kỳ vọng. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ việc quyết định mua bảo hiểm khiến cho
giá trị kỳ vọng trở nên gần hơn so với giá trị xuất hiện trong hai kết cục. Ta được biết,

đối với người đã mua bảo hiểm thì mức độ thỏa dụng biên của họ trong cả 2 trường
hợp mất trộm và không mất trộm đều như nhau (vì giá trị tài sản không đổi). Nhưng
khi có bảo hiểm, độ thỏa dụng biên trong trường hợp bị mất trộm sẽ cao hơn so với
trường hợp không bị mất trộm (vì họ ghét rủi ro). Như vậy tổng độ thỏa dụng trong
trường hợp có bảo hiểm phải cao hơn so với trường hợp không mua bảo hiểm.
11
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
Bảo hiểm này được cung cấp bởi các công ty bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm
với chính sách đa dạng họ sẽ gánh chịu tương đối ít rủi ro. Khả năng tránh rủi ro nhờ
kinh doanh trên qui mô lớn được xây dựng trên cơ sở “quy luật số lớn”, quy luật này
cho ta biết rằng mặc dù những sự kiện đơn lẻ có thể là ngẫu nhiên và phần lớn không
thể đoán được, song kết cục trung bình của nhiều sự kiện tương tự như nhau thì có thể
dự đoán được. Bằng cách hoạt động trên quy mô lớn, các công ty bảo hiểm có thể tự
đảm bảo rằng với một số lượng đủ lớn các sự kiện, tổng phí bảo hiểm mà hãng thu
được sẽ bằng tổng số tiền mà hãng phải bồi thường. Các công ty bảo hiểm thường phải
thu phí bảo hiểm cao hơn tổn thất kỳ vọng bởi vì họ phải bù đắp chi phí hoạt động. Do
vậy nhiều người chọn cách tự bảo hiểm thay vì mua bảo hiểm của các công ty, một
trong những cách tự bảo hiểm là đa dạng hóa.
3. GIÁ TRỊ CỦA THÔNG TIN
Những quyết định mà người tiêu dùng đưa ra khi có các kết cục bất định đều
dựa trên những thông tin hạn chế. Nếu có nhiều thông tin hơn thì người ta có thể dự
đoán chính xác hơn và giảm được rủi ro. Vì thông tin là có giá trị nên để có được nó,
người ta phải chi trả một số tiền. Giá trị của thông tin đầy đủ là khoản chênh lệch giữa
giá trị kỳ vọng của phương án lựa chọn khi có đầy đủ thông tin và giá trị kỳ vọng khi
không có đầy đủ thông tin.
Ví dụ, bạn đang quản lý một cửa hàng bán lẻ và bạn phải quyết định đặt bao
nhiêu bộ comple, với các giả định:
 Nếu đặt 100 bộ: 180 USD/bộ
 Nếu đặt 50 bộ: 200 USD/bộ
 Chắc chắn sẽ bán được 1 bộ comple với giá 300USD nhưng không chắc bán

được bao nhiêu bộ.
 Comple không bán được có thể trả lại nhưng chỉ được trả một nửa giá đã mua.
 Nếu không có thêm thông tin, giả định rằng xác suất bán 100 bộ là 0.5, xác suất
bán 50 bộ là 0.5.
Số bộ mua Thu nhập chắc chắn
Người ghét rủi ro 50 5.000
Người trung lập 100 12.000 hoặc 1.500
12
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
Lợi nhuận từ việc bán comple:
Bán được 50 bộ Bán được 100 bộ Lợi nhuận kỳ vọng
Mua 50 bộ 5.000 5.000 5.000
Mua 100 bộ 1.500 12.000 6.750
Nếu có thông tin đầy đủ, bạn có thể đặt mua chính xác số lượng comple.
 Số hàng bán được là 50, đặt hàng 50, lợi nhuận là 5.000 USD
 Số hàng bán được là 100, đặt hàng 100, lợi nhuận là 12.000 USD
 Vì xác suất là như nhau nên lợi nhuận kỳ vọng là 8.500 USD
 Giá trị kỳ vọng trong điều kiện bất định là 6.750 USD
 Giá trị của thông tin đầy đủ: 1.750 USD
Như vậy, bỏ ra 1.750 USD để có được dự đoán chính xác về doanh số bán hàng
là điều đáng làm, mặc dù dự doán này không hoàn toàn chính xác nhưng vẫn đáng để
đầu tư vào việc nghiên cứu thị trường để có dự đoán tốt hơn về doanh số cho các năm
tiếp theo.
Phần 4:
CẦU VỀ CÁC TÀI SẢN CÓ RỦI RO
Con người hầu hết không ưa rủi ro. Nếu được lựa chọn, họ thích thu nhập ổn
định hàng tháng hơn là thu nhập với mức lương trung bình cao nhưng lại biến động
13
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
không theo bất cứ một quy luật nào. Tuy nhiên, có nhiều người trong số này lại đầu tư

toàn bộ hoặc một phần tiết kiệm của họ vào chứng khoán, trái phiếu và các tài sản
khác chứa đựng rủi ro. Vì sao những người ghét rủi ro lại đầu tư vào chứng khoán và
do vậy mạo hiểm có thể mất một phần hoặc toàn bộ số tiền đầu tư của họ. Con người
ta làm thế nào quyết định nên gánh chịu bao nhiêu rủi ro khi tiến hành đầu tư và lập kế
hoạch cho tương lai? Để trả lời những câu hỏi này, cần xem xét cầu về các tài sản có
rủi ro.
1. TÀI SẢN
Tài sản là cái đem lại một luồng tiền cho người chủ sở hữu của nó. Ví dụ,
những căn hộ trong một tòa chung cư có thể đem cho thuê, tạo ra luồng thu nhập từ
tiền thuê nhà cho chủ nhà. Một ví dụ khác là tài khoản tiền tiết kiệm trong ngân hàng
đem lại tiền lãi. Nói chung, các khoản tiền lãi. Nói chung, các khoản tiền lãi này lại
được tái đầu tư trong tài khoản.
Luồng tiền mà một người nhận được do sở hữu tài sản có thể tồn tại dưới dạng
những khoản tiền được trả công khai, chẳng hạn như thu nhập từ tiền cho thuê nhà
hàng tháng. Một dạng thanh toán rõ ràng khác đó là cổ tức trả cho cổ phiếu thường
theo định kỳ. Song, đôi khi luồng tiền phát sinh từ quyền sở hữu tài sản lại có dạng
ngầm: gia tăng vốn hoặc tổn thất vốn.
Có 2 loại tài sản:
 Tài sản có rủi ro: là tài sản mang lại luồng tiền thất thường, ít nhiều mang tính
ngẫu nhiên. Hay nói cách khác là luồng tiền này không thể đoán trước một cách
chắc chắn được. Ví dụ: Giá của cổ phiếu.
 Tài sản không rủi ro: là tài sản đem lại luồng tiền có thể biết được một cách
chắc chắn. Ví dụ: Tiền gửi vào ngân hàng trong thời gian ngắn hạn.
2. LỢI TỨC TỪ TÀI SẢN
Lợi tức trên một tài sản là tổng luồng tiền mà tài sản đó tạo ra chia cho giá trị
của nó. Ví dụ: nếu 1 toàn nhà năm ngoái trị giá 10 triệu đôla, năm nay tăng giá lên 11
triệu đôla và thêm vào đó lại mang lại thu nhập ròng (trừ chi phí) từ việc cho thuê là
0.5 triệu đôla thì qua 1 năm lợi tức nó tạo ra là 15%.Lợi tức thực tế trên một tài sản là
lợi tức danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát.
14

Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
Lợi tức kì vọng của một tài sản là giá trị kì vọng của lợi tức từ tài sản đó tức là
lợi ích trung bình mà tài sản đó phải đem lại. Vì hầu hết các tài sản đều có rủi ro nên
một nhà đầu tư không thể biết trước được lợi tức mà các tài sản mà họ nắm giữ mang
lại trong năm tới sẽ là bao nhiêu.
Lợi tức thực tế mà một tài sản mang lại có thể cao hơn nhiều so với lợi tức kỳ
vọng trong một số năm, và thấp hơn nhiều trong những năm khác, song nếu xét trong
một thời kỳ dài thì lợi tức trung bình sẽ gần sát với lợi tức kỳ vọng.
Bảng 4.1: Các loại đầu tư – rủi ro và lợi tức (1926 - 1991)
Mức lợi tức thực tế (%) Rủi ro (độ lệch chuẩn, %)
Chứng khoán thông thường 8,8 21,2
Trái phiếu công ty dài hạn 2,4 8,5
Tín phiếu kho bạc của
chính phủ Mỹ.
0,5 3,4
Các tài sản khác nhau có lợi tức kỳ vọng khác nhau. Ví dụ từ bảng trên cho thấy
rằng lợi tức kỳ vọng của tín phiếu kho bạc Mỹ thấp hơn 1% trong khi lợi tức thực tế
của chứng khoán đại diện trên thị trường chứng khoán New York là 8,8%. Vì sao lại
có người mua tín phiếu kho bạc trong khi lợi tức kỳ vọng của chứng khoán cao hơn
nhiều như vậy? Câu trả lời là về cầu một tài sản không chỉ phụ thuộc vào lợi tức kỳ
vọng của nó mà còn phụ thuộc vào mức rủi ro của nó. Tuy rằng chứng khoán có lợi
tức kỳ vọng cao hơn Tín phiếu kho bạc, song chúng lại có mức rủi ro cao hơn. Một
thước đo mức rủi ro là độ lệch chuẩn: độ lệch chuẩn của lợi tức thực tế bằng 21,2 %
đối với chứng khoán thường nhưng đối với trái phiếu công ty chỉ bằng 8,3% và chỉ
bằng 3,4% đối với tín phiếu kho bạc. Rõ ràng là lợi tức kỳ vọng của đầu tư càng cao
thì rủi ro càng lớn. Do vậy, một nhà đầu tư ghét rủi ro cần phải cân đối giữa lợi tức kỳ
vọng và rủi ro. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét sự đánh đổi này một cách cụ thể hơn.
3. SỰ ĐÁNH ĐỔI GIỮA RỦI RO VÀ LỢI TỨC
Giả sử một phụ nữ cần đầu tư tiền tiết kiệm của mình vào hai loại tài sản là Tín
phiếu kho bạc, cái hầu như không có rủi ro và một nhóm chứng khoán đại diện. Bà ta

phải quyết định xem đầu tư bao nhiêu tiền tiết kiệm vào mỗi tài sản – bà ta có thể chi
đầu tư vào tín phiếu kho bạc, chỉ đầu tư vào chứng khoán hoặc kết hợp cả hai. Chúng
15
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
ta sẽ thấy rằng vấn đề này tương tự như việc người tiêu dùng phải phân bổ ngân sách
của mình như thế nào giữa hai hàng hóa thực phẩm và quần áo.
Ký hiệu:
R
f
: lợi tức không rủi ro từ tín phiếu kho bạc
(lợi tức kỳ vọng = lợi tức thực)
R
m
: lợi tức kỳ vọng có được từ việc đầu tư vào thị trường chứng khoán
Với R
m
> R
f
(nếu không sẽ dẫn đến việc chỉ mua tín phiếu kho bạc)
r
m
: lợi tức thực có (chứa đựng rủi ro) và E(rm) = Rm
Để xác định xem nhà đầu tư sẽ chi bao nhiêu tiền vào mỗi tài sản, cần giả sử:
B : tỉ lệ tiền tiết kiệm đầu tư chứng khoán.
1-b : phần tiền để mua tín phiếu kho bạc.
R
p
: lợi tức kỳ vọng của toàn bộ danh mục đầu tư, là giá trị bình quân gia
quyền của 2 loại tài sản:
RP = bR

m
+ (1-b)R
f
Ví dụ: giả sử rằng tín phiếu kho bạc đem lại 4% lợi tức (R
f
= 0.04) lợi tức kỳ
vọng của thị trường chứng khoán là 12% (R
m
= 0.12) và b =1/2. Khi đó, R
p
= 8%.
Danh mục đầu tư này rủi ro tới mức nào? một số thước đo rủi ro của nó là phương sai
lợi tức của danh mục đầu tư. Hãy ký hiệu phương sai của việc đầu tư vào thị trường
chứng khoán có rủi ro là δ
2
m
. Với một vài phép tính đại số, chúng ta có thể chỉ ra rằng
đọ lệch chuẩn của danh mục đầu tư (bao gồm một tài sản có rủi ro và một tài sản
không rủi ro) bằng tỷ lệ phần tiền đầu tư vào tài sản rủi ro nhân với độ lệch chuẩn của
tài sản này:
Phương sai của danh mục đầu tư:
và ta có RP = bRm + (1-b)Rf
 δ
2
p = b δ
2
m
 δp = b δm
16
( )

2
2
1
p m f p
E b r b R R
σ
 
 
= × + − −
 
 
( )
[ ]
2
2
2
2 2 2
1 (1 )
( )
p m f m f
p m m m
E b r b R bR b R
E b r R b
σ
σ σ
 
 
= × + − − + −
 
 

= − =
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
Vấn đề lựa chọn của nhà đầu tư: Chúng ta vẫn chưa xác định được nhà đầu tư
làm thế nào chọn được tỷ lệ b đó. Để thực hiện điều này, trước tiên chúng ta phải chỉ
ra rằng bà ta đứng trước một sự đánh đổi giữa lợi tức và rủi ro, tương tự như đường
ngân sách của người tiêu dùng. Để thấy được sự đánh đổi này là gì, lưu ý rằng phương
trình R
p
= R
f
+ b (R
m
- R
f
)
Từ δ
2
p
= b δ
2
m
ta thấy b = δ
p

m
Do đó: R
p
= R
f
+ (R

m
- R
f
) * δ
p

m
Phương trình này là 1 đường ngân sách vì nó mô tả sự đánh đổi giữa rủi ro (δ
p
)
và lợi tức kỳ vọng (R
p
). Lưu ý rằng, đây là phương trình đường thẳng: R
m
, R
f
và δ
m

hằng số, nên độ dốc (R
m
- R
f
)/δ
m
, cũng như giao điểm R
f
, là 1 số không đổi. Phương
trình này cho thấy lợi tức kỳ vọng của danh mục đầu tư R
p

tăng lên khi độ lệch chuân
của lợi tức δ
p
tăng lên. Chúng ta gọi độ dốc của đường ngân sách này, (R
m
- R
f
)/δ
m

giá của rủi ro, bởi vì nó cho ta biết nhà đầu tư phải gánh chịu bao nhiêu rủi ro để có
được lợi tức kỳ vọng cao hơn.
Hình trên cho thấy: Nếu nhà đầu tư không muốn rủi ro thì sẽ đầu tư tất cả vốn
vào Tín phiếu kho bạc (b=0) ,thu lợi tức kỳ vọng R
f
. Để có được lợi tức cao hơn thì
phải chịu rủi ro, ta có thể:
 Đầu tư tất cả vốn vào chứng khoán, (b=1), kiếm lợi tức kỳ vọng R
m
và chịu độ
lệch chuẩn δ
m
 Đầu tư vào cả 2 loại tài sản, thu lợi tức kỳ vọng trong khoảng R
f
và R
m
và chịu
độ lệch chuẩn < δ
m
, nhưng lớn hơn 0.

17
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
Hình trên cũng chỉ ra lời giải cho vấn đề đầu tư: Có 3 đường bàng quan, mô tả
những phương án kết hợp giữa rủi ro và lợi tức làm cho nhà đầu tư thỏa mãn ngang
nhau:
 Đường U
3
: tạo độ thỏa mãn cao nhất, nhà đầu tư thích ở trên đường này
nhất nhưng điều này không khả thi vì đường này không chạm vào đường ngân
sách.
 Đường U
1
: tạo độ thỏa mãn thấp nhất, đường này khả thi nhưng nhà đầu
tư có thể có phương án tốt hơn.
Nhà đầu tư đạt phương án tối ưu khi lựa chọn cách kết hợp rủi ro và lợi tức tại
điểm nơi đường bàng quan (U
2
) tiếp xúc với đường ngân sách
è Lợi tức có giá trị kỳ vọng R* và độ lệch chuẩn σ*
Hình trên mô tả 2 nhà đầu tư lựa chọn danh mục đầu tư như thế nào?
• Nhà đầu tư A: Ghét rủi ro, đường bàng quan tiếp xúc với đường ngân sách tại
điểm có độ rủi ro thấp. Nhà tư gần toàn bộ vốn vào tín phiếu kho bạc, do đó thu lợi tức
kỳ vọng lớn hơn chút ít so với lợi tức không có rủi ro, nhưng có độ ủi ro nhỏ.
• Nhà đầu tư B: ít ghét rủi ro, đầu tư vào chứng khoán. Lợi tức từ danh mục đầu
tư có giá trị kỳ vọng cao hơn nhưng có độ lệch chuẩn cao hơn.
18
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
Vậy, tóm lại:
 Chúng ta đã đơn giản hóa lựa chọn của nhà đầu tư giữa Tín phiếu kho
bạc và chứng khoán.

 Mỗi nhà đầu tư đều phải đứng trước việc đánh đổi giữa rủi ro và lợi tức.
 Một nhà đầu tư sẽ sẵn sàng chịu thêm bao nhiêu rủi ro nếu kiếm được lợi
tức kỳ vọng cao hơn, phụ thuộc vào mức độ ghét rủi ro của người đó.
 Các nhà đầu tư ít ghét rủi ro hơn có xu hướng dành tỉ lệ lớn hơn cho tài
sản có rủi ro.
Phần 5:
ĐẦU TƯ GÌ CHO HIỆN NAY???
1. CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ PHỔ BIẾN
Hiện các nhà đầu tư cá nhân có thể lựa chọn các hình thức đầu tư phổ biến sau:
19
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
 Gửi tiết kiệm
 Vàng vật chất
 Ngoại tệ (thị trường tự do)
 Chứng khoán (không bao gồm trái phiếu Chính phủ do nhà đầu tư cá nhân khó
tiếp cận được với kênh đầu tư này)
 Bất động sản (BĐS)
2. ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ
Nội
dung
Gửi tiết
kiệm
Vàng Ngoại tệ (USD) Chứng khoán Bất động sản
Lợi
nhuận
mang lại
(%/năm)
14%/năm
(gần như
cố định)

25% - 45%
(vàng đã tăng
giá 25% kể từ
đầu năm 2011
và 214% kể từ
năm 2006.
Trong các tháng
đầu năm 2011
có những thời
điểm chênh lệch
lên đến 45%)
7% - 11,9%
(bao gồm 2% lãi
suất tiết kiệm
USD; tỷ giá
USD bình quân
liên ngân hàng
đã tăng 9,9% kể
từ đầu năm và
tăng gần 30% kể
từ năm 2006,
bình quân
5%/năm)
-57% - -9,6%
(chỉ số VN-
Index giảm
9,6%, chỉ số
Hnx – Index
giảm 57%; hầu
hết các cổ phiếu

đều sụt giảm
gần 50% giá trị,
có tới hơn 2/3 cổ
phiếu dưới
mệnh giá)
-30% - -15%
(thị trường
BĐS đang có
dấu hiệu sụt
giảm, giá bán
sản phẩm giảm
từ 15% - 30%
so với đầu
năm)
Rủi ro
Rất thấp,
hầu như
không có
nếu chọn
các Ngân
hàng lớn
Rủi ro lớn cho
những nhà đầu
tư lướt sóng.
Nếu nắm giữ
trên 01 năm thì
khả năng sinh
lời ổn định.
Rủi ro về mặt
pháp lý do Nhà

nước cấm cá
nhân đầu cơ
ngoại tệ.
Nhà nước siết
chặt tín dụng
chứng khoán.
Hiện chưa có
dấu hiệu cho
thấy thị trường
sẽ hồi phục.
Nhà nước vẫn
tiếp tục siết tín
dụng BĐS.
Khả năng chủ
đầu tư không
thể hoàn thành
dự án để giao
theo đúng tiến
độ.
3. LỰA CHỌN HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
20
Tiểu luận Kinh Tế Vi Mô GVHD: TS. Hay Sinh
Chứng khoán, BĐS đang trên đà sụt giảm mặc dù theo một số chuyên gia thời
điểm hiện nay có thể quay trở lại để đầu tư do thị trường đã xác lập đáy mới. Tuy
nhiên, với tình hình kinh tế vĩ mô như hiện nay cộng với việc Chính phủ tiếp tục thực
hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ thì việc đầu tư vào Chứng khoán và BĐS trong giai
đoạn hiện nay cũng tiềm ẩn khá nhiều rủi ro.
Đầu tư Ngoại tệ (USD) vẫn mang lại lợi nhuận tương đối ổn định qua các năm,
tuy nhiên nếu xét mức lợi nhuận bình quân mang lại từ 7% – 11,9%/năm thì việc gửi
tiết kiệm VNĐ vẫn có hiệu quả hơn; trừ khi tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng thêm

2% từ nay đến cuối năm, tức đạt 21.219đ/USD và đạt mức 23.715đ/USD trong 12
tháng sắp tới.
Với những nhận định ở trên thì kênh đầu tư an toàn và hiệu quả hiện nay là Gửi
tiết kiệm và đầu tư vàng vật chất:
 Nếu đầu tư dưới 1 năm thì nên gửi tiết kiệm.
 Nếu đầu tư trên 1 năm thì nên đầu tư vào vàng vật chất.

21

×