Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

1 Nâng cao hoạt đông cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn chi nhánh Hà Nội 

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.6 KB, 85 trang )

MỞ ĐẦU
Ngày nay hoạt động ngân hàng đang không ngừng phát triển. Sự phát
triển đó co thể nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời của các sản
phẩm dịch vụ mới cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn ngân hàng có quy mô
toàn cầu được tạo ra từ làn song sáp nhập, hợp nhất. Tất cả nhưng diễn biến
đó xảy ra nhanh hơn nhưng gì mà chúng ta biết. Mà nguồn lực tài chính từ các
ngân hàng là một trong những yếu tố quan trọng nhất đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(DNVVN). Nguồn tài chính giúp các DNVVN nắm bắt được các cơ hội đầu
tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và nâng cao năng lực
cạnh tranh. Nhưng việc tiếp cận các nguồn tài chính là một trở ngại lớn cho
các DNVVN hiện nay bởi các DNVVN có quy mô nhỏ, vốn chủ sở hữu thấp,
năng lực tài chính chưa cao, thiếu tài sản thế chấp, khả năng xây dựng các dự
án có tính khả thi còn yếu, số liệu thông tin kế toán chưa đáng tin cậy…nên
dưới con mắt của các nhà Ngân hàng, các DNVVN là những khách hàng có
độ rủi ro cao. Tuy nhiên, các DNVVN lại được đánh giá là đối tượng khách
hàng có tiềm năng lớn, trong những năm gần đây nhiều Ngân hàng thương
mại (NHTM) đã không ngừng hoàn thiện và cung ứng nhiều sản phẩm dịch
vụ dành riêng cho đối tượng khách hàng này. Việc hướng các sản phẩm dịch
vụ vào DNVVN đặc biệt là các sản phẩm cho vay Doanh nghiệp đã đem lại
cho các NHTM doanh số hoạt động không nhỏ, góp phần nâng cao vị thế
cạnh tranh của hệ thống NHTM trên thị trường tài chính. . Do vậy: “Nâng cao
hoạt đông cho vay đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Sài gòn chi nhánh
Hà nội ”đã được em chọn làm đề tài nghiên cứu .Với kiến thức và nghiên cứu có
hạn nên không thể tránh khỏi thiếu sót, em mong muốn nhận được những ý kiến
1
phê bình, đóng góp quý báu của các thầy cô nhằm giúp em nâng cao trình độ
hiểu biết về lý luận cũng như thực tiễn tốt hơn.
Kết cấu của đề tài :
Chương I: Phương pháp đánh giá hiệu quả cho vay đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ


Chương II. Thực trạng hiệu quả cho vay đối với các DNVVN tại
SCB Hà nội.
Chương III. Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SCB Hà Nội
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình, chu đáo của
Ths. Lê Hương Lan –là người trực tiếp hướng dẫn em , cũng như các cán bộ
tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài gòn chi nhánh Hà nội đã giúp đỡ em hoàn
thành chuyên đề này.
2
Chương I: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay đối với
DNVVN của NHTM
1.1 NHTM và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm NHTM
Có nhiều quan điểm về ngân hàng thương mại
Theo quan điểm của K. Marx, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp
đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.
Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thì quy định rằng: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số
tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Ở Mỹ, ngân hàng thương mại được coi là công ty kinh doanh tiền tệ,
chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch
vụ tài chính.
Ở Pháp, ngân hàng thương mại được quan niệm là xí nghiệp thường
xuyên nhận tiền gửi của công chúng và sử dụng số tiền đó vào nghiệp vụ chiết
khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ, thì ngân hàng thương mại được định nghĩa là: cơ sở nhận các
khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.
Tóm lại có thể nói rằng: Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng- đặc biệt là tiết kiệm, tín

dụng, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với
bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
3
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư
và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn- hoạt động tạo nguồn vốn cho
ngân hàng thương mại- đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng
hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm vốn chủ sở hữu
và vốn nợ:
a) Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng chủ ngân hàng phải có một khối lượng
vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành
nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ
hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài
chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
Nguồn vốn hình thành ban đầu
Tuỳ theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban
đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, ngân sách nhà nước
cấp vốn( vốn của nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, việc phát hành cổ
phiếu cũng là một hoạt động huy động vốn, các cổ đông đóng góp thông qua
mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh góp;
ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều
phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể.
4
Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ
ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu
nhập ròng thành vốn đầu tư.

Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…để mở
rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu
cầu gia tăng vốn của chủ do ngân hàng nhà nước quy định…Đặc điểm của
hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có
được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
Các quĩ
Ngân hàng có nhiều quĩ. Mỗi quĩ có mục đích riêng. Trước tiên là quĩ dự
phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù
đắp những tổn thất có thể xảy ra. Quĩ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của
vốn dưới tác động của lạm phát...
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả
năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn
chủ sở hữu của ngân hàng( vốn bổ sung).
b) Vốn nợ
Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là
mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng
cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của
dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền của ngân hàng. Nguồn tiền gửi bao gồm có tiền gửi thanh toán; tiền gửi
có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội; tiền gửi tiết kiệm của dân
5
cư, tiền gửi của các ngân hàng khác. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường
cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân
hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.
Tiền vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên,

khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm.
 Vay ngân hàng nhà nước
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ( Thiếu dự trữ bắt
buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng nhà
nước. Hình thức cho vay của NHNN là tái chiết khấu( hoặc tái cấp vốn).
 Vay các tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức
tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ
vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc
giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tím kiếm lãi
suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay
mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các
ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong
nhiều trường hợp nó bổ sung và thay thế cho nguồn vay từ NHNN.
 Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp khác, các doanh nghiệp cũng vay mượn
bằng các phát hành các giấy nợ( kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường
vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn
dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các
khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng
nhu cầu cho vay và đầu tư trung dài hạn.
 vốn nợ khác
6
loại này bao gồm nguồn vốn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn
khác.
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Là tổ chức kinh doanh tiền tệ nên NHTM không chỉ huy động vốn mà
còn phải sử dụng nguồn vốn đó sao cho có mức sinh lời lớn nhất. Sử dụng
vốn như thế nào không chỉ có ý nghĩa với ngân hàng mà còn đối với toàn bộ

nền kinh tế. Các hoạt động sử dụng vốn của NHTM chủ yếu bao gồm: dự trữ,
cho vay, đầu tư.
Dự trữ
Dự trữ hay còn gọi là ngân quỹ. Dự trữ của NHTM là những tài khoản có
tính thanh khoản cao, được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu
cầu khác của NHTM; bao gồm tiền mặt trong két, tiền gửi tại NHTW và tiền
gửi tại các tổ chức tài chính khác. Dự trữ của NHTM là tài sản không sinh lời,
song lại có tính thanh khoản cao, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên của
NHTM, đồng thời giúp cho nền kinh tế ổn định, tránh cho nền kinh tế không
bị rối loạn khi mà các NHTM không đáp ứng được yêu cầu chi trả.
Cho vay
Cho vay là việc mà ngân hàng sẽ đưa cho khách hàng một khoản tiền với
cam kết hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là một
hoạt động rất quan trọng của tín dụng. Ngân hàng không thể huy động vốn rồi
để yên đó mà phải làm cho số vốn đó sinh lãi. NHTM có nhiều hoạt động để
tạo ra lợi nhuận nhưng cho vay vẫn là hoạt động chủ yếu nhất. Trong hoạt
động cho vay bao gồm nhiều phương thức cho vay:
 Thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định và trong khoảnh thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức
7
thấu chi.
số lãi phải trả = Lãi suất thấu chi* Thời gian thấu chi*Số tiền thấu chi
 Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,
không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi.
 Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách

hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu
vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
 Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho
vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay luân
chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh
nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường
xuyên với ngân hàng.
 Cho vay trả góp
Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả
góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn.
 Cho vay gián tiếp
Ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức trung gian, như qua các nhóm
sản xuất, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội phụ nữ…
Đầu tư
Là một đơn vị kinh doanh tiền tệ cho nên NHTM là người nắm vững
8
những thông tin cũng như tình hình kinh tế rõ nhất nên có thể nói các NHTM
là người đầu tư có hiệu quả nhất. Các NHTM thường dùng vốn sở hữu của
ngân hàng và các vốn dài hạn để đầu tư vào các công ty liên doanh, các dự
án…; trở thành cổ đông của công ty cổ phần. Ở Việt Nam thì các NHTM chỉ
được nắm giữ dưới 10% cổ phiếu của công ty.
1.1.2.3 Hoạt động trung gian
Ngoài hoạt động cho vay các NHTM còn thực hiện một số nghiệp vụ
trung gian nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho ngân hàng. Các nghiệp vụ trung
gian như chuyển tiền, tư vấn đầu tư, môi giới đầu tư, uỷ thác, giải ngân…
1.2.3 Vai trò của NHTM

Hoạt động của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đối với sự ổn
định và phát triển của nền kinh tế.
1.2.3.1 Tích tụ, tập trung vốn và phân phối vốn hiệu quả
Các ngân hàng thương mại thông qua chức năng trung gian tài chính của
mình tích tụ, tập trung vốn, phân phối vốn có hiệu quả cho nền kinh tế, nâng
cao đời sống xã hội, góp phần làm cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra
liên tục và ổn định. Đặc biệt đối với các nước mà thị trường chứng khoán
chưa phát triển thì vai trò này của ngân hàng thương mại là rất quan trọng.
Ngân hàng tham gia vào sự ổn định và phát triển của thị trường tài chính.
Ngay cả những nước có thị trường chứng khoán phát triển, thì của ngân hàng
cũng góp phần vào sự phát triển của thị trường tài chính thông qua các dịch
vụ tư vấn đầu tư, cung cấp thông tin.
1.2.3.2 Chuyển thời hạn vốn
NHTM có vai trò chuyển thời hạn vốn. Ngân hàng huy động vốn trong
nền kinh tế, bao gồm nhiều loại vốn có thời hạn khác nhau như vốn ngắn hạn,
9
trung và dài hạn. Sau đó khi cho vay trong nền kinh tế ngân hàng sẽ có những
điều chỉnh linh hoạt về thời hạn để cho vay theo nhu cầu của nền kinh tế. Đây
là một vai trò quan trọng của ngân hàng trong việc giải quyết sự lệch pha về
các nguồn vốn trong nền kinh tế.
1.2.3.3. Cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng
NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng. Các dịch vụ tài chính mà
NHTM thực hiện bao gồm dịch vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư
chứng khoán, các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý. Đó là những dịch vụ đem
lại rất nhiều lợi ích và giúp cho nền kinh tế năng động hơn.
1.2.3.4. Nâng cao hiệu quả sản xuất và lưu thông hàng hóa
NHTM nâng cao hiệu quả sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thông qua
các hoạt động của mình như nhận gửi, cho vay, thanh toán ... ngân hàng cung
cấp toàn bộ thông tin cho nền kinh tế. Thông tin từ phía ngân hàng là những
thông tin chính xác nhất. Do đó, ngân hàng đã tham gia vào việc kiểm soát

các hoạt động của nền kinh tế. Từ đó làm cho quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hoá đươc nâng cao.
1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò DNVVN trong nền kinh tế quốc dân
1.2.1 Khái niệm DNVVN
- Khái niệm doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (Theo Luật Doanh Nghiệp
2005)
- Khái niệm DNVVN:
Có thể nói, DNVVN là bộ phận doanh nghiệp rất quan trọng trong nền
kinh tế Việt nam, đóng góp một phần đáng kể vào Ngân sách Nhà nước, giải
10
quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, tạo tốc độ tăng trưởng kinh
tế…Các DNVVN là một bộ phận doanh nghiệp phong phú với đủ mọi loại
hình doanh nghiệp từ Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác xã đến các Doanh
nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…kinh doanh
trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ở nước ta DNVVN chiếm tỷ
trọng tương đối cao, chiếm hơn 90% tổng số Doanh nghiệp của cả nước. Mặc
dù chiếm tỷ trọng ưu thế nhưng hầu hết các DNVVN đều có quy mô nhỏ cả
về vốn và lao động. Việc xác định quy mô DNVVN chỉ mang tính chất tương
đối vì nó chịu tác động của các yếu tố như trình độ phát triển của một nước,
tính chất ngành nghề và điều kiện phát triển của một vùng lãnh thổ nhất định
hay mục đích phân loại doanh nghiệp trong từng thời kì nhát định. Tuy nhiên,
DNVVN được định nghĩa một cách chung nhất là: DNVVN là những cơ sở
sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh vì mục tiêu lợi
nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo
các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng
thời kỳ quy định của từng quốc gia.
Ví dụ như Đài Loan, các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo

có từ 1 tới 200 lao động được coi là DNVVN, trong khi các doanh nghiệp
trong ngành thương mại- dich vụ có từ 1-50 lao động. Ở Nhật Bản, các
DNVVN trong ngành sản xuất chế tạo có từ 1- 300 lao động và số vốn kinh
doanh không vượt quá 300 triệu Yên, còn các DNVVN trong ngành thương
mại - dịch vụ có số lao động không quá 100 người với số vốn kinh doanh
không quá 100 triệu Yên. Ngược lại ở Mỹ chỉ có một tiêu chí xác định chung
cho các DNVVN là số lao động không quá 500 người
DNVVN ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách
pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao
11
động tuỳ theo quy định của Chính Phủ đối với từng ngành nghề tương ứng
với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 23/11/2001:
DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có đăng ký kinh doanh theo
pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bình hàng năm không quá 300 người.
1.2.2 Đặc điểm của DNVVN ở Viêt Nam
Các DNNVV là các DN có quy mô vốn nhỏ và hầu hết hoạt động trong
các ngành thương mại, dịch vụ sử dụng nhiều lao động. Cũng như các loại
hình DN khác, DNNVV có những đặc điểm nhất định trong quá trình hình
thành và phát triển. Có thể nhận thấy DNNVV có một số đặc điểm cơ bản
sau:
* Về các điểm mạnh:
- DNNVV dễ khởi sự. Các DNNVV thường chỉ cần một lượng vốn ít, số
lao động không nhiều, diện tích mặt bằng nhỏ với các điều kiện làm việc giản
đơn đã có thể bắt đầu kinh doanh ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh.
DNVVN gần như không đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn ngay trong giai
đoạn đầu. Khó khăn lớn đối với các DN là làm sao tạo được nguồn vốn kinh
doanh, nhưng do tốc độ quay vòng vốn nhanh nên DNNVV có thể huy động
vốn từ nhiều nguồn không chính thức khác nhau như bạn bè, người thân để

đáp ưng cho nhu cầu vốn của mình.
- Tính linh hoạt cao. Do hoạt động với quy mô nhỏ cho nên hầu hết các
DNNVV đều rất năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của
môi trường. Trong một số trường hợp các DNNVV còn năng động trong
việc đón đầu những biến động đột ngột của thể chế, chính sách quản lý kinh
tế xã hội cũng như các biến động trên thị trường. Nhờ tính năng động này mà
các DNNVV dễ dàng tìm kiếm và gia nhập thị trừơng khi nhận thấy việc kinh
12
doanh có thể thu nhiều lợi nhuận hoặc rút khỏi các thị trường khi công việc
kinh doanh trở nên khó khăn và kém hiệu quả. Điều này đặc biệt quan trong
đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi hoặc các nền kinh tế đang phát triển
như nước ta.
- Có lợi thế trong việc duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống.
So sánh hai loại hình doanh nghiệp lớn và DNVVN thì DNNVV có lợi
thế hơn trong việc khai thác, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền
thống. khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn lực đầu vào
như lao động, tài nguyên hay vốn tại chỗ của từng địa phương. Từ đó
DNVVN từng bước trưởng thành và lớn mạnh. Mặt khác các DNVVN còn
có nhiều lợi thế hơn các DN lớn trong việc nắm bắt kịp thời nhu cầu và thị
hiếu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng, kết hợp với phương châm đa
dạng hóa sản phẩm đã tạo ra nhiều loại hàng hóa và dịch vụ mới đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
- DNVVN có lợi thế về sử dụng lao động. Quan hệ lao động trong các
DNVVN thường có tính chất thân thiện, gần gũi hơn so với các doanh nghiệp
lớn. Do đó người lao động thường dễ dàng được quan tâm, động viên, khuyến
khích hơn trong công việc. Đặc biệt là mối quan hệ gần gũi, thân thiện đó rất
phù hợp với văn hóa của người Việt Nam.
Với lợi thế trong việc khai thác các nguồn lực sẵn có của địa phương,
DNVVN có những tác động tích cực trong việc tạo ra việc làm cũng như nâng
cao đời sống vật chất và tình thần cho dân cư tại địa phương hoặc duy trì và

bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó, việc phát triển các
DNVVN còn có lợi ích như giảm khoảng cách giữa người giàu và người
nghèo, giảm sự các biệt giữa thành thị và nông thôn, qua đó cũng góp phần
làm giảm tệ nạn trong xã hội.
* Về các điểm yếu:
13
_ Các DNVVN ở Việt Nam thường có công nghệ lạc hậu, thủ công.
Hầu hểt các DNVVN ở Việt Nam đều sử dụng công nghệ lạc hậu từ 15-
20 năm nên sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm lượng
chất xám ít, giá trị thương mại và sức cạnh tranh kém so với sản phẩm cùng
loại của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng máy móc thiết
bị, công nghệ lạc hậu đã và đang là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí
trong sử dụng nguyên nhiên vật liệu và ô nhiễm môi trường…
Do chủ yếu tận dụng nguồn lao động tại địa phương với trình độ kỹ
thuật tay nghề thấp nên khả năng tiếp cận với những công nghệ máy móc hiện
đại là rất khó. Hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô vốn nhỏ, khả
năng huy động vốn lại ít nên thường gặp khó khăn trong việc đầu tư đổi mới
công nghệ và cũng hiếm có các chương trình đào tạo giúp nâng cao tay nghề
cho lao động của doanh nghiệp.
_Trình độ quản lý của chủ DNVVN bị hạn chế, thiếu thông tin trong khi
đó lại khó có khả năng thu hút các nhà quản lý và lao động giỏi. Do khả năng
tài chính có hạn, DNVVN thường gặp thường gặp khó khăn trong việc tiếp
cận thông tin thị trường, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý tiên tiến
cũng như ít có khả năng mua sắm những thiết bị hiện đại. Mặt khác phần lớn
các DNVVN được thành lập do sự góp vốn của những người có vốn, khả
năng quản lý của họ có hạn nên thường gặp lúng túng khi có biến động lớn
trên thị trường. Các nhà quản lý doanh nghiệp chưa được đào tạo, thiếu sự
hiểu biết đầy đủ về quản lý doanh nghiệp trong khi điều kiện hội nhập và
cạnh tranh. Hơn nữa do quy mô sản xuất nhỏ, sản phẩm tiêu thụ không nhiều,
các DNVVN khó có thể trả lương cao cho người lao động nên khó có khả

năng thu hút được những người lao động có trình độ cao trong sản xuất kinh
doanh và quản lý điều hành doanh nghiệp.
_ Các DNVVN có năng lực tài chính thấp
14
Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tăng trưởng của DNVVN. Khi
mới thành lập, phần lớn các DNVVN thường gặp phải vấn đề về vốn. Các nhà
đầu tư, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các doanh nghiệp
này bởi các DNVVN chưa có uy tín trên thị trường cạnh tranh, chưa tạo lập
được khả năng trả nợ. Vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa cao, nếu
chưa tạo dựng được uy tín bằng năng lực kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn
thì doanh nghiệp rất khó tìm được người bảo lãnh cho mình trong quan hệ tín
dụng. Vì thế DNVVN khó tiếp cận được vốn tín dụng của các Ngân hàng
thương mại. Muốn vay vốn được từ nguồn tín dụng của các ngân hàng thương
mại thì các DNVVN phải tạo lập được dự án đầu tư có tính khả thi nhưng do
trình độ, khả năng quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp thấp, khả năng
dự báo trước những biến động của ngành, của nền kinh tế kém nên việc xây
dựng các kế hoạch tài chính, phương án sản xuất kinh doanh khả thi của
không ít DNVVN còn yếu trong khi dịch vụ tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp lại
chưa phát triển. Mặt khác không ít các DNVVN lập báo cáo tài chính chưa rõ
ràng, không minh bạch do yếu kém về quản trị doanh nghiệp nên các báo cáo
tài chính không đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó vẫn còn những doanh
nghiệp lập báo cáo chỉ để đối phó với cơ quan Thuế nên đã cố tình làm giảm
khấu hao tài sản, tăng nợ…Một số doanh nghiệp còn làm trái chức năng, trái
pháp luật, sử dụng giấy tờ giả để lừa cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xin
hoàn thuế hoặc góp vốn liên doanh, liên kết…Do nguồn tài chính hạn hẹp,
quá trình tích tụ và tập trung vốn thấp, khả năng xây dựng các dự án khả thi
yếu, nhiều doanh nghiệp còn hoạt động kinh doanh theo thương vụ, không có
chiến lược phát triển cụ thể nên mức độ rủi ro cao, trong khi các báo cáo tài
chính không đủ sức thuyết phục do chưa chấp hành tốt công tác kế toán thống
kê, một số doanh nghiệp chưa nhận thức đúng, đầy đủ nghĩa vụ và trách

nhiệm pháp lý trong việc đăng ký kinh doanh nên việc tiếp cận vốn tín dụng
15
từ các kênh thương mại cũng như ưu đãi đều rất hạn chế. Như vậy với quy mô
vốn nhỏ, khả năng tiếp cận với các nguồn tài chính lại khó khăn nên tiềm lực
tài chính của các DNVVN đã thấp lại càng thấp hơn, do đó khả năng cạnh
tranh của các DNVVN trên thị trường rất thấp.
Với những đặc điểm nổi bật của các DNVVN ở Việt Nam như trên, cộng
với môi trường canh tranh gay gắt như hiện nay thì việc hỗ trợ phát triển
DNVVN là nhiệm vụ hết sức cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của
nền kinh tế.
1.2.3 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân
Các DNVVN đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển
kinh tế và có vai trò quan trọng trong mạng sản xuất toàn cầu và chuỗi cung
ứng hàng hóa và dịch vụ. Các DNVVN có khả năng tạo ra nhiều việc làm với
chi phí thấp; cung cấp cho xã hội khối lượng đáng kể hàng hóa và dịch vụ và
làm tăng GDP cho nền kinh tế; tăng cường kỹ năng quản lý và đổi mới công
nghệ; góp phần giảm bớt chênh lẹch về thu nhập trong xã hội, xóa đói nghèo;
tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương làm cho nền kinh tế
năng động và hiệu quả hơn, cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế
khác nhau. Mức độ đóng gớp vào sự phát triển kinh tế quốc gia của DNVVN
được thể hiện ở mức độ thu hút lao động, vốn đầu tư, tạo ra giá trị gia tăng
trong nền kinh tế. theo số liệu thống kê của các nước, tỷ trọng thu hút lao
động tạo ra giá trị gia tăng của các DNVVN rất đáng kể. Trong bối cảnh cạnh
tranh gay gắt như hiện nay, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các nước đặc biệt
là các nước đang phát triển cần có các chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN,
có như vậy mới huy động được tối đa nguồn lực xã hội, góp phần hỗ trợ các
doanh nghiệp lớn phát triển, tăng sức cạnh tranh trên thị trường… Vai trò đó
của DNVVN thể hiện cụ thể như sau:
o Thu hút vốn và khai thác nguồn lực sẵn có trong dân cư:
16

DNVVN có vai trò quan trọng trong việc khai thác nguồn tài chính của
dân cư trong vùng và sử dụng tối ưu nguồn lực tại chỗ của các địa phương.
Với việc thành lập một doanh nghiệp loại này chỉ cần một số vốn nhỏ do đó
đã tạo điều kiện cho dân cư tham gia đầu tư góp vốn vào DNVVN. Như vậy
thông qua các DNVVN, những nguồn vốn nhỏ, tạm thời nhàn rỗi đã có khả
năng được sinh lời. Hơn nữa việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của
các DNVVN rất hạn chế, nguồn vốn hoạt động chủ yếu được huy động từ
những người thân quen vì thế DNVVN được tiếp xúc trực tiếp với người cho
vay, người cho vay có khi là chủ sở hữu doanh nghiệp, trực tiếp điều hành
hoạt động của doanh nghiệp nên việc sử dụng vốn sẽ hiệu quả hơn. Bên cạnh
đó các DNVVN có thể tận dụng được nguồn lao động và nguyên vật liệu với
giá rẻ do đó làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tạo lợi thế
cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm. Như vậy sự
phát triển của các DNVVN đã tận dụng được tối đa các nguồn lực của xã hội,
tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động có trình độ, tay nghề thấp góp phần
làm ổn định và phát triển xã hội.
Về tiềm lực vốn: vốn đầu tư là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất.
Vốn là yếu tố cơ bản để khai thác và phối hợp các yếu tố sản xuất khác như
lao động, đất đai, công nghệ và quản lý để tạo ra lợi nhuận cho các chủ doanh
nghiệp. Vốn có vai trò to lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công
nghệ, đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân cũng như trình
độ quản lý của chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên một nghịch lý hiện nay là trong
khi có nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn trầm trọng thì nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư còn nhiều nhưng không huy động được. Khi chính sách tài
chính tín dụng của Chính phủ và các Ngân hàng chưa thực sự gây được niềm
tin đối với những người có vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư thì nhờ sự
đa dạng hoá trong các loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khởi sự bằng
17
nguồn vốn hạn hẹp DNVVN thu hút được đông đảo người dân tham gia. Do
đó, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư được đưa vào đầu tư sản xuất kinh

doanh, hạn chế tiêu dùng không sinh lợi, nhiều DNVVN đã tiếp xúc trực tiếp
với người dân và huy động được vốn để kinh doanh, thành lập doanh nghiệp.
Dưới khía cạnh đó, DNVVN có vai trò to lớn trong việc huy động vốn để phát
triển kinh tế.
Về lao động: đặc điểm chung của các DNVVN là ít vốn và hoạt động
chủ yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động. Do đó, DNVVN ở tất cả các
nước có thể tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Ở
nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển, DNVVN là nơi tạo ra
nhiều việc làm nhất. Hiện nay, DNVVN chiếm 90-99% trong tổng số lượng
các doanh nghiệp các nước, ở Việt Nam con số này là 90%. Mặc dù số lượng
lao động trong các doanh nghiệp không nhiều nhưng tổng số lao động làm
việc trong các DNVVN chiếm tỷ lệ đáng kể từ 50-80%, khi các DNVVN phát
triển sẽ tạo nhiều cơ hội tăng việc làm, thu hút lao động và giảm tỷ lệ thất
nghiệp trong nền kinh tế. DNVVN thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh
doanh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng nhiều lao động, vốn
ít với chi phí thấp nên phần lớn lao động trong khu vực này không đòi hỏi
trình độ cao, mất nhiều thời gian đào tạo và chi phí tốn kém mà chỉ cần bồi
dưỡng hoặc là người lao động có thể tham gia sản xuất trong doanh nghiệp.
Khi những doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ tự động hóa, lao động phổ
thông dư thừa, cầu lao động phổ thông đối với doanh nghiệp lớn giảm mạnh.
DNVVN là nơi thu hút tiếp nhận và đảm bảo thu nhập cho họ. Như vậy có thể
thấy rằng DNVVN có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra và tăng
thêm việc làm cho nền kinh tế, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp và ổn định xã
hội bằng cách thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và chủ yếu bằng vốn
của dân.
18
Trong tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, một
bộ phận lao động không nhỏ dư thừa, với những kinh nghiệm tích luỹ được
trong lao động họ có thể tự thành lập hay tìm kiếm công việc tại các DNVVN
góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh sự phát triển của các DNVVN.

Về khoa học kỹ thuật: với quy mô hoạt động nhỏ, DNVVN thường lựa
chọn kỹ thuật phù hợp với trình độ lao động và khả năng về vốn. Họ kết hợp
kỹ thuật thủ công với kỹ thuật mà người lao động có thể nhanh chóng tiếp thu
và làm chủ trong sản xuất.
o Đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) & thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế:
Sự phát triển nhanh các DNVVN về cả số lượng và chất lượng đã đóng
góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng thu nhập cho các nước.
Cũng như DNVVN ở tất cả các nước, DNVVN ở Việt Nam cung cấp ra
thị trường nhiềt loại hàng hóa khác nhau đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu
dùng trong nước như trang thiết bị và linh kiện cần thiết cho các ngành sản
xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp cũng như các hàng hóa tiêu
dùng khác. Theo số liệu thống kê trong những năm vừa qua DNVVN đã đóng
góp 25-28% GDP của cả nước, vốn kinh doanh của khu vực DNVVN chiếm
2% so với vốn kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Ngoài ra, DNVVN
Việt Nam còn cung cấp hầu hết sản phẩm trong nhiều ngành công nghiệp
truyền thống thu hút nhiều lao động như giầy dép, chiếu cói… việc mở rộng
và phát triển các DNVVN sẽ góp phần không nhỏ trong việc làm tăng GDP,
đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Phát triển DNVVN làm số lượng các doanh nghiệp tăng lên rất lớn, tăng
tính cạnh tranh giảm bớt mức độ rủi ro. Các DNVVN cung cấp nguyên liệu,
sản xuất và tiêu thụ hàng hoá thâm nhập vào ngõ ngách thị trường những nơi
doanh nghiệp lớn không làm được.
19
Các DNVVN tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu, số lượng
DNVVN tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu chiếm 80,6%, nhập khẩu chiếm
84,2% tổng số doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu trên cả
nước. DNVVN thường không có tình trạng cạnh tranh độc quyền, họ dễ dàng
và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. tự do cạnh tranh là con đường tốt
nhất để phát huy mọi tiềm lực. sự phát triển của DNVVN trong giai đoạn đầu

là phương thức tốt nhất để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí đầu tư
thấp, kỹ thuật không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua của dân, từ đó
tăng năng lực sản xuất và sức mua của thị trường.
Quá trình phát triển của DNVVN cũng là quá trình cải tiến máy móc
thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của thị trường. từ đó đổi mới công nghệ, làm quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá diễn ra ở cả chiều rộng và chiều sâu.
với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm của thị trường cao, các
DNVVN có nhiều ưu thế trong việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm đáp
ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. ở một số nước DNVVN
tham gia xuất khẩu chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu từ 30-
50%.
o Tạo sự phát triển giữa các vùng, ngành góp phần phát triển quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Trong quá trình kinh doanh, nhiều DNVVN có thể hỗ trợ cho các doanh
nghiệp lớn kinh doanh một cách hiệu quả hơn như làm đại lý và vệ tinh cho
các doanh nghiệp lớn, cung cấp những bán thành phẩm hay nguyên liệu đầu
vào cho các doanh nghiệp lớn hoặc thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường
mà doanh nghiệp lớn khó có thể với tới để phân phối các sản phẩm của doanh
nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng. mục tiêu hoạt động
của DNVVN là phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân là chủ yếu, sử dụng
20
nhiều lao động do đó giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở các địa phương.
Bên cạnh đó, khi số DNVVN tăng lên sẽ kéo theo sự gia tăng nnhanh chóng
số lượng các sản phẩm và dịch vụ mới trong nền kinh tế. Nhờ hoạt động với
quy mô nhỏ và vừa, các DNVVN có ưu thế là chuyển hướng kinh doanh
nhanh từ những ngành nghề kém hiệu quả sang các ngành khác hiệu quả hơn,
thoả mãn nhu cầu linh hoạt của dân cư. Chính sự phát triển đó của các
DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh, tính linh hoạt và giảm bớt mức độ rủi ro
trong nền kinh tế.

việc phát triển các DNVVN sẽ dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo tất cả các khía cạnh vùng kinh tế, ngành kinh tế và thành phần kinh tế.
trước tiên, đó là sự thay đổi cơ cấu kinh tế vùng nhờ sự phát triển của các khu
vực nông thôn qua phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ ở nông thôn, xóa dần tình trạng thuần nông và độc canh. Các doanh
nghiệp được phân bổ đều hơn về lãnh thổ ở cả vùng nông thôn, đô thị, miền
núi, đồng bằng. Ngoài ra, sự phát triển manh các DNVVN còn có tác dụng
làm cho cơ cấu thành phần kinh tế thay đổi nhờ sự tăng mạnh của các cơ sở
kinh tế ngoài quốc doanh và việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước. sự
phát triển các DNVVN cũng kéo theo sự thay đổi của cơ cấu ngành kinh tế
thông qua sự đa dạng hóa các ngành nghề và lấy hiệu quả kinh tế làm thước
đo. việc phát triển các DNVVN còn có tác dụng duy trì và thúc đẩy sự phát
triển của các ngành nghề truyền thống và sản xuất ra các sản phẩm mang bản
sắc văn hoá dân tộc, khai thác thế mạnh của đất nước.
xuất phát từ một nước kinh tế nông nghiệp, Việt Nam có nhiều làng nghề
thủ công truyền thống nổi tiếng. Các ngành nghề này ngày càng thu hút được
sự đầu tư phát triển của các DNVVN, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn, thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo,
tạo sự phát triển đồng đều, bền vững giữa các vùng. Hình thành nên các vùng
21
sản xuất lớn, nhiều làng nghề xuất hiện góp phần gia tăng sản phẩm hàng hoá
tinh chế, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, thúc đẩy các ngành
nghề phát triển các DNVVN hình thành và phát triển trong những ngành nghề
khác nhau luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau và có mối liên kết với các
doanh nghiệp lớn. nhiều doanh nghiệp nhỏ khi mới ra đời chỉ nhằm mục đích
làm vệ tinh cung cấp các sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn. mối quan hệ
giữa các DNVVN và các doanh nghiệp lớn cũng chính là nguyên nhân thành
công của nền kinh tế Nhật Bản trong nhiều thập kỷ qua. Do đó, khi các
DNVVN Việt Nam phát triển sẽ góp phần tăng cường các mối quan hệ liên
kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các DNVVN và các DNVVN với các doanh nghiệp

lớn, nhờ đó các rủi ro kinh doanh dược phân tán làm tăng hiệu quả kinh tế xã
hội. Đông thời, các DNVVN chính là nguồn tích luỹ ban đầu và là “lồng ấp”
cho các doanh nghiệp lớn. các cơ sở doanh nhân thường xuất phát từ một
DNVVN do chưa có nhiều kinh nghiệm và chưa thật hiểu rõ về thị trường sau
một thời gian hoạt động đã tích luỹ kinh nghiệm và khẳng định vị thế của
mình và mở rộng hoạt động kinh doanh và phát triển với quy mô lớn. từ
DNVVN phát triển và mở rộng thành doanh nghiệp lớn còn tiết kiệm chi phí
đào tạo khi tuyển được các nhân viên có tay nghề từ các DNVVN chuyển
sang có thể nói, DNVVN là tiền đề cho các doanh nghiệp lớn.
1.3 Hoạt động cho vay đối với DNVVN của NHTM
1.3.1 Khái niệm và phân loại cho vay đối với DNVVN của NHTM
- Khái niệm:
Cho vay là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng thương mại để tài trợ
chi tiêu cho các doanh nghiệp, cá nhân và chính phủ. Đây cũng là chức năng
lâu đời nhất của ngân hàng. Cho vay là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận
cho ngân hàng nhưng cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro.
22
Trong quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng ban hanh kèm theo
quyết định số 284/2000/QĐ/NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc ngân
hàng nhà nước Việt Nam, cho vay được định nghĩa như sau: “ cho vay là một
hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích nhất định trong thời gian nhất định theo
sự thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi”.
- Phân loại:
Ngân hàng thương mại cho vay đối với các DNVVN thông qua nhiều
phương thức khác nhau. Trong quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng,
Ngân hàng nhà nước quy định các phương thức cho vay mà các ngân hàng
thương mại được phép áp dụng như sau:
Cho vay trực tiếp
Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng

đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên. Các
DNVVN thường có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất kinh doanh đặc biệt
mới vay ngân hàng, tức là vốn vay ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai
đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. Mỗi lần vay khách hàng phải
làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay, mỗi món vay được
tách biệt ra thành các hồ sơ khác nhau.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: áp dụng đối với những khách hàng có
nhu cầu vay vốn thường xuyên, sản xuất kinh doanh ổn định, có uy tín trong
quan hệ tín dụng với ngân hàng. Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời gian nhất định hoặc chu
kỳ sản xuất kinh doanh.
Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để
thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự
23
án phục vụ đời sống.
Cho vay trả góp: khi vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng cố định và
thỏa thuận số lãi phải trả cộng thêm phần gốc vay rồi chia ra để trả nợ thành
nhiều kỳ hạn theo thời hạn cho vay. Tài sản hình thành từ vốn vay chỉ thuộc
quyền sở hữu của người vay khi mà người vay trả hết phần gốc và lãi.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: căn cứ vào nhu cầu vay vốn
của khách hàng, tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng
vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Trong thời gian hiệu lực
của hợp đồng, nếu khách hàng không hoặc không sử dụng hết hạn mức tín
dụng dự phòng, khách hàng vẫn phải trả phí cam kết.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: tổ chức
tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong hạn mức
tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút
tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: là hình thức cho vay mà tổ chức tín dụng
thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên

tài khoản thanh toán của khách hàng.
Cho vay gián tiếp
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó ngân
hàng cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho
vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội,
nhóm như nhóm sản xuất, Hội Nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội phụ nữ…
Qua đó ngân hàng có thể lựa chọn các phương thức cho vay phù hợp với
từng đối tượng khách hàng mà mình phục vụ để đạt hiệu quả cao nhất. Về
phía khách hàng, họ có nhiều cơ hội tiếp cận hơn với nhiều hình thức vay
24
vốn, tạo thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay thì đối với
đối tượng là DNVVN thì phương thức cho vay của ngân hàng là cho vay từng
lần.
1.3.2. Vai trò của cho vay đối với DNVVN của NHTM
Có thể nói thiếu vốn là khó khăn chủ yếu của các DNVVN Việt Nam và
vì vậy vốn vay dịch chuyển được từ ngân hàng tới doanh nghiệp thông qua
hoạt động cho vay có một vai trò rất quan trọng. Cụ thể như sau:
1.3.2.1. Đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp một cách kịp thời
Nguồn vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp
thường lấy từ các nguồn sau: nguồn vốn chủ sở hữu, vay từ các nguồn vốn phi
chính thức, vay ngân hàng, vay vốn qua thị trường vốn hay thuê mua.
Tăng nguồn vốn chủ sở hữu là biện pháp đơn giản nhất đối với bất cứ
doanh nghiệp nào bởi đây là nguồn vốn do cổ đông đóng góp hoặc vốn của
người chủ. Tuy nhiên giải pháp này thường không thực tế đối với DNVVN vì
thực tế người chủ doanh nghiệp hay cổ đông có nguồn tài chính hạn chế, họ
không có khả năng bỏ ra nhiều hơn số vốn mà họ góp vào doanh nghiệp.
Vay từ các nguồn vốn phi chính thức như vay từ các đối tác kinh doanh,
từ bạn bè… thường có lãi suất cao, số lượng ít, rủi ro lớn không ổn định đối
với DNVVN.
Vay trên thị trường vốn, thị trường vốn của Việt Nam đươc thể hiện

thông qua hoạt động trên thị trường chứng khoán. Mặc dù, thị trường chứng
khoán đang ngày càng chuyển biến tích cực nhưng đối với các DNVVN để có
thể vay vốn tại đó thì gặp nhiều khó khăn vì để vay vốn tại đó cần có rất nhiều
điều kiện như chế độ tài chính minh bạch, làm ăn có lãi trong 2 năm liên
tục… đây là điều mà rất ít DNVVN Việt Nam đáp ứng được.
25

×