UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
TRƢỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG ĐỒNG THÁP
GIÁO TRÌNH
MƠN HỌC: TÂM LÝ HỌC QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGÀNH, NGHỀ: QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ
NHỎ
TRÌNH ĐỘ: TRUNG CẤP
MÃ MÔN HỌC: MH25
(Ban hành kèm theo Quyết định số: 323/QĐ-CĐCĐ-ĐT, ngày 6 tháng 8 năm 2019
của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cộng Đồng Đồng Tháp)
Đồng Tháp, năm 2019
TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thơng tin có thể được phép
dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh
thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
1
LỜI GIỚI THIỆU
Giáo trình Tâm lý học Quản trị kinh doanh được biên soạn nhằm
cung cấp ứng dụng tâm lý học vào hoạt động quản trị kinh doanh như một
nghệ thuật tác động vào tính tích cực của người lao động, thúc đẩy họ làm
việc vừa vì lợi ích của cá nhân vừa vì lợi ích của tập thể và lợi ích của
tồn xã hội, tạo nên bầu khơng khí vui tươi đồn kết trong doanh nghiệp.
Giáo trình này là tài liệu dùng trong giảng dạy và học tập dành cho sinh
viên năm thứ nhất khối ngành kinh tế ở trình độ trung cấp trở lên.
Trong lĩnh vực quản trị kinh doanh, quản trị con người là phức tạp
và tế nhị nhất, do vậy các nhà quản trị phải nghiên cứu, phân tích các đặc
điểm tâm lý của người lao động, từ đó tìm cách kích thích, động viên tính
tích cực của con người, khuyến khích tính sáng tạo của họ trong các hoạt
động được giao… Việc nghiên cứu ứng dụng tâm lý cịn có tác dụng giúp
các nhà quản trị biết mình, biết người để có được thành cơng trong kinh
doanh (biết mình biết người, trăm trận trăm thắng).
Tác giả đã có nhiều cố gắng trong q trình biên soạn, tuy nhiên
vẫn khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của sinh viên và các giảng viên để giáo trình ngày càng hồn
thiện hơn. Chân thành cảm ơn!
Đồng Tháp, ngày 17 tháng 4 năm 2017
Chủ biên
TS. Huỳnh Cẩm Thanh
2
3
GIÁO TRÌNH MƠN HỌC
Tên mơn học: TÂM LÝ HỌC QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã môn học: MH25
Thời gian thực hiện môn học: 30 giờ (Lý thuyết: 28 giờ; Thực hành, thí nghiệm,
thảo luận, bài tập: 00 giờ; Kiểm tra: 2 giờ)
I. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT MƠN HỌC:
- Vị trí: mơn Tâm lý học quản trị kinh doanh là một trong những môn học tự
chọn thuộc khối kiến thức đại cương để người học tích lũy trong q trình học
tập ngành quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ trình độ trung cấp.
- Tính chất: mơn học giúp người học có được những kiến thức, kỹ năng cần thiết
về tâm lý trong hoạt động quản trị kinh doanh vận dụng vào trong quá trình học
tập và cơng tác.
II. MỤC TIÊU MƠN HỌC:
- Kiến thức: chương trình nhằm cung cấp cho người học các kiến thức căn bản
về các hiện tượng tâm lý trong hoạt động sản xuất kinh doanh; các hiện tượng
tâm lý của cá nhân và tập thể, tâm lý trong hoạt động quản trị và kinh doanh và
các phẩm chất của người làm cơng tác quản trị kinh doanh cần có và hiểu được
tầm quan trọng của giao tiếp như là một phương tiện cần thiết và vận dụng trong
công tác.
- Kỹ năng: hiểu và vận dụng được những kiến thức đã học vào trong thực tiễn
như phân tích tâm lý nhóm và tập thể, rèn luyện phẩm chất của người quản lý.
- Về năng lực tự chủ và trách nhiệm: Chủ động, tích cực trong việc học tập,
nghiên cứu mơn học; tiếp cận và giải quyết các vấn đề kinh tế hiện đại phù hợp
với xu thế phát triển hiện nay.
4
CHƢƠNG 1: MỞ ĐẦU
MÃ CHƢƠNG: MH25-01
Giới thiệu:
Các hoạt động kinh tế thường nhằm mục đích tạo ra sản phẩm hay dịch vụ để
thỏa mãn nhu cầu của con người nên chúng đóng một vai trị hết sức quan trọng.
Vì vậy, việc hình thành một mơn khoa học nghiên cứu hoạt động kinh tế của con
người là rất cần thiết. Điều này giải thích lý do ra đời của mơn kinh tế học
Mục tiêu:
Cung cấp các khái niệm: tâm lý, tâm lý học quản trị kinh doanh, bản chất hiện
tượng tâm lý con người, vai trò chức năng tâm lý, sự hình thành và phát triển
của tâm lý học kinh doanh
Nội dung:
1.
SƠ LƢỢC VỀ CÁC HIỆN TƢỢNG TÂM LÝ
1.1.
Tâm lý là gì
Người ngun thuỷ có quan điểm cho rằng con người có hai phần: thể xác
và tâm hồn. Tâm hồn chính là cội nguồn của tâm lý con người. Tâm hồn là bất
tử, con người sau khi chết cịn có cuộc sống của tâm linh
Từ điển tiếng Việt 1988 định nghĩa một cách tổng quát: “ tâm lý là ý
nghĩa, tình cảm, làm thành thế giới nội tâm, thế giới bên trong của con người”
Trong cuộc sống hàng ngày, chữ tâm thường được sử dụng ghép với các
từ khác. Ta thường có cụm từ “tâm địa”, tâm can, tâm tình tâm trạng, tâm tư,
được hiểu là lòng người thiên về mặt tình cảm. Như vậy tâm lý được dùng để
chỉ những hiện tượng tinh thần của con người.
Khái niệm tâm lý trong tâm lý học bao gồm tất cả những hiện tượng tinh
thần như cảm giác, tư duy, tình cảm hình thành trong đầu óc con người điều
chỉnh, điều khiển mọi hoạt động của con người.
5
Nói một cách chung nhất: tâm lý là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy
sinh trong đầu óc con người, gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động
của con nguời.
1.2. Chức năng của hiện tƣợng tâm lý
+ Chức năng định hướng hoạt động, tâm lý con người chính là thức được
tạo ra để tạo động lực cho sự phát triển của xã hội. Với những mục tiêu bản thân
đặt ra thì bản thân sẽ đề ra các hoạt động cụ thể để hoàn thành các mục tiêu mà
mình đã định ra, như vậy ta thấy được tâm lý con người có vai trị định hướng.
+ Chức năng điều khiển các hoạt động và kiểm soát các hoạt động, với bất
kỳ một vấn đề nào xảy ra tâm lý con người sẽ điều khiển để con người có những
hoạt động tác động lại vấn đề xảy ra đó một cách cụ thể và kiểm soát các hoạt
động của bản thân trong các trường hợp cụ thể để bản thân biết và nên làm gì
trong các trường hợp cụ thể.
+ Có chức năng điều chỉnh hoạt động, thơng qua việc hình thành tâm lý
của bản thân thì bạn thân sẽ tự điều chỉ tâm lý của mình cho phù hợp với hồn
cảnh và phù hợp với mơi trường sống, cũng như các hiện tượng xã hội.
Qua đó ta thấy được chức năng của hiện tượng tâm lý con người có 3
chức năng chính là định hướng cho hoạt động, điều khiển và kiểm soát các hoạt
động của bản thân, điều chỉnh các hoạt động sao cho phù hợp với hồn cảnh
sống bên ngồi và mơi trường sống của mình.
1.3. Đặc điểm chung của hiện tƣợng tâm lý
Các hiện tượng tâm lý có một số đặc điểm cơ bản chung sau đây:
Các hiện tượng tâm lý vô cùng phong phú, phức tạp và đầy bí ẩn. Phong
phú và phức tạp đến mức, đã có thời gian người ta qui các hiện tượng tâm lý là
hiện tượng thần linh, không giải thích nổi. Chúng bí ẩn khơng phải vì chúng ta
khó tìm hiểu nó, như tục ngữ đã nói: “Dị sơng, dò bể dễ dò, lòng người trắc ẩn
ai đo cho tường”
Mà sự bí ẩn của các hiện tượng tâm lý cịn thể hiện ở tính tiềm tàng của
chúng. Càng ngày người ta càng phát hiện ra càng nhiều những hiện tượng tâm
lý ngoại cảm đặc biệt. Các nhà tâm lý đã chứng minh được sự tồn tại của nhiều
6
hiện tượng siêu tâm lý (như thần giao cách cảm, thấu thị…) nhưng chưa thể giải
thích được cơ chế của các hiện tượng đó.
Các hiện tượng tâm lý quan hệ với nhau rất chặt chẽ. Các hiện tượng tâm
lý tuy phong phú, đa dạng nhưng chúng không tách rời nhau, mà chúng tác
động, ảnh hưởng chi phối lẫn nhau. Hiện tượng này có thể làm xuất hiện tượng
kia, làm biến đổi hiện tượng kia.
Tâm lý là những hiện tượng tinh thần, nó tồn tại trong đầu óc chúng ta,
tồn tại trong chủ quan chúng ta. Chúng ta khơng thể nhìn thấy nó, khơng thể sờ
thấy, khơng thể cân, đo, đong, đếm một cách trực tiếp như những hiện tượng vật
chất khác. Tuy nhiên tâm lý lại thể hiện ra bên ngồi thơng qua hoạt động, hành
động, hành vi, cử chỉ, nét mặt. Chính vì thế mà chúng ta có thể nghiên cứu được
các hiện tượng tâm lý bằng cách quan sát những biểu hiện ra bên ngoài của tâm
lý bên trong, nghiên cứu tâm lý con người thông qua các sản phẩm hoạt động.
Tâm lý là những hiện tượng rất quen thuộc, gần gũi, gắn bó với con người.
Trong trạng thái thức tỉnh, hầu như ở bất kỳ người nào và ở bất kỳ thời điểm
nào, đều diễn ra một hiện tượng tâm lý nào đó. Kể cả trong giấc ngủ, ở con
người vẫn có thể diễn ra những hiện tượng tâm lý, như hiện tượng mơ, mộng
du…
Các hiện tượng tâm lý có sức mạnh vơ cùng to lớn trong đời sống con
người. Tâm lý có thể làm tăng hoặc giảm sức mạnh tinh thần và cả sức mạnh vật
chất của con người. Nó có thể giúp con người trở nên khoẻ mạnh, tỉnh táo, tươi
trẻ, đầy sức sống, cũng có thể làm cho con người mất hết sức lực, trở nên yếu
đuối, bạc nhược và con người cũng có thể chết vì tác động tinh thần, tác động
tâm lý.
1.4. Phân loại các hiện tƣợng tâm lý
- Quá trình tâm lý
Quá trình tâm lý là những hiện tượng tâm lý có khởi đầu, diễn biến và kết
thúc, nhằm biến những tác động bên ngồi thành hình ảnh tâm lý. Q trình tâm
lý là nguồn gốc của tồn bộ đời sống tinh thần. Nó xuất hiện như là một yếu tố
điều chỉnh ban đầu đối với hành vi của con người. Có q trình tâm lý mới có
trạng thái và thuộc tính tâm lý. Các q trình tâm lý gồm có: quá trình nhận
thức, quá trình xúc cảm và quá trình ý chí.
7
Nhận thức, tình cảm, ý chí ln ln tác động qua lại lẫn nhau, có khi
xung đột nhau nhưng lại thống nhất với nhau, tạo nên đời sống tâm lý toàn vẹn
của cá nhân. Sự cân bằng cả 3 mặt nhận thức, tình cảm, ý chí của con người là
rất quan trọng. Q thiên về lý trí thì tâm hồn sẽ khơ khan, thiếu sức mạnh thúc
đẩy của tình cảm. Chỉ nặng về tình cảm thì dễ mất sáng suốt, dễ hành động theo
những cảm xúc chủ quan. Thiếu ý chí thì nhận thức và tình cảm khơng biến
thành hành động được.
- Trạng thái tâm lý
Trạng thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý luôn luôn đi kèm theo các
q trình tâm lý và giữ vai trị như một cái “phơng”, cái nền cho các q trình
tâm lý đó. Trạng thái tâm lý không phải là một hiện tượng tâm lý độc lập, nó
xuất hiện và tồn tại theo các q trình tâm lý. Có những trạng thái tâm lý đi kèm
theo quá trình nhận thức (như trạng thái chú ý), có trạng thái tâm lý đi kèm theo
quá trình cảm xúc (như những tâm trạng, trạng thái căng thẳng, stress…), có
trạng thái đi kèm theo q trình ý chí (như trạng thái do dự, quả quyết…). Trạng
thái tâm lý có ảnh hưởng đến các q trình tâm lý mà nó kèm theo, đồng thời
trạng thái tâm lý lại chịu ảnh hưởng của các hoạt động tâm lý khác. Trạng thái
tâm lý ln ln được diễn lại thì lâu ngày sẽ trở thành nét tâm lý điển hình của
cá nhân.
- Thuộc tính tâm lý
Thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý được thường xuyên lặp đi
lặp lại trong những điều kiện sống và hoạt động nhất định của con người và trở
thành những đặc điểm tâm lý bền vững, ổn định của nhân cách, cuối cùng trở
thành những thuộc tính phức hợp của nhân cách. Thuộc tính tâm lý là những
hiện tượng tâm lý đặc trưng, ổn định, làm cho cá nhân này khác với cá nhân kia.
Các thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân gồm có: xu hướng, tính cách, năng
lực và khí chất; chúng tạo thành hai mặt đức và tài của mỗi một con người cụ
thể. Thuộc tính tâm lý khơng trực tiếp phản ánh các tác động bên ngoài như các
quá trình tâm lý, mà là kết quả của sự thống nhất và khái quát các quá trình và
trạng thái tâm lý. Xuất hiện trên cơ sở các quá trình và trạng thái tâm lý, các
thuộc tính tâm lý lại có ảnh hưởng sâu sắc đối với các quá trình và trạng thái tâm
lý.
8
Sự phân chia trên đây chỉ là tương đối nhằm mục đích làm cho việc học
tập và nghiên cứu được dễ dàng. Trong thực tế cuộc sống, các loại hiện tượng
tâm lý trên (q trình, trạng thái, thuộc tính) ln luôn quyện chặt vào nhau, chi
phối lẫn nhau, thể hiện đời sống tâm lý toàn vẹn của một con người. Chúng ta
cần chú ý điều đó, nếu khơng chúng ta sẽ khơng giải thích được cuộc sống tâm
lý phức tạp của con người, hoặc giải thích nó một cách phiến diện, máy móc.
2.2. Tâm lý học và tâm lý học quản trị kinh doanh
2.2.1. Đối tƣợng của tâm lý học
Trong tác phẩm “Phép biện chứng của tự nhiên” Ph. Ăngghen đã chỉ rõ
thế giới luôn luôn vận động, mỗi một khoa học nghiên cứu một dạng vận động
của thế giới. Các khoa học phân tích các dạng vận động của thế giới tự nhiên
thuộc nhóm khoa học tự nhiên. Các khoa học phân tích các dạng vận động của
xã hội thuộc nhóm các khoa học xã hội. Các khoa học nghiên cứu các dạng vận
động chuyển tiếp trung gian từ dạng vận động này sang dạng vận động kia được
gọi là các khoa học trung gian, chẳng hạn lí sinh học, hóa sinh học, tâm lí học…
Trong đó tâm lí học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp từ vận động sinh vật
sang vận động xã hội, từ thế giới khách quan vào mỗi con người sinh ra hiện
tượng tâm lí – với tư cách một hiện tượng tinh thần.
Trong lịch sử xa xưa của nhân loại, trong tiếng Latinh: “Psyche” là “linh
hồn”, tinh thần” và “logos” là “học thuyết”, là “khoa học”, vì thế “tâm lí học
(Psychologie) là khoa học về tâm hồn. Nói một cách khái quát nhất: Tâm lí bao
gồm tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền
và điều hành mọi hành động, hoạt động của con người. Các hiện tượng tâm lí
đóng vai trị quan trọng đặc biệt trong đời sống con người, trong quan hệ giữa
con người với con người và con người với cả xã hội lồi người.
Như vậy, đối tượng của tâm lí học là các hiện tượng tâm lí với tư cách là
một hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não con người
sinh ra, gọi chung là các hoạt động tâm lí. Tâm lí học nghiên cứu sự hình thành,
vận hành và phát triển của hoạt động tâm lí.
2.2.2. Nhiệm vụ của tâm lý học
Nhiệm vụ cơ bản của tâm lí học là nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm
lí, các quy luật nảy sinh và phát triển tâm lí, cơ chế diễn biến và thể hiện tâm lí,
quy luật về mối quan hệ giữa các hiện tượng tâm lí. cụ thể là nghiên cứu:
9
- Những yếu tố khách quan, chủ quan nào đã tạo ra tâm lí người.
- Cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt động tâm lí.
- Tâm lí của con người hoạt động như thế nào?
- Chức năng, vai trò của tâm lí đối với hoạt động của con người.
Có thể nêu lên các nhiệm vụ cụ thể của tâm lí học như sau:
- Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lí cả về mặt số lượng và chất
lượng.
- Phát hiện các quy luật hình thành phát triển tâm lí.
- Tìm ra cơ chế của các hiện tượng tâm lí.
Trên cơ sở các thành tựu nghiên cứu, tâm lí học đưa ra những giải pháp
hữu hiệu cho việc hình thành, phát triển tâm lí, sử dụng tâm lí trong nhân tố con
người có hiệu quả nhất. Để thực hiện các nhiệm vụ nói trên, tâm lí học phải liên
kết, phối hợp chặt chẽ với nhiều khoa học khác.
2.2.3 Đối tƣợng và nhiệm vụ của tâm lý học quản trị kinh doanh
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng trực tiếp của Tâm lý học Quản trị kinh doanh là đời sống tâm
hồn của những người dưới quyền bao gồm tâm tư, tình cảm, ước mơ, nguyện
vọng, niềm tin…
Tâm lý học Quản trị kinh doanh nghiên cứu các quá trình tâm lý (cảm
giác, tri giác, tư duy…), các trạng thái tâm lý, các thuộc tính tâm lý cá nhân…
Đối tượng nghiên cứu của Tâm lý học Quản trị kinh doanh là:
Nghiên cứu sự thích ứng của con người đối với cơng việc kinh doanh.
Theo hướng này, Tâm lý học Quản trị kinh doanh chú ý tới các khía cạnh tâm lý
của việc tổ chức quá trình kinh doanh, đặc biệt là vấn đề phân công lao động, tổ
chức chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý, đưa yếu tố thẩm mỹ vào trong kinh
doanh.
Nghiên cứu mối quan hệ con người với nghề nghiệp. Tâm lý học Quản trị
kinh doanh nghiên cứu các cơ sở tâm lý và các phương pháp tâm lý học của việc
phát hiện, sử dụng và bồi dưỡng nhân tài, góp phần đắc lực cho cơng tác quản trị
nhân sự. Sử dụng các dạng trắc nghiệm tâm lý để đo năng lực trí tuệ, phẩm chất
nhân cách, ý chí…của con người giúp cho các nhà quản trị trong việc tuyển
chọn, đánh giá, và đề bạt cán bộ và nhân viên của mình.
10
Nghiên cứu sự thích ứng của con người với con người trong kinh doanh.
Tâm lý học Quản trị kinh doanh nghiên cứu mối quan hệ giữa con người với con
người trong tập thể lao động, cụ thể là bầu không khí tâm lý tập thể, sự hịa hợp
hay khơng hịa hợp giữa các thành viên, quan hệ giữa nhà quản trị với nhân viên.
- Nhiệm vụ của Tâm lý học Quản trị kinh doanh
Tâm lý học Quản trị kinh doanh có 3 nhiệm vụ cơ bản sau:
Nghiên cứu các hiện tượng tâm lý của đám đông, của tập thể lao động và
vai trò của các hiện tượng này tới hoạt động kinh doanh của tổ chức.Nghiên cứu
các quy luật của các hiện tượng tâm lý trên như sự lây lan tâm trạng, độ hấp dẫn
lơi cuốn của bầu khơng khí tâm lý, sự bắt chước nhau trong truyền thống và sự
ám thị trong dư luận xã hội… nhờ sự hiểu biết các quy luật này mà các nhà quản
lý có cách tác động và điều khiển chúng để phục vụ cho công tác lãnh đạo công
ty, động viên quần chúng đúng lúc, nâng cao hiệu quả hoạt động của tập thể.
Nghiên cứu cơ chế vận hành của các hiện tượng tâm lý trên như cơ chế
diễn biến tâm trạng của quần chúng (như tâm trạng buồn chán, uất ức, nếu bị ai
kích động sẽ trở thành cơn nổi xung, sự thịnh nộ đi đến hành vi phá phách…).
2.3. Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển của tâm lý học QTKD
Cũng như tâm lý học nói chung, tâm lý học QTKD, một trong 30 chuyên
ngành của nó, ra đời một cách muộn màng nhưng tốc độ phát triển rất nhanh.
Năm 1912, nhà tâm lý học Đức là H. Munsterberg lần đầu tiên giảng một
chương trình "Tâm lý học QTKD" lúc đầu là ở Đức, sau đó là ở Mỹ. Ý tưởng
chính của ơng là nên sử dụng những con người khác nhau về khí chất, về xu
hướng, về năng lực phù hợp với từng loại cơng việc. Ơng đã tiến hành hàng loạt
cơng trình nghiên cứu và đã xây dựng nên những luận điểm mà sau này trở
thành cơ sở cho môn xã hội học lao động và thực nghiệm xã hội.
Sau này, khi qua Mỹ Munsterberg giảng dạy và nghiên cứu ra một hệ
thống đo lường để lựa chọn những người vào học những nghề khác nhau, và đã
chứng minh được hiệu quả của luận điểm của mình bằng một thực nghiệm ở
công ty Mỹ "American Tobaco Company". Ý tưởng của Munsterberg có ảnh
hưởng rất lớn đến sự hình thành mơn tâm lý học quản lý sau này. Việc ứng dụng
tâm lý học vào QTKD trong giai đoạn 1900- 1930 chủ yếu dựa trên quan điểm
"duy lý" hay "tính hợp lý" của Ph. Taylor và Max Wether. Theo quan điểm này,
người ta coi con người như một bộ phận của máy móc, của một dây chuyền sản
11
xuất. Mỗi một người trong tổ chức lao động được qui định từng thao tác, từng
chức năng khá chi tiết, chặt chẽ từng giờ, khơng có thao tác dư thừa, khơng có
sự trùng lặp. Trường phái Werber, Taylor cố gắng chứng minh rằng, nếu có thể
nghiên cứu tổng hợp được danh sách đầy đủ những thủ pháp và qui tắc cho phép
phân tích cơng việc thiết lập kiểm sốt tối đa, kết hợp với quyền lực và trách
nhiệm, thì các vấn đề quan trọng nhất của quản lý tập thể coi như đã giải thích
xong. Tuy nhiên cho đến năm 1930 thì lý thuyết này trở nên lạc hậu trước sự
tiến bộ của KHKT và các tư tưởng tiến bộ, buộc phải có sự thay đổi. Lý thuyết
của Wether và Taylor bị đánh bật bởi thuyết "quan hệ con người - con người
trong quản lý", mà những người đứng đầu là E.Mayo, D.McGregor, Bamard và
Ph. Selznick.
Từ năm 1927- 1932 E.Mayo, một chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý học xã
hội và xã hội học lao động đã tiến hành một thí nghiệm nổi tiếng ở xí nghiệp
Hawthome (Chicago) để kiểm tra lại lý thuyết của Taylor: tăng độ chiếu sáng
đèn trong phân xưởng thì năng xuất lao động tăng, nhưng kỳ lạ thay giảm độ
chiếu sáng thì năng suất vẫn tiếp tục tăng. Thực nghiệm kéo dài nhiều năm,
nhưng lại cho kết quả nản lòng. Mặc dù số liệu thực nghiệm thu được rất lớn,
nhưng kết luận chủ yếu là: mối quan hệ giữa con người - con người trong sản
xuất ảnh hưởng đến năng suất lao động hơn nhiều so với các điều kiện vật chất.
Cơng trình nghiên cứu của Mayo đã góp phần thúc đẩy nghiên cứu và vận dụng
tâm lý học một cách trực tiếp, khoa học vào quản lý SXKD, thúc đẩy việc ứng
dụng tâm lý học vào QTKD.
Chính từ kết quả của các thí nghiệm Hawthome mà K.Lewin đã nảy sinh
ý tưởng cho thuyết về động lực của nhóm. Theo ơng thì trong cuộc sống của
nhóm, bản thân nó cũng như các thành viên của nó sẽ hướng tới những gì tích
cực hấp dẫn nó và xa lánh những gì tiêu cực. Hành vi này được hướng dẫn bởi
những "trường động lực" trong nhóm. Vì vậy một đặc tính quan trọng của nhóm
là: sự gắn bó của nhóm được coi là trường của tồn bộ các động lực tác động lên
mỗi thành viên làm cho họ ở lại mãi mãi trong nhóm. Mức độ gắn bó của nhóm
chịu ảnh hưởng bởi một loạt những điều kiện: đó là sự cộng tác hơn là cạnh
tranh, bầu khơng khí dân chủ hơn là tự do hay độc đốn, đó là nhóm đã có sẵn
một nền nếp tổ chức từ trước, ổn định, vững mạnh, mọi người quan tâm đến
nhiệm vụ chung và tự hào về uy tín của nhóm v v...
12
Về sau lý thuyết lãnh đạo của K. Lewin được bổ sung thêm bởi lý thuyết "lãnh
đạo theo hoàn cảnh" của E. Fiedler. Theo ơng, khơng có một phong cách lãnh
đạo nào tự bản thân nó là tối ưu cả. Phong cách tối ưu là phong cách tùy thuộc
vào bầu khơng khí tâm lý của tập thể. Đối với một người lãnh đạo có quyền lực
mạnh, có quan hệ tốt đối với quần chúng, thực hiện những nhiệm vụ được xác
định rõ ràng thì xu hướng lãnh đạo độc đốn có hiệu quả hơn. Ngược lại, với
một người lãnh đạo, có quyền lực yếu, có quan hệ xấu với quần chúng, phải thực
hiện những nhiệm vụ khơng xác định thì tốt hơn là lãnh đạo theo kiểu dân chủ.
Sau Thế chiến thứ hai, nổi bật lên trong lĩnh vực tâm lý học quản lý là
Mc.Gregor, tác giả của thuyết X và thuyết Y. Công nhân lười biếng, phải thúc
dục họ, phải chỉ huy, phải kiểm tra, đe dọa (thuyết X); công nhân là đấng sáng
tạo, làm việc một cách tự nguyện, có thể trao tồn quyền cho họ (thuyết Y). Hai
thuyết đối chọi nhau. Các thuyết của Gregor sau này bị một giáo sư quản trị học
người Nhật là W. Ouchi phản bác bằng phong cách quản lý của Nhật Bản. W.
Ouchi đưa ra thuyết Z. Ông cho rằng, trong thực tế khơng có người lao động nào
hồn tồn thuộc về bản chất X hay Y, và điều mà Mc Gregor gọi là bản chất, thì
chỉ có thể gọi là thái độ lao động của con người và thái độ đó tùy thuộc vào cách
thức con người được đối xử trong thực tế. Qua kinh nghiệm quản trị của người
Nhật, mọi người lao động đều có thể lao động một cách hăng hái, nhiệt tình, nếu
họ được tham gia vào các quyết định trong xí nghiệp và được xí nghiệp quan
tâm đến nhu cầu của họ.
Gần như cùng thời với Gregor và Mayo, có Bamard và Selzlick. Năm
1938, Bamard cho ra mắt cuốn "Chức năng nhà quản lý" với ý tưởng về vai trò
hàng đầu của nhà lãnh đạo như người sáng tạo và điều hòa các giá trị chủ đạo
trong tổ chức. Hơn 10 năm sau khi cuốn sách của Bamard ra đời, Ph. Selzlick
công bố học thuyết tương tự. Ông đưa ra những khái niệm mới như "uy tín đặc
biệt, và “tính cách của tổ chức".
Giai đoạn từ 1960 đến 1970 được đánh giá như vừa là bước tiến, vừa là
bước lùi của các tư tưởng tâm lý học QTKD. Lùi vì nó quay lại với giả định cơ
học về con người. Tiến là vì các nhà lý thuyết cuối cùng đã xem xét công ty như
là một bộ phận cấu thành của thị trường. Từ đầu những năm 70 xuất hiện lý
thuyết "tình huống" của Scott. Những luận điểm cơ bản của nó là: Hệ thống tổ
chức quản lý là phải mở, phụ thuộc vào đặc điểm của môi trường bên trong và
13
bên ngoài (như đặc điểm kinh tế, KHKT, thị trường, tình hình chính trị, xã
hội…).
Việc lựa chọn các hình thức quản lý để mang lại hiệu quả cao không phải
là thực hiện những nguyên tắc đã được hình thành một cách tiên nghiệm giống
như trong phạm vì mơ hình "duy lý", mà đúng hơn là sự phối hợp bối cảnh tổ
chức khách quan và cấu trúc bên trong của tổ chức.
- Bối cảnh khách quan càng ổn định và xác định thì hệ thống quản lý dựa
trên cơ sở tiến gần tới mơ hình "duy lý" càng có lợi hơn và hợp lý hơn. Ngược
lại khi môi trường luôn luôn biến động, mục tiêu thường xuyên thay đổi, công
nghệ luôn đổi mới mà muốn kích thích tính tích cực của mọi người thì cần dựa
trên cơ sở giải phóng tự do ít hay nhiều ở hệ thống tổ chức quản lý bên trong và
tiến tới gần mơ hình tổ chức của trường phái "quan hệ con người - con người
trong quản lý".
Lý thuyết này mãi đến những năm 80 mới được cơng nhận một cách rộng
rãi. Từ đó các tổ chức quản lý được xây dựng linh hoạt hơn, bớt đi tính duy lý,
máy móc.
Ngày nay Tâm lý học QTKD gắn liền với thời đại mà nổi bật là sự phát
triển cá nhân, sắc tộc, dân tộc, tôn giáo, ô nhiễm môi trường tự nhiên cũng như
xã hội… chắc chắn sẽ làm phong phú thêm các khoa học về con người trong đó
có TLH QTKD ở nước ta cũng như trên thế giới.
2.4. Các phƣơng pháp nghiên cứu tâm lý con ngƣời trong QTKD
Trong tâm lý học quản trị kinh doanh, người ta thường hay sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
2.4.1. Quan sát trực tiếp
Nhà quản lý phải trực tiếp đi thị sát, dùng tai để nghe ý kiến của người lao
động, dùng mắt của chính mình để nhìn mọi hiện tượng xã hội nhằm thu được
những thơng tin chính xác, sống động. Ngày nay, các nhà quản trị có thể sử
dụng các thành quả của khoa học kỹ thuật để quan sát, kiểm tra và điều hành
nhân viên của tổ chức thơng qua hệ thống camera. Ngồi ra, các nhà quản trị có
thể thuê các nhà chuyên môn về tâm lý học, xã hội học… làm nhiệm vụ quan sát
tại cổng nhà máy, tại nơi làm việc để phát hiện ra cảm xúc của từng người ra vào
nhà máy.
14
2.4.2. Trưng cầu ý kiến
Đây là phương pháp thu thập thơng tin bằng cách hỏi ý kiến của quần
chúng góp ý về một vấn đề nào đó có sự xác định cụ thể. Sự góp ý này bao gồm:
Trực tiếp (phỏng vấn, tọa đàm), gián tiếp (bảng câu hỏi).
2.4.3. Phương pháp trắc nghiệm (Test)
Trắc nghiệm là một phép thử để “đo lường” tâm lý mà trước đó đã được
chuẩn hóa trên một lượng người vừa đủ tiêu biểu. Trắc nghiệm thường là tập
hợp nhiều bài tập nhỏ khác nhau, thông qua điểm số điểm giải được mà người ta
đánh giá tâm lý của đối tượng. Ngày nay các chuyên gia đã lập hàng ngàn loại
trắc nghiệm khác nhau để xác định đủ loại phẩm chất tâm, sinh lý con người: Trí
tuệ, tài năng, đức độ, độ nhạy cảm, trí thơng minh, tình cảm, trí nhớ…
Ngồi các phương pháp trên cịn một số phương pháp khác trong nghiên cứu
Tâm lý học Quản trị kinh doanh như: Phương pháp xạ ảnh, phương pháp tiểu
sử…
15
CHƢƠNG 2: NHỮNG HIỆN TƢỢNG TÂM LÝ CÁ NHÂN VÀ TẬP THỂ
Mã chƣơng: MH25- 02
Giới thiệu:
Các hiện tượng tâm lí, tâm hồn của con người đều có nguồn gốc từ bên
ngoài, là sự phản ánh thế giới khách quan. Thế giới vật chất được chuyển
vào não, dưới các dạng biểu tượng, hình ảnh đó khơng dừng lại ở mức độ xơ
cứng, bất biến. Nhờ có các giác quan, chúng ta có được những biểu tượng về
các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Từ vơ số các hình ảnh, biểu
tượng về những ngơi nhà có thực, trong óc con người dần khái quát hoá, thu
gọn tất cả những biểu tượng đó vào một khái niệm: nhà. Chính ngơn ngữ đã
giúp cho khả năng nhận biết của con người về thế giới bên ngoài tăng lên một
cách đột phá.
Cũng nhờ có ngơn ngữ, tư duy của con người đã chuyển sang một bước
ngoặt vĩ đại: từ tư duy bằng tay con người chuyển sang tư duy bằng khái
niệm. Nhờ có tư duy bằng khái niệm, con người đã có khả năng “nhìn” sâu
vào những cái mà bằng mắt thường khơng thể nhìn thấy. Bằng mắt, con
người khơng thể nào nhìn thấy đường đi của hạt ánh sáng song bằng tư duy
thì có thể.
Mục tiêu:
Đọc xong chương này người học có thể:
Kiến thức: Nắm được các hoạt động tâm lý cá nhân như : nhận thức, tình
cảm, ý chí, ngơn ngữ, nhân cách và các phẩm chất của nhân cách.
Kỹ năng: phân tích và vận dụng những hiện tượng tâm lý xã hội phổ biến
trong đời sồn và công tác
Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Hoàn thiện thái độ đúng đắn trong việc
nhận xét, đánh giá người khác.
1. Hoạt động nhận thức
1.1. Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính (hay còn gọi là trực quan sinh động) là giai đoạn đầu
tiên của q trình nhận thức. Đó là giai đoạn con người sử dụng các giác quan
16
để tác động vào sự vật nhằm nắm bắt sự vật ấy[2]. Nhận thức cảm tính gồm các
hình thức sau:
Cảm giác: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các thuộc tính riêng
lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động trực tiếp vào các giác quan của
con người. Cảm giác là nguồn gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự
chuyển hoá những năng lượng kích thích từ bên ngồi thành yếu tố ý thức.
Lenin viết: "Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan". Nếu dừng
lại ở cảm giác thì con người mới hiểu được thuộc tính cụ thể, riêng lẻ của sự vật.
Điều đó chưa đủ; bởi vì, muốn hiểu biết bản chất của sự vật phải nắm được một
cách tương đối trọn vẹn sự vật. Vì vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận
thức cao hơn".
Tri giác: hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối tồn vẹn sự vật
khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các giác quan con người. Tri giác là sự
tổng hợp các cảm giác. So với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy
đủ hơn, phong phú hơn. Trong tri giác chứa đựng cả những thuộc tính đặc trưng
và khơng đặc trưng có tính trực quan của sự vật. Trong khi đó, nhận thức địi hỏi
phải phân biệt được đâu là thuộc tính đặc trưng, đâu là thuộc tính khơng đặc
trưng và phải nhận thức sự vật ngay cả khi nó khơng cịn trực tiếp tác động lên
cơ quan cảm giác con người. Do vậy nhận thức phải vươn lên hình thức nhận
thức cao hơn.
Biểu tượng: là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương đối hồn
chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật khi sự vật khơng cịn tác động
trực tiếp vào các giác quan. Trong biểu tượng vừa chứa đựng yếu tố trực tiếp
vừa chứa đựng yếu tố gián tiếp. Bởi vì, nó được hình thành nhờ có sự phối hợp,
bổ sung lẫn nhau của các giác quan và đã có sự tham gia của yếu tố phân tích,
tổng hợp. Cho nên biểu tượng phản ánh được những thuộc tính đặc trưng nổi
trội của các sự vật.
Giai đoạn này có các đặc điểm:
Phản ánh trực tiếp đối tượng bằng các giác quan của chủ thể nhận thức[1].
Phản ánh bề ngoài, phản ánh cả cái tất nhiên và ngẫu nhiên, cả cái bản chất và
không bản chất. Giai đoạn này có thể có trong tâm lý động vật[1].
17
Hạn chế của nó là chưa khẳng định được những mặt, những mối liên hệ bản
chất, tất yếu bên trong của sự vật. Để khắc phục, nhận thức phải vươn lên giai
đoạn cao hơn, giai đoạn lý tính.
1.2. Trí nhớ
Trí nhớ hay còn gọi là ký ức là một khả năng của các sinh vật sinh sống
có thể lưu giữ những thơng tin về mơi trường bên ngồi tác động lên cơ thể,
cũng như các phản ứng xảy ra trong cơ thể và tái hiện thông tin được lưu giữ
hoặc kinh nghiệm cũ để sử dụng chúng trong lĩnh vực ý thức hoặc tập tính.
Phân loại chung:
Theo thời gian tồn tại của trí nhớ: trí nhớ tức thời, trí nhớ ngắn hạn và trí
nhớ dài hạn. Trí nhớ tức thời như là nhớ số điện thoại hay dãy số ngẫu nhiên.
Nhớ nguyên phát và nhớ thứ phát. Trí nhớ nguyên phát là nhớ sự vật sư
việc ngay lúc xảy ra. Trí nhớ thứ phát là Hồi tưởng lại sự vật sự việc hay còn gọi
là ký ức, trải nghiệm hay sang chấn tâm lý
- Nhớ dương tính và nhớ âm tính
Theo cách hình thành trí nhớ: Trí nhớ hình tượng, trí nhớ vận động, trí
nhớ cảm xúc và trí nhớ ngơn ngữ - logic. Trí nhớ hình tượng là trí nhớ được
hình thành trên cơ sở tiếp nhận thơng tin từ các giác quan: thị giác, thính giác,
khứu giác, vị giác và xúc giác, tùy theo loại thông tin mà sử dụng giác quan nào
hiệu quả hơn, thông thường sử dụng nhiều giác quan sẽ giúp ghi nhớ thông tin
dễ dàng hơn.
Trí nhớ vận động là hình thành trên cơ sở thực hiện các động tác cụ thể đá
bóng, đánh đàn, nhờ đó có được các kĩ năng kĩ xảo. Trí nhớ cảm xúc hình thành
khi cơ thể tiếp nhận các kích thích gây ra cảm xúc vui, buồn các trí nhớ cảm xúc
thường tồn tại lâu. Trí nhớ ngơn ngữ - logic thì hình thành khi tiếp nhận các kích
thích như kiến thức, suy luận, bài tốn giúp ta ghi nhớ cách thức hoặc nội dung
của thông tin, đây là loại trí nhớ chỉ có ở người và được truyền đạt qua các thế
hệ.
1.3. Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính (hay cịn gọi là tư duy trừu tượng) là giai đoạn phản ánh
gián tiếp trừu tượng, khái quát sự vật, được thể hiện qua các hình thức như khái
niệm, phán đoán, suy luận.
18
Khái niệm: là hình thức cơ bản của tư duy trừu tượng, phản ánh những
đặc tính bản chất của sự vật. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái
quát, tổng hợp biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật hay lớp sự vật. Vì
vậy, các khái niệm vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan, vừa có mối
quan hệ tác động qua lại với nhau, vừa thường xuyên vận động và phát triển.
Khái niệm có vai trị rất quan trọng trong nhận thức bởi vì, nó là cơ sở để hình
thành các phán đốn và tư duy khoa học.
Phán đốn: là hình thức tư duy trừu tượng, liên kết các khái niệm với
nhau để khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính của đối tượng.
Thí dụ: "Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng" là một phán đoán vì có sự
liên kết khái niệm "dân tộc Việt Nam" với khái niệm "anh hùng". Theo trình độ
phát triển của nhận thức, phán đoán được phân chia làm ba loại là phán đốn
đơn nhất (ví dụ: đồng dẫn điện), phán đốn đặc thù (ví dụ: đồng là kim loại) và
phán đốn phổ biến (ví dụ: mọi kim loại đều dẫn điện). Ở đây phán đốn phổ
biến là hình thức thể hiện sự phản ánh bao quát rộng lớn nhất về đối tượng.
Nếu chỉ dừng lại ở phán đốn thì nhận thức chỉ mới biết được mối liên hệ
giữa cái đơn nhất với cái phổ biến, chưa biết được giữa cái đơn nhất trong phán
đoán này với cái đơn nhất trong phán đoán kia và chưa biết được mối quan hệ
giữa cái đặc thù với cái đơn nhất và cái phổ biến. Chẳng hạn qua các phán đốn
thí dụ nêu trên ta chưa thể biết ngồi đặc tính dẫn điện giống nhau thì giữa đồng
với các kim loại khác cịn có các thuộc tính giống nhau nào khác nữa. Để khắc
phục hạn chế đó, nhận thức lý tính phải vươn lên hình thức nhận thức suy luận.
Suy luận: là hình thức tư duy trừu tượng liên kết các phán đoán lại với
nhau để rút ra một phán đốn có tính chất kết luận tìm ra tri thức mới. Thí dụ,
nếu liên kết phán đoán "đồng dẫn điện" với phán đoán "đồng là kim loại" ta rút
ra được tri thức mới "mọi kim loại đều dẫn điện". Tùy theo sự kết hợp phán
đoán theo trật tự nào giữa phán đoán đơn nhất, đặc thù với phổ biến mà người ta
có được hình thức suy luận quy nạp hay diễn dịch.
Ngoài suy luận, trực giác lý tính cũng có chức năng phát hiện ra tri thức
mới một cách nhanh chóng và đúng đắn.
Giai đoạn này cũng có hai đặc điểm:
- Là q trình nhận thức gián tiếp đối với sự vật, hiện tượng.
- Là quá trình đi sâu vào bản chất của sự vật, hiện tượng.
19
2.2. Tình cảm và ý chí
2.2.1. Đời sống tình cảm con người
Tình cảm là những thái độ cảm xúc ổn định của con ngưới đối với những
sự vật, hiện tượng của hiện thực khách quan, phản ánh ý nghĩa của chúng trong
mối liên hệ với nhu cầu và động cơ của họ; tình cảm là sản phẩm cao cấp của sự
phát triển các quá trình cảm xúc trong những điều kiện xã hội.
2.2.2. Ý chí và hành động ý chí
Ý chí là mặt năng động của ý thức biểu hiện ở năng lực thực hiện những
hành động có mục đích, địi hỏi sự nỗ lục khắc phục khó khăn. Ý chí được coi là
mặt năng động của ý thức, mặt biểu hiện cụ thể của ý thức trong thực tiễn, ở đó
con người tự giác được mục đích của hành động, đấu tranh động cơ, lựa chọn
được các biện pháp vượt qua mọi trở ngại, khó khăn để thực hiện đến cùng mục
đích đề ra. Ý chí bao gồm cả mặt năng động của trí tuệ, mặt năng động của tình
cảm đạo đức, là hình thức điều khiển, điều chỉnh hành vi tích cực nhất của con
người. Giá trị chân chính của ý chí khơng phải chỉ ở cường độ ý chí mạnh hay
yếu mà điều chủ yếu là ở nội dung đạo đức có ý nghĩa của mục đích mà ý chí nỗ
lực vươn tới.
2.3 Ngơn ngữ
2.3.1. Ngữ ngơn và ngôn ngữ
* Ngữ ngôn
Ngữ ngôn là một hệ thống các dấu hiệu có chức năng như là một phương
tiện của sự tiếp xúc, một công cụ của tư duy. Nó là một hiện tượng tồn tại khách
quan trong đời sống tinh thần của xã hội, là một hiện tượng của nền văn hóa tinh
thần.
Ngữ ngơn là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Ngôn ngữ học, khoa học
nghiên cứu về một thứ tiếng nói. Ngữ ngơn gồm 2 bộ phận: Từ ngữ và các ý
nghĩa của từ ngữ. Cú pháp là 1 hệ thống những qui tắc qui định sự ghép các từ
thành câu.
Trong Ngữ ngơn có 2 phạm trù: Ngữ pháp – là 1 hệ thống các qui tắc qui
định việc thành lập từ và câu. Phạm trù này đặc trưng riêng cho từng thứ tiếng.
Lơgíc – là qui luật, phương pháp tư duy đúng đắn của con người. Hai phạm trù
đó (ngữ pháp và lơgíc) kết hợp chặt chẽ trong ngữ ngôn.
20
Ngữ ngơn có 2 loại: tiếng nói và chữ viết – Đơn vị tạo nên tiếng nói là âm
vị. Đơn vị tạo nên chữ viết là tự vị. Âm vị và tự vị tạo thành từ. Từ trở thành vật
mang kinh nghiệm của lồi người.
* Ngơn ngữ
Ngơn ngữ là q trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ ngữ ngơn giao lưu tư
tưởng, tình cảm, trao đổi kinh nghiệm. Nói cách khác, ngơn ngữ là sự giao tiếp
bằng tiếng nói (ngữ ngơn). Ngơn ngữ là một q trình tâm lý, nó là đối tượng
của tâm lý học.
Trong đời sống của con người, ngơn ngữ có 3 chức năng cơ bản sau đây:
Chức năng ngữ nghĩa (chức năng tín hiệu), chức năng này làm cho ngôn
ngữ của con người khác với sự thông tin ở con vật. Con người dùng quá trình
ngơn ngữ để chỉ chính bản thân sự vật hiện tượng (bởi vì từ mà ta dùng trong
q trình ngơn ngữ được gắn chặt với biểu tượng về sự vật, hiện tượng mà từ đó
chỉ).
Chức năng khái quát hóa: biểu hiện mối quan hệ giữa ngôn ngữ với tư
Ngôn ngữ là hình thức tồn tại của tư tưởng và nó phù hợp nhất đối với sự tư duy
trừu tượng – lơgic.
Chức năng giao tế: nếu hai chức năng trên nói lên mặt bên trong của ngơn
ngữ, thì chức năng này nói lên mặt bên ngồi của ngơn ngữ. Trong chức năng
giao tế lại gồm 3 chức năng nhỏ: thông tin, biểu cảm và thúc đẩy hành động.
Tóm lại, ngữ ngơn và ngôn ngữ khác nhau như sau: ngữ ngôn là hiện
tượng chung, khách quan trong đời sống xã hội, được hình thành trong những
điều kiện xã hội, lịch sử nhất định, là công cụ để tiếp xúc và tư duy; ngơn ngữ là
q trình cá nhân sử dụng ngữ ngơn để giao tiếp. Ngơn ngữ được hình thành
trong đời sống của cá nhân.
Ngữ ngôn là chung cho cả 1 dân tộc, một cộng đồng. Cịn ngơn ngữ mang
tính chất chủ thể rõ ràng.
Ngữ ngôn không bị mất đi bởi những thương tổn bệnh lý. Cịn ngơn ngữ
bị rối loạn hay bị mất do những tổn thương.
Tuy khác nhau, nhưng ngôn ngữ và ngữ ngơn có tác động qua lại và liên
hệ mật thiết với nhau: khơng có một thứ tiếng nói nào (ngữ ngơn) lại tồn tại bên
ngồi ngơn ngữ cả. Ngược lại, ngơn ngữ cũng khơng thể có được nếu không dựa
vào ngữ ngôn.
21
2.4. Nhân cách và các phẩm chất của nhân cách
2.4.1. Một số khái niệm
- Con người:
Con người là khái niệm chung nhất để chỉ bất kỳ người nào trong xã hội,
trong tự nhiên. Con người được hiểu theo hai mặt: mặt sinh vật và mặt xã hội.
Về mặt sinh con người là sinh vật ở bậc thang cao nhất của sự tiến hóa. Về mặt
xã hội, con người sống trong xã hội, có mối quan hệ với xã hội, có những vị trí,
vai trị, nhiệm vụ và quyền lợi nhất định trong xã hội và bị chi phối bởi các mối
quan hệ xã hội.
- Cá nhân:
Cá nhân là một con người riêng biệt, cụ thể nào đó với những đặc điểm
riêng biệt về mặt sinh vật và xã hội đặc trưng cho con người đó. Mỗi người đều
là một cá nhân.
- Nhân cách:
Từ nhân cách (personality) được bắt nguồn từ thuật ngữ Latinh có nghĩa
là mặt nạ, nhấn mạnh đến tàm quan trọng của những tác động bên ngồi. Có
nhiều định nghĩa về nhân cách, Allfort (1961) đã phân biệt các định nghĩa thành
3 loại: ấn tượng bên ngoài, cấu trúc nội tại và quan điểm thực chứng. Theo
chúng tôi có thể coi nhân cách là tồn bộ những đặc điểm tâm lý đã ổn định của
cá nhân tạo nên giá trị xã hội, hành vi xã hội của cá nhân. Khi được sinh ra cá
nhân chưa phải là một nhân cách. Nhân cách hình thành trong quá trình cá nhân
sống và lớn lên trong xã hội. Tuỳ theo điều kiện sống mà nhân cách sẽ phát triển
theo chiều hướng nào. Thông thường khi ý thức phát triển đến một trình độ nào
đó thì nhân cách mới bắt đầu hình thành, và phát triển theo quá trinhd trưởng
thành của con người. Sự hình thành và phát triển nhân cách phụ thuộc vào các
yếu tố sau:
+ Các đặc điểm bẩm sinh di truyền.
+ Giáo dục của cả gia đình và xã hội đóng một vai trị chủ đạo.
+ Hoạt động của cá nhân
+ Qua hoạt động giao lưu.
2.4.2 Các phẩm chất quan trọng của nhân cách
- Xu hướng:
22
Xu hướng là sự hướng tới một mục tiêu, một đối tượng nào đó, là một hệ
thống những nhân tố thúc đẩy bên trong qui định tính tích cực của con người
trong hoạt động của họ. Xu hướng biểu hiện qua các nhu cầu, hứng thú, niềm
tin, lý tưởng …của cá nhân mà nếu tập hợp lại chúng sẽ xác định mục đích cuộc
sống của con người.
- Nhu cầu
Nhu cầu là những gì mà cá nhân cần được thỏa mãn để sống, để hoạt
động. Nhu cầu là biểu hiện của xu hướng về mặt nguyện vọng. Nhu cầu nảy sinh
từ mối quan hệ giữa hoàn cảnh bên ngoài với điều kiện bên trong của con người,
nó biểu hiện sự phụ thuộc của con người vào hoàn cảnh sống cụ thể ấy, chứ
không phải nảy sinh từ ý thức hay ý chí chủ quan của cá nhân. Có một số cách
phân loại nhu cầu:
Nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần: 1). Nhu cầu vật chất (nhu cầu tự
nhiên) là nhu cầu chủ yếu do bản năng sinh ra như ăn, mặc, ở, hương tiện sinh
hoạt, bảo tồn nịi giống…; 2). Nhu cầu tinh thần (nhu cầu xã hội) chủ yếu do
tâm lý tạo nên nói lên bản chất xã hội của con người.
- Hứng thú :
Hứng thú là sự xuất hiện sự chú ý đặc biệt của con người đến một đối
tượng nào đó, là sự khao khát của con người muốn tiếp cận đến đối tượng nhu
cầu để đi sâu tìm hiểu. Hứng thú là biểu hiện của xu hướng về mặt nhận thức
của cá nhân đối với sự vật và hiện tượng xung quanh. Hứng thú giúp cho con
người hăng say làm việc, quên mệt mỏi, là một nhân tố kích thích hoạt động của
con người, kích thích khả năng tìm tịi sáng tạo. Muốn cho nhân viên có hứng
thú làm việc phải:
+ Nêu được ý nghĩa, tầm quan trọng, lợi ích của cơng việc đối với công ty
và với bản thân họ.
+ Làm cho họ hiểu rõ cách thức thực hiện cơng việc đó.
- Thế giới quan:
Thế giới quan là hệ thống quan điểm của cá nhân về tự nhiên, xã hội và
bản thân, xác định phương châm hành động của người ấy. Nó quyết định những
phẩm chất và phương hướng phát triển của nhân cách.
- Lý tưởng:
23