Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Cổ phần hóa và đánh giá quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.87 KB, 33 trang )

GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Trang 3
KẾT LUẬN Trang 33
NỘI DUNG Trang 4-32
I. LÍ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HOÁ VÀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM: Trang 4
1.Cổ phần hoá: Trang 4
2.Cố phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN): Trang 4
2.1.Lý luận về DNNN: trang 4
2.1.1.Khái niệm: Trang 4
2.1.2.Vị trí và vai trò của DNNN trong nền kinh tế nhiều thành phần trang 5
2.2.Cổ phần hoá DNNN: Trang 6
2.2.1.Quan niệm về cổ phần hóa DNNN: Trang 6
2.2.2.Cơ sở lý luận: trang 6
2.2.3.Cơ sở thực tiễn cổ phần hóa DNNN: Trang 9
2.2.4.Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN: Trang 11
2.2.5.Các bước tiến hành cổ phần hóa DNNN: Trang 11
2.3.Kinh nghiệm cổ phần hóa của một số nước trên thế giới: Trang 12
2.3.1.Cổ phần hóa ở Trung Quốc: Trang 12
- Trang 1 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
2.3.2.Một số nước khác: Trang 14
2.3.3.Một số điều rút ra từ cổ phần hóa ở một số nước trên thế giới Trang 14
II.ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA:
Trang 16
1. Quá trình tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và kết quả ban đầu: Trang 17
1.1.Giai đoạn trước năm 2002 ( thời kỳ thí điểm và hậu thí điểm): ……………………… Trang17
1.2.Giai đoạn từ năm 2002 – 2005: Trang 17
1.3.Giai đoạn từ 2006-2010: Trang 19


2.Đánh giá tình hình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam : Trang 20
2.1. Kết quả đạt được trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp: Trang 20
2.2.Những tồn tại xung quanh quá trình cổ phần hóa: Trang 21
3. Thách thức: Trang 24
4. Những thuận lợi và triển vọng: Trang 26
III.GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH CỔ PHẦN HÓA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM ……………………………………………………………………………Trang 27
1.Hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp và giải quyết tồn đọng về mặt tài chính:
Trang 27
2. Hoàn thiện chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa
Trang 28
3.Đổi mới tổ chức chỉ đạo thực hiện quá trình cổ phần hóa DNNN: Trang 30
4.Tạo môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ hơn nữa cho tổ chức và hoạt động của công ty cổ
phần: Trang 31
5.Cổ phần hóa gắn liền với Thị trường chứng khoán: Trang 32
- Trang 2 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
MỞ ĐẦU
Như đã biết đất nước ta là một nước còn đang phát triển, các trang thiết bị lạc hậu, nguồn
tài chính hạn hẹp nên các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không có khả năng cạnh tranh trên thị
trường và đổi mới công nghệ cũng như sản phẩm. Ngân sách Nhà nước không có khả năng cấp
vốn và bao cấp các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây. Các ngân hàng cho vay đối với các
doanh nghiệp này cũng phải có các điều kiện bảo đảm như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh
để tính khả năng thu hồi vốn. Hầu hết các doanh nghiệp ở trong tình trạng không có vốn nhưng
cũng không có cách nào để huy động. Đối mặt với những khó khăn đó, cổ phần hóa được coi là
một giải pháp nhằm tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn cho các doanh nghiệp để đầu tư
chiều sâu đổi mới công nghệ. Vì vậy đây là lựa chọn tất yếu có tính khách quan. Cổ phần hóa là
một nội dung quan trọng trong công cuộc đổi mới vì nó đem lại nhiều lợi ích, chẳng hạn như: cổ
phần hóa thu hút được một nguồn vốn nhất định trong công nhân viên tại doanh nghiệp và ngoài
xã hội, tạo ra một động lực trong quản lý và phát huy tốt hơn tính sáng tạo, cần cù của người lao

động, việc làm của người lao động đảm bảo tốt hơn nên doanh thu lợi nhuận và các khoản nộp
ngân sách, tích lũy vốn của doanh nghiệp và chính thu nhập của người lao động sẽ tăng lên ….
Thực tế trong thời suốt quãng thời gian triển khai công tác cổ phần hóa cho thấy cổ phần
hoá là một biện pháp tích cực nhằm cải tổ lại khu vực các doanh nghiệp Nhà nước vì những kết
quả khả quan về mặt kinh tế, xã hội mà quá trình cổ phần hóa này đem lại. Và tất nhiên để có
được những kết quả đó là nhờ vào sự quan tâm, chú trọng thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp Nhà nước của Đảng, Nhà nước và Chính phủ thông qua việc ngày càng hoàn thiện
môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành cổ phần dễ dàng và gọn
nhẹ, có nhiều chính sách vĩ mô pháp triển kinh tế, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhất là luật kinh
doanh…Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được thì quá trình cổ phần hóa các doanh
nghiệp Nhà nước vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế, từ đó gây cản trở quá trình tiến hành cũng
như nâng cao hiệu quả của việc thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp này. Vì thế với đề tài
“Cổ phần hóa và đánh giá quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam”
nhóm chúng tôi sẽ tổng kết quá trình cổ phần hóa của các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam
trong thời gian qua và đưa ra những nhận định, đánh giá về quá trình này, từ đó tìm được những
- Trang 3 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
mặt hạn chế còn tổn tại để đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ
phần hóa trong thời gian tới.
I. LÍ LUẬN VỀ CỔ PHẦN HOÁ VÀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM:
1. Cổ phần hoá:
- Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng
nhau gọi là cổ phần. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ khác của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần
của mình cho người khác trừ trường hợp quy định tại khoản 3 điều 55 và khoản 1 điều 58 của
Luật Doanh nghiệp. Cổ đông có thể là tổ chức cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là 3, không
hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ phần được phép phát hành chứng khoán và có tư cách pháp
nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
- Như vậy, Cổ phần hóa là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu, biến doanh nghiệp một

chủ thành doanh nghiệp của nhiều chủ, tức là chuyển đổi hình thức sở hữu đơn nhất sang hình
thức sở hữu chung thông qua chuyển một phần tài sản cho người khác, cổ phần hóa có thể áp
dụng với tất cả các doanh nghiệp thuộc sở hữu của một chủ duy nhất. Vì thế doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều có thể cổ phần hóa.
2. Cố phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN):
2.1.Lý luận về DNNN:
2.1.1. Khái niệm:
- DNNN được định nghĩa ở điều 1 luật DNNN: “ Doanh nghiệp nhà nước
là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần,
vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thưc công ty nhà nước, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Định nghĩa này chứa đựng những thay
đổi cơ bản trong nhận thức của các nhà lập pháp và hoạch định chính sách đối
với các thành phần kinh tế. Như vậy việc xác định DNNN không hoàn toàn
dựa vào tiêu chí sở hữu như trước đây ( trước đây doanh nghiệp được Nhà
nước thành lập, đầu tư vốn, tổ chức quản lí được coi là DNNN trong đó sở
hữu được coi là tiêu chí cơ bản nhất); tiêu chí quyền chi phối được áp dụng
- Trang 4 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
trong luật DNNN năm 2003 là tiêu chí định lượng, tính chất định lượng thể
hiện ở phần vốn góp của Nhà nước trong toàn bộ vốn của doanh nghiệp. Như
vậy quyền kiểm soát được coi là tiêu chí cơ bản để xác định một doanh nghiệp
có phải là DNNN hay không, đây có thể coi là một bước tiến trong cách tiếp cận DNNN.
2.1.2. Vị trí và vai trò của DNNN trong nền kinh tế nhiều thành phần:
Sự hình thành và phát triển DNNN của mỗi quốc gia tuy có những đặc điểm riêng nhất
định, song có đặc điểm chung là thường tập trung vào những ngành, những lĩnh vực then chốt,
giữ vị trí vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Trải qua nhiều năm xây dựng và phát triển,
DNNN ở nước ta đã trở thành một lực lượng kinh tế hùng hậu, nhất là trong các ngành sản xuất
và dịch vụ quan trọng. Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của nước ta DNNN giữ vị
trí hàng đầu và vai trò chủ đạo được thể hiện ở các mặt sau:
- DNNN là lực lượng vật chất quan trọng, và là công cụ quản lý để Nhà nước định hướng

và điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Nhà nước điều tiết phát triển của các thành phần kinh tế
thông qua các hệ thống pháp luật, kế hoạch và chính sách, đồng thời sử dụng DNNN như là một
thực lực kinh tế, làm cơ sở đảm bảo cho những cân đối chủ yếu trong quá trình phát triển nền
kinh tế quốc dân.
- DNNN là một trong số các nguồn chủ yếu cung cấp tài chính cho ngân sách Nhà nước.
Nhờ có đóng góp to lớn về tài chính của các DNNN cho ngân sách, Nhà nước có thêm vốn đầu
tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật nhằm bảo đảm cung cấp các loại hàng hóa và
dịch vụ công cộng cho xã hội, góp phần tích cực vào nâng cao tốc độ và hiệu quả phát triển nền
kinh tế quốc dân.
- DNNN là nơi đặc biệt quan trọng thu hút viện trợ vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển
kinh tế xã hội của đất nước: Để đáp ứng nhu cầu to lớn về vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, cần tận lực khai thác các nguồn lực tài chính bên trong nước kết hợp thu hút nguồn nhân lực
bên ngoài. Thu hút tài trợ các nguồn vốn bên ngoài vào các lĩnh vực như khai thác than, dầu khí,
chế tạo hàng điện tử, ô tô, xe máy…
- DNNN gánh vác trách nhiệm nặng nề trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, DNNN là trung tâm tiêu biểu của khoa học, công nghệ, là tấm gương sáng về
quản lý, các doanh nghiệp không chỉ chịu phục vụ riêng cho mình, mà còn góp phần phổ biến
trang bị khoa học, công nghệ mới…. DNNN còn tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, cải
thiện cuộc sống, nâng cao văn hóa giáo dục, giảm sự chênh lệch thành thị và nông thôn…
- Trang 5 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
2.2. Cổ phần hoá DNNN:
2.2.1. Quan niệm về cổ phần hóa DNNN:
- Cho đến nay, trong nền kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển
kinh tế xã hội là không thể phủ nhận. Khi nền kinh tế thị trường phát triển kéo theo hạn chế là sự
khốc liệt và bất bình về mặt xã hội tăng lên. Để giảm bớt và kìm hãm những hạn chế trên, đồng
thời thực hiện chức năng quản lý của mình, Nhà nước sử dụng một công cụ hữu hiệu là bộ phận
kinh tế Nhà nước, mà trung tâm là các doanh nghiệp Nhà nước. Nhưng việc lạm dụng quá sức sự
can thiệp của khu vực kinh tế Nhà nước đã kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Từ đó vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để vừa phát triển kinh tế, vừa phát triển xã hội đồng thời

vai trò quản lý của Nhà nước vẫn được giữ vững.
- Do đó, hơn một thập kỷ qua, việc cổ phần hóa được coi như là giải pháp hữu hiệu để
khắc phục sự yếu kém trong kinh doanh của bộ phận doanh nghiệp Nhà Nước. Vậy cổ phần hóa
DNNN là gì, vai trò, đặc điểm của nó ra sao mà nhiều nước trên thế giới sử dụng nó trong công
tác quản lý kinh tế như vậy?
- Xét về mặt hình thức, thì cổ phần hóa DNNN là việc Nhà nước bán ra một phần hay
toàn bộ giá trị tài sản của mình cho cá nhân hay tổ chức kinh tế trong hoặc ngoài nước, hoặc bán
trực tiếp cho cán bộ, công nhân của chính doanh nghiệp Nhà nước thông qua đấu thầu trên thị
trường chứng khoán để hình thành các Công ty cổ phần.
- Như vậy, Cổ phần hóa DNNN là phương thức thực hiện xã hội hóa sở hữu-chuyển
hình thức kinh doanh từ một chủ sờ hữu DNNN thành công ty Cổ phần với nhiều chủ sỡ hữu,
chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo
các quy định trong Luật Doanh nghiệp, để tạo ra một mô hình doanh nghiệp phù hợp với nền
kinh tế thị trường và đáp ứng được nhu cầu của kinh doanh hiện đại.
2.2.2. Cơ sở lý luận:
- Về thực chất hình thức công ty cổ phần đầu tiên đã được C.Mac đánh giá và khái quát
một cách khách quan và khoa học. Sự ra đời của các công ty cổ phần là một bước tiến của lực
lượng sản xuất:
- Trang 6 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
 Chúng đã biến những người sỡ hữu tư bản thành những người sở hữu thuần tuý, một mặt
chỉ giản đơn điều khiển và quản lí tư bản của người khác, mặt khác là những nhà tư bản-
tiền tệ thuần tuý. Quyền sở hữu tư bản hoàn toàn tách rời chức năng của tư bản trong quá
trình tái sản xuất thực tế.
 Làm cho quy mô sản xuất được tăng lên, mở rộng, một điều mà đối với các doanh nghiệp
riêng lẻ rất khó thực hiện. Xuất hiện những tiền đề thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư
nhân ở ngay trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
thủ tiêu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở ngay trong lòng nó.
 Các công ty cổ phần là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của quá trình tái sản
xuất hiện còn gắn liền với quyền sỡ hữu tư bản đơn giản thành những chức năng của

những người sản xuất liên hợp, tức là thành những chức năng xã hội.
 Bên cạnh những thành công đó thì C.Mac cũng phân tích những hạn chế ( tiêu cực) của
các công ty cổ phần. C.Mac chủ yếu phân tích những ảnh hưởng của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, so sánh công ty cổ phần tư bản chủ nghĩa với công ty hợp tác của
công nhân. Dưới chủ nghĩa tư bản có thể hình thức sản xuất mới này sẽ đưa đến việc thiết
lập chế độ độc quyền và đưa đến sự can thiệp của Nhà nước
=>Như vậy sự xuất hiện của các công ty cổ phần theo lí luận của C.Mac là kết quả của sự phát
triển của lực lượng sản xuất và là bước tiến từ sở hữu tư nhân lên sở hữu tập thể của các cổ đông.
- Quá trình cổ phần hóa một bộ phận DNNN ở nước ta có nhiều nét đặc thù, đó là cổ
phần hóa một bộ phận doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, thuộc sở hữu xã hội, toàn dân. Mục
tiêu cơ bản của việc chuyển một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần là nhằm hoàn thiện quan
hệ sản xuất, phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả của
DNNN. Cụ thể là tìm một hình thức quản lí vừa phát huy quyền làm chủ của người lao động vừa
đảm bảo quản lí một cách có hiệu quả tài sản của doanh nghiệp.
- Chúng ta đã đưa ra nhiều hình thức công ty cổ phần nhưng có thể gói gọn trong hai
nhóm chính:
 Nhóm các công ty cổ phần trong đó Nhà nước có tham gia cổ phần như: Giữ nguyên giá
trị của doanh nghiệp kêu gọi thêm vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu, bán một phần
tài sản doanh nghiệp, cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp. Tất cả các hình thức cổ
phần hóa theo ba dạng trên thì Nhà nước hoặc là nắm giữ cổ phiếu khống chế (51%) hoặc
là không nắm giữ cổ phiếu khống chế.
- Trang 7 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
 Nhóm cổ phần hóa theo thể thức Nhà nước bán toàn bộ doanh nghiệp cho người lao động
nhằm rút vốn, đầu tư vào những ngành lĩnh vực quan trọng, then chốt, địa bàn quan
trọng. Không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm
của nền kinh tế.
- Dù tồn tại dưới bất kì hình thức nào thì công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp
đa sở hữu. khi người lao động tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp thì họ cũng đã gắn lợi ích
của bản thân vào lợi ích của doanh nghiệp, tạo ra sự giám sát tập thể đối với đối với quá trình

hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo ra cơ chế phân phối hài hòa giữa doanh nghiệp, Nhà nước và
người lao động. Nhờ đó mà hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp có điều kiện được nâng
lên.
- Như vậy có thể nói quá trình cổ phần hóa một bộ phận DNNN không phải là quá trình
tư nhân hóa. Bởi vì Nhà nước chỉ nắm giữ những ngành, những lĩnh vực cần thiết, vai trò chủ
đạo của khu vực kinh tế nhà nước không những không được củng cố mà còn có thể bị yếu đi nếu
cứ tiếp tục duy trì những doanh nghiệp hiệu quả thấp, năng lực cạnh tranh kém. Việc bán toàn bộ
tài sản chỉ được áp dụng đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ, những lĩnh
vực mà khu vực dân doanh hoàn toàn có thể làm tốt hơn DNNN. Nhà nước sẽ lựa chọn hình thức
bán phù hợp và nếu bán theo cách để cho người lao động có cổ phần ưu đãi hay cổ phần không
chia thì rõ ràng không thể nói đó là tư nhân hóa.
- Cổ phần hóa cũng xuất phát từ yêu cầu đổi mới DNNN. DNNN nắm giữ trong tay
những nguồn lực của nền kinh tế như tài nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Việc sử dụng lãng
phí, không hiệu quả cao các nguồn lực khan hiếm là một trong những nhân tố làm chậm tiến
trình phát triển kinh tế của nước ta. Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế nước ta trong những
năm qua không có nghĩa là nền kinh tế chúng ta đang vận hành trơn tru mà sự tăng trưởng cao đó
như các tổ chức kinh tế thế giới đã cảnh báo là do chúng ta có xuất phát điểm thấp. Hiện nay mối
quan hệ giưa nhà nước và các DNNN là không rõ ràng, để duy trì các doanh nghiệp làm ăn kém
hiệu quả Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các biện pháp trực tiếp và gián tiếp như : xóa nợ,
khoanh nợ, tăng vốn, ưu đãi tín dụng Và như vậy DNNN trở thành đối tượng “trợ cấp” của xã
hội, và xã hội trở thành chổ bấu víu cho các DNNN làm ăn thua lỗ. Theo báo cáo tổng kiểm kê
tài sản và xác định lại giá trị tài sản của DNNN thì thực trạng như sau: “Tổng giá trị tài sản của
DNNN theo sổ sách kế toán là 517.654 tỷ đồng, theo giá kiểm kê xác định lại là 527.256 tỷ
đồng; số nợ phải thu là 187.091 tỷ đồng chiếm 35% giá trị tài sản của doanh nghiệp, gấp 1,43 lần
- Trang 8 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
vốn kinh doanh; hàng hóa tồn kho là 45.688 tỷ đồng trong đó hàng ứ đọng, mất phẩm chất không
dùng đến là 1.600 tỷ đồng; doanh nghiệp có 1 đồng vốn thì phải vay hoặc chiếm dụng 1,2 đồng
cho kinh doanh, hệ số vốn vay và vốn chiếm dụng so với vốn sở hữu là 1,8 lần; tổng số nợ phải
trả là 353.410 tỷ đồng, bằng 2,3 lần vốn nhà nước cấp, gấp 2 lần nợ phải thu trong đó nợ quá hạn

phải trả là 10.171 tỷ” (theo báo cáo tổng kiểm kê tài sản và xác định lại tài sản DNNN tại thời
điểm 0 h ngày 01-01-2000).
- Yêu cầu đổi mới DNNN còn phát sinh sự từ cạnh tranh với khu vực kinh tế tư nhân
đang có những bước chuyển mình mạnh mẻ. Mặt khác trong quá trình hội nhập DNNN không
chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân trong nước mà còn cả với các doanh nghiệp khác
của nước ngoài. Cạnh tranh trên thị trường không chấp nhận sự bảo hộ của Nhà nước đối với các
doanh nghiệp của mình mà cạnh tranh bình đẳng đòi hỏi nhà nước không chỉ xóa độc quyền mà
cả bao cấp. Như vậy cổ phần hóa là một giải pháp tốt cho nền kinh tế nước ta nói chung cũng
như các DNNN nói riêng.
2.2.3. Cơ sở thực tiễn cổ phần hoá DNNN:
- DNNN có mặt ở hầu hết các nước trên thế giới, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa. Sự
tồn tại của DNNN ở các nước tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan . Khi mà những cuộc
khủng hoảng liên tục của chủ nghĩa tư bản vào những năm đầu của thế kỉ XIX đã chứng minh sự
sụp đổ của học thuyết bàn tay vô hình . Sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của nền kinh tế
là rất cần thiết để duy trì sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên sự phát triển
của DNNN ở nhiều nước đều vấp phải tình trạng chung là hiệu quả thấp, tham nhũng, lãng phí
Vì thế cải cách DNNN là một điều tất yếu. Có nhiều cách thức để cải cách DNNN nhưng tư nhân
hóa là biện pháp được sử dụng rộng rãi nhất và đem lại nhiều kết quả khả quan nhất. Tư nhân
hóa được tiến hành mạnh mẻ ở các nước có nền kinh tế phát triển mạnh như Hàn Quốc, Singapo,
Nam phi cũng như các nước đang phát triển và các nước phát triển và nó đang trở thành một xu
thế mang tính chất toàn cầu. Là một nước xã hôi chủ nghĩa, có điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
cũng gần giống với Việt Nam. Trung Quốc cũng tiến hành cải cách DNNN và thực tiễn cải cách
DNNN ở Trung Quốc đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý báu. Cải cách DNNN ở
Trung quốc được thực hiện khá rộng rãi và thành công, thực sự là một kinh nghiệm cho việc cải
cách DNNN mà không cần phải tư nhân hóa hàng loạt.
- Trang 9 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
- Phải nói rằng cụm từ “cổ phần “ đã rất quen thuộc từ hơn nhiều năm nay, kể từ khi
Đảng ta lập hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, lập cửa hàng xí nghiệp công tư hợp doanh
và đã được phát triển rộng khắp. Trước sức ép đẩy nhanh việc cổ phần hóa, một số địa phương

và DNNN đã tìm mọi cách để đạt được chỉ tiêu kế hoạch. Nếu chọn đơn vị kém hấp dẫn để cổ
phần hóa thì cổ phần hóa thường rất bế tắc vì xuất phát từ tâm lí chủ quan của mọi người là ai
cũng muốn bảo toàn lợi ích của mình, không ai muốn rủi ro vì thế không ai muốn bỏ vốn ra để
mua cổ phần. Bởi vậy để có thể suôn sẽ việc chọn đơn vị nào đang làm ăn được, đang có triển
vọng được coi là một giải pháp hữu hiệu dễ được cán bộ công nhân viên và người ngoài doanh
nghiệp chấp nhận việc mua cổ phần. Nếu chỉ là DNNN thuần túy thì cơ chế tài chính rất ngặt
nghèo, dù làm ăn có hiệu quả, lãi lớn thì tiền lương vẫn bị khống chế, không được tăng lên tương
ứng. Sự xuất hiện của công ty cổ phần đã phần nào khắc phục được những hạn chế đó. Nhưng
qua thực tế thì rõ ràng không phải cổ phần hóa là một phép màu làm cho các công ty cổ phần
bỗng nhiên phát đạt, bởi vì nếu không có sự “hỗ trợ” của các DNNN thì các công ty đó mất rất
nhiều hợp đồng kinh tế, mất việc làm và có thể dẫn đến sa sút ngay. Điều này càng chứng tỏ cổ
phần hóa làm sáng tỏ nhu cầu và nội dung đổi mới DNNN, đó là phải đồng bộ cả về sắp xếp cải
tiến hoạt động của doanh nghiệp và cơ chế chính sách đối với nó để đảm bảo động lực phát triển,
nhân tố kích thích sự hăng hái sáng tạo, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Các công ty thành viên hoặc bộ phận trong DNNN sau khi cổ phần hóa về nguyên tắc
coi như đã ra khỏi doanh nghiệp mẹ. Nhưng xét về thực chất thì công ty cổ phần mới vẫn gắn
chặt với công ty mẹ và thông thường không muốn rời bỏ quan hệ mật thiết trong hệ thống của
tổng công ty Nhà nước. Bởi vậy cổ phần hóa đã gợi mở mô hình tổng công ty đa sở hữu với
thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vai trò chủ đạo ở đây bắt nguồn từ khả năng chi
phối bằng sức mạnh kinh tế, từ lợi ích mà thành phần kinh tế chủ đạo dẫn dắt và mang lại cho
các thành phần kinh tế khác. Trong thực tế đã bắt đầu xuất hiện công ty đa sỡ hữu kiểu này ở một
vài DNNN có quy mô lớn nhưng mô hình này chưa được thể chế hóa và nhân rộng. Khi mô hình
này được phát triển thì sẽ ẩn chứa khả năng hình thành các công ty đầu tư hoặc kinh doanh tài
sản của Nhà nước, qua đó quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp sẽ chuyển thành quyền sở hữu
giá trị dưới hình thức phổ biến là cổ phiếu.
- Trong nền kinh tế thị trường các công ty cổ phần các, công ty TNHH, tư nhân đầu tư
mua chứng khoán của nhau, đan xen xâm nhập nhau tạo nên những hình thái doanh nghiệp đa sở
hữu, tách quyền sở hữu với quyền kinh doanh nhưng lại gắn kết các thành viên trong xã hội ở
- Trang 10 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13

hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói đây là xu hướng tích cực, ngày càng
phổ biến làm cho các thành viên trong nền kinh tế có thể hợp sức nhau lại tạo nên một động lực
mới cho tiến trình phát triển kinh tế của đất nước.
2.2.4. Mục tiêu của cổ phần hoá DNNN:
Mục tiêu cuối cùng cao nhất của cổ phần hoá một bộ phận DNNN là nhằm nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có thể rút ra cổ phần hoá nhằm giải quyết tập hợp
năm mục tiêu sau đây:
- Giải quyết vấn đề sở hữu đối với khu vực quốc doanh hiện nay. Chuyển một phần tài
sản thuộc sở hữu của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm xác định người chủ sở hữu
cụ thể đối với doanh nghiệp khắc phục tình trạng “vô chủ” của tư liệu sản xuất. Đồng thời cổ
phần hoá tạo điều kiện thực hiện đa dạng hoá sở hữu, làm thay đổi mối tương quan giữa các hình
thức và loại hình sở hữu, tức là điều chỉnh cơ cấu các sở hữu.
- Cơ cấu lại khu vực kinh tế quốc doanh cổ phần hoá một bộ phận DNNN sẽ thu hẹp khu
vực kinh tế quốc doanh về mức cần thiết hợp lí.
- Huy động được một khối lượng lớn vốn nhất định ở trong và ngoài nước để đầu tư cho
sản xuất kinh doanh thông qua hình thức phát hành cổ phiếu mà các doanh nghiệp huy động trực
tiếp được vốn để sản xuất kinh doanh.
- Hạn chế được sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan Nhà nước vào các hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tự do hoạt động phát
huy tính năng động trước những biến đổi thường xuyên của thị trường, vì sau khi cổ phần hoá
doanh nghiệp được tổ chức và hoạt động theo luật công ty.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán.
2.2.5. Các bước tiến hành cổ phần hoá DNNN:
Xét một cách tổng thể thì thông thường trình tự và nội dung các tiến hành cổ phần hoá một
DNNN bao gồm một số bước cơ bản sau:
Bước 1: Thành lập ban vận động cổ phần hoá doanh nghiệp.
• Ban vận động cổ phần hoá doanh nghiệp bao gồm các chuyên gia kinh tế kĩ thuật, các cán
bộ quản lý doanh nghiệp.
• Các chuyên gia của các nghành quản lý Nhà nước.
- Trang 11 -

GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
• Ban vận động cổ phần hoá do uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định thành lập và cử giám
đốc doanh nghiệp làm trưởng ban. Ban vận động có nhiệm vụ:
• Chuẩn bị phương án cổ phần hoá của chủ tịch hội đồng bộ trưởng về nội dung các bước
cổ phần hoá.
• Xây dựng luận chứng sơ bộ về cổ phần hoá.
Bước 2: Phân tích và tổ chức lại doanh nghiệp.
• Bước này nhằm làm rõ thực trạng về các mặt, những vấn đề đặt ra cần xử lý trước khi
tiến hành cổ phần hoá.
• Phân tích doanh nghiệp trên các mặt như kĩ thuật và công nghệ, tình hình tài chính, thị
trường.
• Tổ chức lại doanh nghiệp.
• Lập các phương án kinh doanh và lợi nhuận trong năm năm. Phương án kinh doanh và lợi
nhuận được xây dựng trên cơ sở các dự kiện về triển vọng của doanh nghiệp đã nêu.
Bước 3: Xác định trị giá của doanh nghiệp việc xác định giá trị của doanh nghiệp được tiến
hành theo trình tự sau:
• Xác định trị giá vốn của doanh nghiệp.
• Đánh giá lại vốn và trị giá tài sản trong diện cổ phần hoá.
• Phân tích phương án kinh doanh và lợi nhuận trong 5 năm tới.
• Xác định sơ bộ trị giá doanh nghiệp theo phương án lợi nhuận nêu trên.
• Đối chiếu kết quả này với các sổ sách có liên quan.
• Dự kiến trị gía doanh nghiệp và báo cáo lên hội đồng thẩm định xem xét trước khi trình
lên cấp trên có thẩm quyền quyết định.
• Xác định tổng số cổ phần và mệnh giá cổ phiếu.
Bước 4: Dự tính số cổ phiếu sẽ bán và vận động người mua.
Bước 5: Xác định giá bán thực tế cổ phiếu và tiến hành bán.
Bước 6: Họp đại hội cổ đông để làm các thủ tục thành lập công ty thông qua điều lệ đăng kí
tại doanh nghiệp.
2.3. Kinh nghiệm cổ phần hóa của một số nước trên thế giới:
2.3.1. Cổ phần hóa ở Trung Quốc:

- Trang 12 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
- Trung Quốc bắt đầu cổ phần hóa vào những năm 1980, họ đã gặt hái được nhiều kinh
nghiệm đáng chú ý.Từ ngày 22-25/8/1993, tại Hàng Châu, Chính phủ đã tiến hành hội nghị thảo
luận về 03 năm thực hiện cổ phần hóa. Chỉ tính 5 tỉnh của thành phố - Thẩm Dương, Thượng Hải
, Bắc Kinh,Quảng Châu, Thiểm Tây đã có trên 1500 xí nghiệp quốc doanh thực hiện cổ phần hóa
với số vốn lên tới hàng chục tỷ nhân dân tệ. Ngày 25/7/1984 thành lập công ty cổ phần của cả
nhà nước với số vốn cổ phần bên ngoài công ty lên tới 5.318.000 nhân dân tệ chiếm 73,6% tổng
giá trị của doanh nghiệp.
- Hình thức cổ phần hóa ở Trung Quốc có những đặc điểm sau:
 Cơ cấu cổ phần: Cơ cấu cổ phần của doanh nghiệp gồm : cổ phần nhà nước, cổ phần
người lao động trong doanh nghiệp và cá nhân ngoài doanh nghiệp.
 Chế độ cổ phần gồm 2 loại: Chế độ cổ phần hữu hạn trong đó vốn cổ phần của các xí
nghiệp này do những xí nghiệp nhà nứơc, tập thể và tư nhân góp; Chế độ cổ phần hỗn
hợp trong đó cổ phần của các xí nghiệp là sự hỗn hợp cổ phần trong nội bộ và cổ phần
ngoài xã hội, chúng bao gồm cổ phần nhà nước, cổ phần xí nghiệp, cổ phần các tổ chức
kinh doanh và cổ phần cá nhân.
 Xác định cổ phần hóa: Việc xác định cổ phần hóa nhằm làm rõ vai trò sở hữu của người
sở hữu cổ phần. Căn cứ vào vốn đầu tư để chia quyền sở hữu cổ phần. Tổng số cổ phần
đựơc chia làm 4 loại: Cổ phần nhà nứơc,cổ phần nói chung, cổ phần xã hội,cổ phần cá
nhân. Cổ phần nhà nứơc chủ yếu hình thành do đầu tư đầu tư của nhà nước vào những xí
nghiệp thuộc sở hữu toàn dân, bao gồm: Tài sản cố định, vốn lưu động do nhà nước cấp.
Cổ phần nói chung chỉ là tài sản hình thành từ lợi nhuận để lại cho xí nghiệp. Cổ phần xã
hội là cổ phần mà các tầng lớp xã hội ở ngoài xí nghiệp mua. Cổ phần cá nhân mà công
nhân trong xí nghiệp và nhân dân mua từ thu nhập cá nhân từ nguồn vốn nhàn rỗi của họ.
 Về phân phối lợi nhuận: Lợi nhuận hình thành trứơc hết phải trả các khoản vay của ngân
hàng, sau đó căn cứ vào các luật thuế để nộp các loại thuế cho Nhà nước phần lợi nhuận
còn lại phân phối cho các quỹ, căn cứ vào số lượng các quỹ và tỷ lệ cụ thể cho mỗi quỹ
do Hội đồng quản trị quyết định căn cứ vào những quy định có liên quan của Nhà nước.
- Trang 13 -

GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
 Về phân phối lợi tức cổ phần: Cơ bản đều căn cứ vào tỷ lệ cổ phần để chia lợi tức được
hưởng khi hoạt động kinh doanh có lãi và chịu thiệt hại tổn thất khi thua lỗ. Lợi tức được
phân chia dưới dạng một khoản thu nhập cố định hoặc dưới dạng biến động phụ thuộc
vào khối lượng lợi nhuận thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh.
2.3.2. Một số nước khác:
- Tại mỗi nước khác nhau được hình thành bằng các con đường khác nhau và mức độ
cũng khác nhau cụ thể như sau:
 Bán các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, kể cả các doanh nghiệp Nhà nước đất, rừng, tài
nguyên thuộc về sở hữu của Nhà nước. Điển hình phương thức này là Úc.
 Thực hiện cải cách kinh tế nhưng không chấp nhận loại bỏ sở hữu Nhà nước , Ấn Độ và
Hàn Quốc là những nước thực hiện phương thức này.
 Chấp nhận xóa bỏ quyến ở hữu Nhà nước. Các nước thực hiện cổ phần hóa theo khuynh
hướng nay là Philippin và Xrillanca. Người ta cho rằng quyền sở hữu Nhà nước hay tư
nhân không quan trọng họ chỉ cần doanh nghiệp nào mang lại lợi ích thiết thực cho các
thành viên trong doanh nghiệp đó và xã hội đó.
- Dù còn nhiều khác biệt song các bước tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà
nước ở hầu hết các nước nói trên đều có những nét tương đồng:
 Lập kế hoạch cổ phần hóa bao gồm: Đánh giá thực trạng và tiềm năng của doanh nghiệp,
đề xuất loại hình mà doanh nghiệp thích hợp.
 Thực hiện xem xét các khía cạnh luật pháp những văn bản luật nào liên quan trực tiếp
đến loại hình hoạt động của doanh nghiệp. Các hợp đồng mà xí nghiệp đã đăng ký thực
hiện chúng đến đâu, vấn đề tổ chức và quản lý sản xuất cả trước và sau khi cổ phần hóa.
Các quan hệ công việc, đặc biệt là các vấn đề liên quan tới hợp đồng công việc. Các vấn
đề về vốn kể cả vốn cố định và vốn lưu động, những khoản tín dụng nguồn vốn và khả
năng, năng lực sản xuất của donah nghiệp và các vần đề liên quan. Vân đề cuối cùng là
về thuế và vấn đề tài chính cần xử lý doanh nghiệp đã giải quyết đến đâu và còn những
vướng mắc gì.
- Trang 14 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13

2.3.3. Một số điều rút ra từ cổ phần hóa ở một số nước trên thế giới:
- Sự phát triển ồ ạt doanh nghiệp Nhà nước và không xác định được quy mô hợp lý của
khu vực này là một gánh nặng cho kế hoạch đầu tư ở nhiều nước điều này vượt quá sức chịu
đựng của nhiều nề kinh tế. Bởi vậy cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là điều không thể tránh
khỏi.
- Để tiến hành cô rphần hóa co hiệu quả ở các nước hầu hết người ta lập các Ủy ban cơ
quan chuyên trách quốc gia, cơ quan đó phải gồm những người được giao thực quyền.
- Hình thức cổ phần hóa rất phong phú cách làm nhiều nươc rất mềm dẻo dễ chấp nhận
trong điều kiện có nhiều giới còn e ngại hoặc chống đối. Những bài học kinh nghiệm có thể rút
ra từ việc nghiên cứu cổ phần hóa ở các nước trên thế giới là:
 Cổ phần hóa phải được nghiên cứu toàn diện. Nó không phải là mục đích tự thân mà là
một bộ phần trong một chương trình cải cách rộng lớn hơn. Nhằm thúc đẩy bố trí tốt hơn
các nguồn lực, khuyến khích cạnh tranh tạo môi trường thuận lợi cho phát tỉển kinh tế,
phát triển thị trường vốn.
 Việc nghiên cứu thiếu thận trọng các phương án lựa chọn trước khi hành động có thể dẫn
đến những sai sót tốn kém nhiều, chương trình bán xí nghiệp mới chỉ chú trọng đến hiệu
quả thu hồi trước mắt nhưng lại chưa quan tâm tìm cách bảo đảm tài chính lâu dài.
 Trong trường hợp thị trường vốn chưa phát triển thậm chí còn yếu kém thì việc cổ phần
hóa cần phải thận trọng và phải cụ thể hóa trong chủ trương bán một phần tài sản, điều
kiện tài chính là tiên quyết. Nhiều nước đã thu hẹp thị trường tài sản của mình bằng cách
giới hạn hoặc loại trừ sự tham gia của người nước ngoài. Xây dựng một chiến lược cổ
phần hóa và phân loại xí nghiệp quốc doanh là bước cần thiết để làm sáng tỏ mục tiêu và
quan điểm của Nhà nước.
 Việc cổ phần hóa yêu cầu phải có các cán bộ có trình độ quản lý một công trình cổ phần
hóa là công việc phức tạp trong khi các quan chức Chính phủ chưa có đầy đủ các năng
lực cần thiết. Mặt khác Nhà nươc thường ở thế yếu trong thương lượng, các xí nghiệp
không hấp dẫn, lại thiếu thông tin, thiếu kinh nghiệm trong việc bán tài sản. Trong những
trường hợp như vậy thường thấy là tài sản bị đánh gía thấp hơn giá trị thực tế của nó.
- Trang 15 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13

Cuối cùng điều cần phải có là sự công khai và lòng tin tưởng của quần chúng đối với
chương trình cổ phần hóa
II. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC
TA:
1. Quá trình tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và kết quả ban đầu:
- Ở nước ta, DNNN được hình thành từ sau Cách mạng Tháng Tám và phát triển mạnh
sau khi đất nước thống nhất. DNNN đã từng giữ vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế –
xã hội, nhất là đóng góp to lớn vào thắng lợi chung của toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh
bảo vệ Tổ quốc.
- Tuy nhiên, bước sang thời kỳ đổi mới, cùng với sự phát triển kinh tế chung của cả nước,
trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, hầu hết các DNNN không những đã không kịp chuyển
mình để đáp ứng được yêu cầu mới đặt ra, mà còn bộc lộ nhiều yếu kém như: quy mô sản xuất
kinh doanh nhỏ bé, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ quản lý non kém; tổ chức, bộ máy cồng
kềnh; cơ chế quản lý trong các doanh nghiệp chưa hợp lý, kém hiệu quả; khả năng cạnh tranh
yếu trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp sắp xếp, đổi mới
và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước nhằm phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, cổ phần hóa DNNN
được coi là một giải pháp quan trọng để giảm bớt số lượng DNNN không cần nắm, nâng cao
hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này, tăng cường huy động vốn đầu tư từ xã
hội…
- Cổ phần hóa DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có nhiều tác động
đến sự phát triển kinh tế của đất nước, đời sống người lao động và những vấn đề xã hội khác nên
được tiến hành một cách thận trọng với những bước thí điểm ban đầu vào năm 1990 trên cơ sở
pháp lý là Quyết định số 143/HĐBT ngày 10-5-1990. Sau đó, Chính phủ đã ban hành nhiều Chỉ
thị, Nghị quyết về vấn đề này, như: Chỉ thị số 202 ngày 6-8-1992; Chỉ thị số 84 ngày 4-3-1993
- Trang 16 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
của Thủ tướng Chính phủ; Nghị định số 28/NĐ-CP ngày 7-5-1996; Nghị định số 25/CP ngày 26-
3-1997; Thông báo số 63 TB/TW ngày 4-4-1997 của Bộ Chính trị; Nghị định số 44/NĐ-CP ngày

29-6-1998; Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19-6-2002…và mới đây là Chỉ thị số 45 ngày 22-
10-2004 của Bộ Chính trị đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 3, khóa IX về sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN.
- Quá trình tiến hành cổ phần hóa các DNNN đã trải qua một số giai đoạn sau:
1.1. Giai đoạn trước năm 2002 ( thời kỳ thí điểm và hậu thí điểm):
- Từ năm 1992 đến tháng 6 năm 1998. Những doanh nghiệp tự nguyện và làm ăn có lãi
được lựa chọn để thí điểm tiến hành cổ phần hóa. Trong giai đoạn này, cả nước cổ phần hóa
được 30 doanh nghiệp, trong đó 5 doanh nghiệp được cổ phần hóa theo cơ chế, chính sách thí
điểm quy định tại Quyết định số 202/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, 25 doanh nghiệp
được cổ phần hóa theo cơ chế chính sách của Nghị định 28/CP của Chính phủ.
- Giai đoạn từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 2-6-1998 đến
ngày 31-12-1999. Trong thời gian này, có thêm 340 DNNN và bộ phận DNNN được cổ phần
hóa. Riêng năm 1999 có 250 doanh nghiệp, gấp 8 lần so với 7 năm trước cộng lại. Nhìn chung,
đến thời điểm này, chủ trương cổ phần hóa của Nhà nước đã được các ngành, các bộ, địa phương
nhận thức đầy đủ hơn. Bản thân người lao động cũng có phần yên tâm hơn, vì thế công tác cổ
phần hóa DNNN đạt được nhiều tiến bộ so với thời kỳ trước.
- Giai đoạn từ tháng 1 năm 2000 đến 31/12/2001. Đến thời gian này điều đáng chú ý là
có Nghị quyết trung ương 3, khóa IX vào tháng 8 năm 2001 trong đó chủ trương đẩy mạnh cổ
phần hóa những DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để
tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN.
1.2. Giai đoạn từ năm 2002 – 2005:
- Như đã đề cập trong giai đoạn trước, Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX họp về DNNN và ra Nghị quyết của Trung ương Đảng về
việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN. Để triển khai Nghị quyết
trung ương này, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 04/2002/CT-TTg ngày 08 tháng 02 năm 2002
về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN, và Chính phủ ra Nghị
- Trang 17 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 về chuyển DNNN thành công ty cổ phần.
Theo Nghị định này có một số hình thức cổ phần hóa sau:

1. Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
2. Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
3. Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
4. Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
- Đối với cổ phần phát hành lần đầu, các nhà đầu tư trong nước được phép mua không
hạn chế. Các nhà đầu tư nước ngoài không được phép mua quá 30%.
- Theo chủ trương này, tính đến cuối năm 2003 đã có 979 DNNN được cổ phần hóa,
riêng năm 2003 đã cổ phần hóa được 611 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp. Năm 2004 cổ
phần hóa được 715 doanh nghiệp và là năm đầu tiên hoàn thành nhiệm vụ đề ra. Như thế, tính
đến hết năm 2004 cả nước đã có 2.242 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hóa.
- Theo Ban Chỉ đạo đổi mới doanh nghiệp, từ năm 2005, quá trình cổ phần hóa bắt đầu
thực chất, triệt để, vững chắc và có hiệu quả hơn. Đến năm 2005 còn lại khoảng 1200 doanh
nghiệp tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước. Toàn bộ số doanh nghiệp không thuộc diện Nhà
nước nắm giữ 100% vốn (khoảng 1400 doanh nghiệp) sẽ được tiếp tục cổ phần hóa. Trường hợp
không thể cổ phần hóa được thì các doanh nghiệp sẽ được chuyển sang xử lý theo các phương án
như giao, bán, giải thể, phá sản. Quá trình sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN đã góp
phần giảm mạnh số lượng DNNN, cải thiện cơ cấu DNNN theo hướng tích cực, đó là, DNNN
chỉ nắm giữ những ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt, không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn
trong tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Có thể khẳng định do thực hiện tốt chủ trương
này, tốc độ cổ phần hóa DNNN ngày càng được đẩy nhanh. Kết quả là tính đến ngày 31/12/2005,
cả nước đã cổ phần hóa được 2.935 DNNN. Trong đó, nếu phân theo loại ngành thì các DNNN
được cổ phần hóa thuộc các ngành công nghiệp, giao thông, xây dựng chiếm 66,0% ; ngành
thương mại, dịch vụ chiếm 27,6%; ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 6,4%. Nếu phân theo chủ
sở hữu, các DNNN được cổ phần hóa thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chiếm
61,7%; thuộc các Bộ, ngành chiếm 29%; thuộc các tổng công ty 91 chiếm 9,3%. Nếu phân theo
quy mô vốn, doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm 54,0%; từ 5-10tỷ đồng chiếm
23,0%; trên 10 tỷ đồng chiếm 23,0%.
- Trang 18 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
- Nhìn chung, quá trình cổ phần hóa DNNN giai đoạn này đã thu được những kết quả

đáng khích lệ về mặt kinh tế – xã hội. Theo báo cáo của các Bộ, ngành địa phương về kết quả
hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hóa đã hoạt động trên một năm cho thấy: vốn điều lệ
bình quân tăng 44%; doanh thu bình quân tăng 23,6%; lợi nhuận thực hiện bình quân tăng
139,76%; trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hoạt động kinh doanh có lãi; nộp ngân sách
bình quân tăng 24,9%; thu nhập của người lao động bình quân tăng 12%; số lao động tăng bình
quân 6,6%; cổ tức bình quân đạt 17,11%. Các DNNN cổ phần hóa đã góp phần làm giảm gánh
nặng của Nhà nước phải bao cấp, bù lỗ hằng năm. Hơn thế, trong quá trình cổ phần hóa, nợ xấu
của doanh nghiệp nhà nước cũng được xử lý một cách cơ bản; đồng thời, chấm dứt xu hướng
thành lập DNNN một cách tràn lan. Trong các DNNN được cổ phần hóa, vai trò làm chủ của
người lao động – cổ đông được nâng lên rõ rệt, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.3. Giai đoạn từ 2006-2010:
- Theo số liệu báo cáo của Bộ Tài chính, tính tới hết tháng 15/12/2010, cả nước đã thực
hiện sắp xếp được 5.846 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp. Trong đó, cổ phần hóa được
3.944 doanh nghiệp (chiếm 67%), còn lại 1.932 doanh nghiệp (chiếm 33%) thực hiện các hình
thức sắp xếp khác như: chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, sáp nhập, hợp
nhất, giao bán, khoán 1.902 doanh nghiệp Trong 3.944 doanh nghiệp cổ phần hóa có 2.294
doanh nghiệp địa phương (chiếm 58,2%); 1.196 doanh nghiệp khối bộ, ngành (chiếm 30,3%);
453 doanh nghiệp khối tập đoàn, tổng công ty (chiếm 11,5%).
- Từ năm 2007, ước tính chỉ có 82 DNNN được cổ phần hóa, chỉ đạt 21% chỉ tiêu kế
hoạch mà Thủ tướng Chính phủ đề ra. Năm 2008, cả nước chỉ cổ phần hoá được 74 DNNN, bằng
25% kế hoạch đề ra. Năm 2009, thực hiện sắp xếp được 105 doanh nghiệp. Trong đó, cổ phần
hóa 60 doanh nghiệp, bộ phận doanh nghiệp, đạt 8,4% kế hoạch giai đoạn 2009 - 2010. Có thể
nhận thấy, tiến độ cổ phần hóa trong năm 2009 là rất chậm so với kế hoạch đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt. Năm 2010, chỉ có thêm 144 DNNN được cổ phần hóa.
- Một trong những nguyên nhân làm chậm quá trình cổ phần hóa là tình trạng can thiệp
của các cơ quan công quyền, cụ thể là việc hành chính hóa quan hệ kinh tế vào tiến trình cổ phần
hóa DNNN, cũng như hệ thống văn bản hành chính, thủ tục rườm rà, chồng chéo. Thêm vào đó
nền kinh tế thế giới và trong nước suy giảm cũng đã ảnh hưởng dến quá trình cổ phần hóa. Bản
- Trang 19 -

GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
thân thị trường chứng khoán từ năm 2008 đến nay gặp rất nhiều khó khăn, giá cổ phiếu sụt giảm,
vì vậy, chính các công ty không dễ dàng để tìm được nhà đầu tư mua cổ phần, trong đó có cả cổ
đông chiến lược và nếu có thì lại đòi mua với giá thấp. Mặc dù Chính phủ vẫn chỉ đạo các doanh
nghiệp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa nhưng không phải bằng mọi giá, vì như thế vô hình
trung là có hại chứ không phải có lợi cho doanh nghiệp.
2.Đánh giá tình hình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam:
2.1. Kết quả đạt được trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp:
- Đánh giá về công tác sắp xếp, cổ phần hóa DNNN thời gian qua, Bộ Tài chính cho rằng,
về cơ bản, công tác cổ phần hóa các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đã góp phần hoàn thiện
và phát triển các yếu tố thị trường (đặc biệt là thị trường chứng khoán), tạo điều kiện cho doanh
nghiệp sau khi cổ phần hóa huy động vốn, đổi mới phương thức quản lý, công nghệ, gắn kết
người lao động, ổn định và phát triển trong xu thế hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế thế
giới.
- Lao động dôi dư ở các đơn vị cổ phần hóa tiếp tục được hưởng chính sách trợ cấp;
được hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại nghề để bố trí việc làm mới tại doanh nghiệp hoặc tự họ thu xếp
công việc mới đã góp phần đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, cổ phần hóa, duy trì ổn định xã hội.
Việc hình thành Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) để thực hiện chức
năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa thuộc các bộ,
địa phương là bước tiến trong cải cách phương thức quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp,
hướng tới xóa bỏ việc can thiệp hành chính đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp; góp phần đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp và nâng cao hiệu
quả quản lý và sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp theo đúng định hướng chỉ đạo của
Đảng và Chính phủ. Việc cổ phần hóa các Tổng công ty nhà nước và doanh nghiệp quy mô lớn
đã tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp này đổi mới phương thức quản lý, huy động vốn đầu tư,
thu hút các nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước, nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều
kiện hội nhập.
- Về phía Nhà nước, không những có được nguồn thu lớn để tập trung đầu tư phát triển
sản xuất mà còn tác động mạnh mẽ trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy thị trường
chứng khoán, thị trường vốn trong nước phát triển. Mặc dù trong giai đoạn 2007 - 2010, số lượng

DNNN thực hiện sắp xếp cổ phần hóa còn thấp (khoảng 280 doanh nghiệp), tuy nhiên những
- Trang 20 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
doanh nghiệp này lại là những doanh nghiệp có quy mô vốn lớn, chiếm 49% tổng số vốn nhà
nước tại các doanh nghiệp cổ phần hóa tính đến thời điểm này.
2.2. Những tồn tại xung quanh quá trình cổ phần hóa:
- Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình sắp xếp, cổ phần hóa DNNN còn một số
vấn đề đặt ra, trong đó đáng chú ý là về cơ chế cổ phần hóa DNNN hiện nay đã bộc lộ một số
điểm cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh cho phù hợp với thực tiễn:
 Hạn chế lớn nhất của việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa là tốc độ cổ phần hóa còn
chậm: Số DNNN được cổ phần hóa chỉ đạt vẻn vẹn 21% và 28% kế hoạch của năm 2007
và năm 2008 là một minh chứng rõ nét nhất cho sự chậm chạp và do dự này. Tình trạng
cổ phần hóa chậm có nhiều nguyên nhân. Trong đó, một nguyên nhân cơ bản và trước hết
là do những tác động bất lợi từ sự suy thoái của nền kinh tế và thị trường chứng khoán
Việt Nam trong những năm gần đây. Thực tế cho thấy, mọi tính toán của các nhà thiết kế
thị trường chứng khoán Việt Nam đều bị đảo lộn. Còn một nguyên nhân quan trọng nữa
đó là: đối với các cơ quan chủ quản và các địa phương, tâm lý sợ mất các đặc quyền đặc
lợi cũng như các quyền lực đối với DNNN như đề bạt, bổ nhiệm nhân sự khi cổ phần
hóa cũng là một rào cản không nhỏ trong việc thực hiện cô phẩn hóa các doanh nghiệp.
Thêm vào đó không ít Bộ, ngành, địa phương, Tổng công ty chưa quán triệt sâu sắc và
chấp hành quyết định cổ phần hóa, thiếu chương trình, kế hoạch cụ thể chỉ đạo thực hiện
song Nhà nước lại chưa có chế tài xử lý. Sự phối hợp giữa các Bộ ngành, địa phương
trong việc xử lý các khó khăn vướng mắc về tài chính, tài sản, xử lý đất đai khi xác định
giá trị doanh nghiệp, về quản lý phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp sau cổ phần hóa
cũng chưa được thực hiện đồng bộ, triệt để và kịp thời
 Việc thực hiện cổ phần hóa chưa được thực hiện đều khắp trong các lĩnh vực: Công tác
cổ phần hóa mới chỉ tập trung ở các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp, thương mại
và xây dựng, còn số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa trong các lĩnh vực khác vẫn ít. Trên
thực tế, cũng chưa đặt ra vấn đề cần cổ phần hóa các DNNN có quy mô lớn hay một số
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước nhưng lại đang hoạt động trên những địa bàn không

thật sự cần thiết. Các doanh nghiệp được cổ phần hóa chủ yếu là những doanh nghiệp vừa
và nhỏ (có 1.372 doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỉ đồng, chiếm 59,2% số doanh nghiệp cổ
- Trang 21 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
phần hóa). Vì thế, chưa đem lại những tác động tích cực và toàn diện cho nền kinh tế
quốc dân.
 Tính hiệu quả trong hoạt động của một số DNNN sau khi cổ phần hóa không cao: Cổ
phần hóa là nhằm đưa các DNNN đạt được hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao, tăng khả
năng cạnh tranh trên thương trường. Tuy vậy, vì một số khó khăn mà các doanh nghiệp
cổ phần hóa vấp phải như đã trình bày ở trên, nên nếu đánh giá thật khách quan thì hiệu
quả hoạt động của những doanh nghiệp đã cổ phần hóa chưa cao, chưa tạo ra được những
bước ngoặt như mong muốn. Chủ yếu các doanh nghiệp đã cổ phần hóa mới chỉ tập trung
vào việc tiết kiệm chi phí, giảm giá thành để tăng lợi nhuận chưa kể được ưu tiên giảm và
miễn thuế 2 năm đầu. Thực tế hoạt động của nhiều doanh nghiệp cổ phần hóa vẫn cầm
chừng, phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn của Nhà nước hiện có tại các doanh nghiệp và vay
vốn ngân hàng vì phần vốn huy động qua phát hành cổ phiếu nhỏ bé (chiếm 15,1%),
không thực sự thu hút được những nhà đầu tư chiến lược. Cũng chính vì vậy, đầu tư cho
đổi mới công nghệ ở các công ty cổ phần hóa diễn ra chậm chạp và các công ty này ít có
khả năng mở rộng sản xuất, kinh doanh trên quy mô lớn một cách có hiệu quả. Ngoài ra,
cách thức quản lý trong những công ty cổ phần hóa hiện cũng còn nhiều bất cập giữa mối
quan hệ của cơ quan chủ quản, hội đồng quản trị, giám đốc… làm hạn chế tính năng
động, sáng tạo để nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
 Cơ chế chính sách cho doanh nghiệp sau cổ phần hóa chưa đầy đủ, việc thực hiện chính
sách đối với người lao động còn có những bất cập. Vì thế chưa thật sự tạo điều kiện
khuyến khích các DNNN chuyển thành công ty cổ phần: Khi chuyển từ cơ chế DNNN
sang hoạt động theo luật Doanh nghiệp thì không ít cán bộ quản lí vẫn điều hành công ty
theo phương thức điều hành hoạt động của DNNN, chưa chuyển sang điều lệ và luật công
ty, lúng túng trong cách xác định cơ cấu tổ chức bộ máy công ty và cơ chế hoạt động của
công ty cổ phần. DNNN sau khi cổ phần hóa bị kì thị, phân biệt đối xử như: khó vay vốn,
bị chính các công ty mẹ cạnh tranh, chèn ép Ngoài ra, quan hệ tài chính sau khi cổ phần

hóa thiếu minh bạch, thủ tục định giá trị doanh nghiệp nói chung còn rườm rà, thường
kéo dài, định giá trị doanh nghiệp thường thấp hơn thực tế gây tổn thất không nhỏ cho
Nhà nước. Vẫn còn hiện tượng cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu tự do không đúng luật
và điều lệ mà công ty không kiểm soát được. Chưa có hướng dẫn quy chế tài chính, chính
sách tiền lương nên nhiều doanh nghiệp vẫn vận dụng cơ chế chính sách của DNNN. Và
- Trang 22 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
thực tế nhiều doanh nghiệp không đủ kinh phí để giải quyết chính sách cho người lao
động, chính vì vậy số lượng lao động được giải quyết chế độ sau khi DNNN chuyển
thành công ty cổ phần vẫn còn rất thấp. Đây cũng chính là một trong những rào cản chính
trong tiến trình cổ phần hóa DNNN.
 Sự chỉ đạo của các cấp còn thiếu sự kiên quyết và chưa sâu sát kịp thời: còn nặng về kêu
gọi động viên chung chung, chưa đi sâu khảo sát tình hình, chưa xây dựng chương trình,
đề án có căn cứ và khả thi cho từng doanh nghiệp cụ thể với tiến độ, lộ trình, bước đi.
Chưa kiểm tra, đánh giá và có biện pháp tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc
phát sinh. Công tác tổng kết, đúc rút kinh nghiệm và nhân rộng những mẫu hình tiên tiến
về cổ phần hóa ở các địa phương chưa được quan tâm chỉ đạo tích cực, chưa có sức
thuyết phục rộng rãi.
 Công tác tuyên truyền, vận động cung cấp những kiến thức cần thiết về quá trình cổ
phần hóa vẫn còn bị xem nhẹ nên chưa tạo ra được sự quan tâm hưởng ứng tích cực của
xã hội. Một số cán bộ, công nhân chưa có được những hiểu biết cần thiết về công ty cổ
phần do đó còn do dự, chưa thực sự ủng hộ và tham gia tích cực vào các công ty cổ phần
nên đã gây ra lãng phí đáng tiếc về nguồn lực, làm chậm tiến trình cổ phần hóa. Tỷ lệ bán
cổ phần trong xã hội còn thấp và chưa thành quy định bắt buộc, cổ phần hóa còn mang
tính nội bộ. Toàn bộ quá trình cổ phần hóa không được công khai trên các phương tiện
thông tin đại chúng, thiếu những quy định bắt buộc phải công bố không khai từng bước
cổ phần hóa, nhất là đối với các doanh nghiệp có nhiều lợi thế kinh doanh. Bên cạnh đó
pháp luật còn khống chế tỉ lệ tối đa được mua cổ phần, đối với cá nhân là không quá 5-
10%, đối với pháp nhân không quá 10-20%. Đây chính là những hạn chế trong việc mua
cổ phần của người lao động lẫn các cá nhân, các tổ chức kinh tế, xã hội muốn đầu tư vào

doanh nghiệp.
 Những hạn chế, trì trệ từ phía các DNNN: nhiều giám đốc DNNN tìm cách né tránh, trì
kéo cổ phần hóa vì sợ mất đặc quyền, đặc lợi đang có. Nhiều công nhân không muốn cổ
phần hóa vì nhiều rủi ro và dễ mất việc làm Nhiều DNNN tuy đã được chỉ định cổ phần
hóa nhưng đang rối bời bởi nợ phải trả, nợ khó đòi, kĩ thuật công nghệ lạc hậu, trình độ tổ
chức quản lí còn yếu kém nên chưa thể tiến hành cổ phần hóa ngay được.
- Trang 23 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
- Nhìn chung, với tư cách là hình thức chuyển đổi sở hữu DNNN, việc cổ phần hóa chậm
đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình sắp xếp lại DNNN ở nước ta, ảnh hưởng không nhỏ tới
những chỉ tiêu chung của nền kinh tế.
3. Thách thức:
- Các yêu cầu cơ bản cần phải đạt được trong quá trình cổ phần hóa
 Cơ cấu lại DNNN, giảm dần số lượng, nâng chất lượng doanh nghiệp mà Nhà nước giữ
100% vốn. Chủ động tập trung vào một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng và sản xuất tư liệu sản
xuất và dịch vụ công ích quan trọng của nền kinh tế, những lĩnh vực dân doanh chưa làm
được.
 Theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì DNNN là doanh nghiệp mà trong đó Nhà nước
sở hữu trên 50% vốn điều lệ. Vì vậy, DNNN có các hình thức sau: Công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên là Nhà nước, 2 thành viên trở lên mà Nhà nước là thành viên chi
phối; Công ty cổ phần Nhà nước giữ trên 50% vốn, nếu là tổng công ty thì đó là tổng
công ty do Nhà nước đầu tư hoặc là tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ –
con mà trong đó công ty mẹ nhất thiết là công ty nhà nước hoặc là công ty cổ phần Nhà
nước giữ cổ phần chi phối.
 Thúc đẩy hình thành được một số tập đoàn kinh tế mạnh, có tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Nhưng đó là các tập đoàn đa sở hữu, đa ngành nghề, đa quốc gia mà Nhà nước giữ cổ
phần chi phối
 Chuyển đổi DNNN sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp phải làm cho chúng mạnh
hơn, phải là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết vĩ mô. Thời gian chuyển
đổi đã được xác định là 4 năm.

- Để đáp ứng được 4 yêu cầu cơ bản trên quá trình chuyển đổi, phải vượt qua những
thách thức lớn sau đây:
1. Thách thức lớn nhất đối với các mô hình là hệ thống pháp lý chưa hoàn
thiện, nhất là các quy định cho quá trình chuyển đổi tổng công ty, công ty lớn sang hoạt động
theo mô hình công ty mẹ – công ty con. Đặc biệt là các tổng công ty ở Việt Nam hầu hết các
tổng công ty ra đời trên cơ sở hợp nhất các công ty độc lập.
- Trang 24 -
GVHD:TS.Diệp Gia Luật Nhóm 13
Sau một thời gian hoạt động, văn phòng tổng công ty (cơ sở để xây dựng công ty mẹ)
phần lớn là điều hành hành chính, thực lực kinh tế yếu, lao động lại dư thừa nhiều, năng lực kinh
doanh của đội ngũ cán bộ văn phòng phần lớn là thiếu năng động.
Mô hình tập đoàn đang là "mốt" hiện nay, mặc dầu trong chủ trương đang chỉ đạo thí
điểm, nhưng nhìn chung còn lúng túng, chưa có văn bản pháp quy gì cụ thể ngoài Điều 149 của
Luật Doanh nghiệp. Để tập đoàn kinh tế mạnh, điều quan trọng nhất là cơ chế cho tập đoàn, nhất
là cơ chế tài chính và cơ chế quản lý cán bộ. Nếu không thì chẳng khác gì tổng công ty được
khoác cái tên gọi là "tập đoàn".
Mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Nhà nước đã được quy định rõ,
nhưng phần lớn các lãnh đạo doanh nghiệp không hào hứng, ngoại trừ trường hợp không muốn
cổ phần hóa và lại không còn hình thức nào khác thì chấp nhận chuyển sang hình thức này.
Công ty cổ phần mà các cổ đông là DNNN hoặc có vốn góp của Nhà nước trên 50% (mới
thành lập) đang đặt ra "dấu hỏi" lớn, nhất là vấn đề vốn góp. Phần lớn các công ty cổ phần khi
thành lập, vốn điều lệ rất thấp, nhiệm vụ kinh doanh thì rất lớn. Huy động vốn vay quá nhiều,
thậm chí vay cả ngân hàng thương mại để góp cổ phần. Có lẽ là cực chẳng đã mà phải "đẻ" ra nó.
Số doanh nghiệp còn lại, đa số có quy mô lớn, hoạt động kinh doanh và cơ cấu tài chính phức
tạp, lao động đông nên quá trình cổ phần hóa gặp nhiều khó khăn.
2. Nội tại DNNN: mặc dầu sau nhiều năm kiện toàn, củng cố, DNNN đã có
bước sắp xếp lại, quy mô được mở mang nhưng nhìn chung năng lực tài chính còn yếu. Vì vậy,
khả năng để tổng công ty hoặc tập đoàn mà ở đó nó tự đầu tư tài chính là mỏng manh, không đáp
ứng yêu cầu. Nhiều doanh nghiệp có tỷ lệ vốn tự có/vốn vay, và vốn tự có/tổng tài sản đang nằm
trong giới hạn không an toàn. Gánh nặng do lịch sử để lại là lao động chất lượng thấp, dôi dư,

công nợ và thua lỗ lớn. Hiện tại 20/101 tổng công ty thua lỗ rất lớn, số còn lại, nếu mổ xẻ ra thì
cũng đang có nhiều vấn đề. Đội ngũ cán bộ DNNN, nhất là tổng công ty, phần lớn đang bất cập
trước yêu cầu của kinh tế hội nhập, bất cập trước yêu cầu vận hành doanh nghiệp theo mô hình
mới, nhìn chung năng lực quản trị công ty còn yếu.
3. DNNN hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, theo đó cơ chế chủ quản
được giảm thiểu từ Chính phủ đến bộ, ngành và địa phương. Điều này đòi hỏi phải chuyển đổi
một số chức năng của Chính phủ, bộ, tỉnh và phải tổ chức lại, hợp lý hóa các cơ quan nhà nước,
- Trang 25 -

×