Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Những ghi chép đầu tiên của người việt nam về trung đông qua tác phẩm tây hành nhật ký vietnamese the first record of the middle east in the western diary, tạp chí nghiên cứu châu phi và trung đông số (181

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.96 KB, 12 trang )

Những ghi chép đầu tiên...

Lư Vĩ An

VIỆT NAM

NHỮNG GHI CHÉP ĐẦU TIÊN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM VỀ
TRUNG ĐÔNG QUA TÁC PHẨM TÂY HÀNH NHẬT KÝ

Lư Vĩ An
TÓM TẮT
“Tây hành nhật ký” tức “Nhật ký đi Tây” là một tập du ký ghi chép hành trình đi sứ sang Pháp và Tây
Ban Nha của sứ bộ nhà Nguyễn từ năm 1863-1864 do Phạm Phú Thứ, một trong những thành viên của sứ
bộ, “Tây hành nhật ký” biên soạn. Tác phẩm phản ánh nhận thức và hiểu biết của người Việt Nam đương
thời về các vùng đất và con người nơi mà sứ bộ đi qua. Trong chuyến hành trình đi sứ, từ ngày 8 tháng 8
đến ngày 2 tháng 9 năm 1863, sứ bộ nhà Nguyễn đã ghé qua nhiều nơi thuộc lãnh thổ của đế chế Ottoman
(Thổ Nhĩ Kỳ), mà nay là khu vực Trung Đông như Aden (Yemen), Suez, Cairo và Alexandria (Ai Cập). Do
đó trong “Tây hành nhật ký” có nhiều ghi chép rất thú vị về vị trí địa lý, đặc điểm dân cư cũng như phong
tục tập quán của người dân bản xứ ở Trung Đông. Bài viết này tìm hiểu về hành trình của sứ bộ nhà Nguyễn
ở Trung Đơng. Qua đó bài viết phân tích những ghi chép liên quan đến Aden, Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ có
trong tác phẩm.
Từ khóa: Tây hành nhật ký, nhật ký đi Tây, Phạm Phú Thứ, sứ bộ nhà Nguyễn, Trung Đông
Nhận bài: 18/4/2020; Phản biện và sửa chữa: 20/5/2020; Duyệt đăng: 5/9/2020
Abstract
“Tay hanh nhat ky” or “Nhat ky di Tay” (Diary of a Voyage to Western countries) is a travel book that
describes the voyage of the Nguyen Dynasty’s diplomatic mission to France and Spain in 1863-1864, written
by Pham Phu Thu, one of the members of the legation, “Tay hanh nhat ky” reflects the awareness and
knowledge of the Vietnamese about the lands and people where the legation visited at that time. During the
voyage, from August 8 to September 2, 1863, the Nguyen Dynasty’s diplomatic mission visited many places
belong to the territory of the Ottoman Empire (Turkey) which now is the Middle East region such as Aden
(Yemen), Suez, Cairo and Alexandria (Egypt). Therefore, there are many interesting descriptions of the


geographic location, features of population as well as customs and habits of indigenous people in “Tây
hành nhật ký”. This article seeks to the voyage of the Nguyen Dynasty’s diplomatic mission in the Middle
East. Thence, the article analyzes the descriptions relating to Aden, Egypt and Turkey in the itinerary.
Keywords: Diary of a Voyage to Western countries, Pham Phu Thu, Nguyen Dynasty’s diplomatic
mission, Middle East


Đại học Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ

Tạp chí nghiên cứu CHÂU PHI & TRUNG ĐÔNG số 9(181) tháng 9/2020

45


Lư Vĩ An

Những ghi chép đầu tiên...

1. Dẫn nhập
Năm 1858 liên quân Pháp-Tây Ban Nha
tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đến
năm 1862 thì thực dân Pháp chiếm được ba
tỉnh miền Đơng Nam Kỳ là Gia Định, Biên
Hịa và Định Tường. Triều đình nhà Nguyễn
buộc phải kí hịa ước Nhâm Tuất (ngày 5
tháng 6 năm 1862) nhượng ba tỉnh miền Đông
Nam Kỳ cho thực dân Pháp. Dẫu vậy, ngay
sau khi kí hịa ước, triều đình nhà Nguyễn vẫn
tìm cách để lấy lại ba tỉnh bị mất thông qua
các nỗ lực ngoại giao, bằng việc cử một đoàn

sứ bộ sang Pháp và Tây Ban Nha để thương
lượng lại các điều khoản đã kí (Trương Bá
Cần, 1967: 3). Theo tài liệu lưu trữ của văn
khố Bộ Pháp quốc hải ngoại (F.O.M.
Indochine, Carton 10A, 30) thì sứ bộ của nhà
Nguyễn gồm có 63 người do triều đình Huế
đề cử và 9 người từ Sài Gòn do Pháp đề cử
(1). Sứ bộ do Phan Thanh Giản làm chánh sứ,
Phạm Phú Thứ làm phó sứ và Ngụy Khắc Đản
làm bồi sứ (Nguyễn Duy Oanh, 1974: 175)
(Trương Bá Cần, 1967: 16-17). Đoàn sứ thần
của triều đình nhà Nguyễn lên tàu Européen,
khởi hành từ cảng Sài Gòn vào ngày 4 tháng
7 năm 1863, đến cảng Suez (lúc đó vẫn chưa
có kênh đào như hiện nay) vào ngày 17 tháng
8. Từ đây họ tiếp tục đi xe lửa đến Cairo và
Alexandria. Sau đó vào ngày 2 tháng 9 năm
1863, từ Alexandria sứ bộ lên tàu Labrador
tiếp tục hành trình sang Pháp (A. Delvaux,
1926: 70). Ngày 13 tháng 9 sứ bộ của nhà
Nguyễn đặt chân đến Paris nhưng mãi tới
ngày 5 tháng 11 mới có thể gặp hồng đế Pháp
Napoléon III để trình quốc thư. Cũng trong
tháng 11, từ ngày 10 đến ngày 22, sứ bộ nhà
Nguyễn đã đến Tây Ban Nha bằng tàu
Tercoire và yết kiến Nữ hoàng Isabella II vào
ngày 18 tháng 11. Đến ngày 22 tháng 11 thì
46

phái đồn rời Madrid, lên tàu Japon trở về lại

Sài Gòn ngày 18 tháng 3 năm 1864 (Nguyễn
Duy Oanh, 1974: 192).
Trong chuyến hành trình đi sứ sang
phương Tây, đồn sứ thần của nhà Nguyễn đã
có dịp ghé thăm nhiều nơi khác nhau. Cảnh
vật địa phương, đời sống và phong tục tập
quán của người dân bản xứ và những điều mà
sứ bộ tai nghe mắt thấy trên đường đi sứ đã
được ghi chép lại một cách tỉ mỉ trong tác
phẩm 西 行 日 記 “Tây hành nhật ký” tức
“Nhật ký đi Tây”, do Phạm Phú Thứ chắp bút
trong khoảng thời gian từ năm 1863-1864. Về
tác giả, Phạm Phú Thứ (1820-1882), tự Thúc
Minh, hiệu Trúc Đường, biệt hiệu Giá Viên,
quê ở xã Đơng Bàn, huyện Diên Phúc, tỉnh
Quảng Nam. Ơng đậu hội nguyên tiến sĩ khoa
thi năm Quý Mão, niên hiệu Thiệu Trị thứ ba
(tức năm 1843). Phạm Phú Thứ là một đại
thần giữ nhiều trọng trách trong triều đình hai
đời vua Thiệu Trị và Tự Đức. Ngồi ra, ơng
cịn được được biết đến như một nhà canh tân
và nhà văn, nhà thơ với nhiều trước tác nổi
tiếng. Bên cạnh “Tây hành nhật ký” (Giá Viên
biệt lục), Phạm Phú Thứ cịn là tác giả của 蔗
園全集 “Giá Viên tồn tập”, 西浮詩草 “Tây
phù thi thảo”, 竹堂詩文集 “Trúc Đường thi
văn tập” (Trần Văn Giáp, 1990: 157-158)
(Nguyễn Hoàng Thân, 2011: 53).
“Tây hành nhật ký” gồm ba tập và theo lời
tựa thì tác phẩm được dâng lên vua Tự Đức

vào ngày 24 tháng 02 năm Tự Đức thứ 17 (tức
ngày 31 tháng 3 năm 1864) (Ngơ Đình Diệm,
1919: 162) (Đặng Như Tùng dịch, 1998: 6).
Bản gốc của tác phẩm hiện đang được lưu trữ
tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm với nhan đề 蔗
園別錄 “Giá Viên biệt lục”, gồm ba bản chép
khác nhau mang kí hiệu VHv. 1170 (gồm 292
tờ), VHv. 286/1-2 (gồm 188 tờ) và VHv. 2232

Tạp chí nghiên cứu CHÂU PHI & TRUNG ĐÔNG số 09(181) tháng 9/2020


Những ghi chép đầu tiên...

(gồm 104 tờ, riêng bản chép này thiếu mất tập
thứ ba). Tập thứ nhất và thứ hai của Tây hành
nhật ký đã được Ngơ Đình Diệm và Trần
Xuân Toản dịch sang tiếng Pháp (với sự hiệu
đính của Nguyễn Đình Hịe), đăng trên
Bulletin des Amis du Vieux Húe vào năm 1919
và năm 1921. Còn bản dịch tiếng Việt đầu tiên
của Tơ Nam Nguyễn Đình Diệm và Văn Vinh
Lê Khải Văn được đăng trên tạp san Văn Đàn
vào những năm 1960-1962. Bản dịch này sau
đó đã được Nhà xuất bản Văn hóa văn nghệ
Thành phố Hồ Chí Minh tái bản vào năm
2001. Ngồi ra cịn có một bản dịch khác của
Quang Nguyễn do nhà xuất bản Đà Nẵng phát
hành năm 1999.
Là một tập du ký, Tây hành nhật ký ghi

chép lại toàn bộ những sự kiện và địa danh
trong chuyến hành trình sang Pháp của sứ bộ
nhà Nguyễn. Đáng lưu ý, bên cạnh những ghi
chép về quãng thời gian sứ bộ lưu trú ở Pháp
Tây hành nhật ký còn ghi chép về những địa
danh ở khu vực Trung Đông như Aden, Suez,
Cairo ve Alexandria.
Sứ bộ nhà Nguyễn đã lưu trú tại Trung
Đông 26 ngày và vào ngày 8 tháng 8 năm
1863, Suez vào ngày 17 tháng 8, đến Cairo
vào ngày 19 tháng 8 và Alexandria vào ngày
27 tháng 8. Do đó, trong Tây hành nhật ký có
những ghi chép hết sức quý giá về diện mạo
địa lí, đời sống và phong tục tập quán của
người dân Trung Đông, cũng như những cuộc
tiếp xúc, gặp gỡ giữa sứ bộ nhà Nguyễn với
đại diện chính quyền bản xứ.
2. Những ghi chép về Trung Đông trong
Tây hành nhật ký
2.1. Ghi chép về Aden
Aden (ngày nay thuộc Yemen) là một cảng
biển có vị trí chiến lược quan trọng, kết nối

Lư Vĩ An

mạng lưới giao thông hàng hải từ Ấn Độ
Dương qua Hồng Hải (Biển Đỏ) (Mustafa L.
Bilge, 1988: 367). Theo ghi chép của Phạm
Phú Thứ trong Tây hành nhật ký thì sứ bộ nhà
Nguyễn đến cảng Aden (tác phẩm chép là Ađiên) vào giờ mão (khoảng 7 giờ sáng) ngày

hai mươi bốn tháng sáu (tức ngày 8 tháng 8
năm 1863) (Phạm Phú Thứ, 2001: 78). Sứ bộ
nhà Nguyễn lưu trú tại Aden trong hai ngày,
đến ngày hai mươi sáu (tức ngày 10 tháng 8)
thì tiếp tục khởi hành đi đến Suez.
Tuy thời gian dừng chân của sứ bộ nhà
Nguyễn ở Aden rất ngắn nhưng Tây hành
nhật ký cũng có những ghi chép thú vị về vị
trí địa lí và đặc điểm cư dân bản địa ở Aden.
Chẳng hạn, tác phẩm miêu tả “vịnh này thuộc
A-rờ-bi (cịn có tên là A-ráp) phía bắc giáp
Tu-du-ki (Thổ Nhĩ Kỳ) và vượt qua một vịnh
(vịnh Persian) là đến nước Bì-rờ-xa (Persia),
biển cát mênh mơng, bóng người vắng ngắt”;
“người các nước đến tập trung buôn bán,
nhân khẩu chừng hơn bốn trăm (bản dịch
tiếng Pháp là 40.000). Người Tây khi nói nhân
khẩu là kể cả già trẻ, trai gái, trú tại đó hoặc
lui tới bn bán. Ở đó chỉ có người các nước
Miến Điện, Xà-bà (Java), Bì-rờ-xa, A-rờ-bì,
người châu Á Phi Lợi Gia (châu Phi) và người
phương Tây, cịn người Thanh (Trung Quốc)
thì khơng đến đây” (Phạm Phú Thứ, 2001: 7980). Về cư dân của Aden, tác phẩm chép:
“Người bản xứ (thổ dân A-rờ-bi) tóc quăn, da
đen, mặc áo hở tay và cài cúc bên tay trái, họ
sống rải rác nhiều nơi theo từng giống người
và mỗi nhóm đều có đầu mục, khơng thể tập
hợp lại được. Có người theo đạo Hồi và thờ
thần Ma-hơ-mết, có người thờ thần rắn. Sản
vật có các thứ lạc đà, lừa, bị mộng, cừu núi,

ngựa rừng. Họ chỉ ăn đậu nành, khoai lang
và khoai tây chứ khơng có thóc gạo và các thứ

Tạp chí nghiên cứu CHÂU PHI & TRUNG ĐƠNG số 9(181) tháng 9/2020

47


Lư Vĩ An

Những ghi chép đầu tiên...

ngũ cốc khác. Những người ở rải rác ven bờ
biển thì sống về nghề đánh cá hoặc nghề buôn,
nhưng cũng đều bị người Anh nơ dịch cả”
(Phạm Phú Thứ, 2001: 81).
Ngồi ra, Tây hành nhật ký còn đề cập đến
sự hiện diện của người Anh và người Pháp ở
nơi này: “Người Anh đến ở đây trên hai mươi
năm qua, làm bãi chứa than để tiếp tế cho
thuyền đi lại phương Đông. Nước Phú-lãng
sa (Pháp) cũng thuê đất, chở than đến chứa ở
đấy và đặt lãnh sự để trông coi”; cùng sự nổi
dậy của người dân bản địa để chống lại ách
thống trị ngoại bang “Một số dân bản xứ
khơng chịu đầu hàng, họ rình nơi vắng để giết
người Anh” (Phạm Phú Thứ, 2001: 79).
Trong thời gian ở Aden thì một thành viên
của sứ bộ là thông ngôn Nguyễn Văn Trường
bị bệnh và đột ngột qua đời nên đã được chôn

cất tại Aden (Phạm Phú Thứ, 2001: 81).
Sau thời gian tạm dừng chân lại ở Aden,
đồn sứ bộ của nhà Nguyễn tiếp tục hành trình
đến Suez vào cuối giờ mão (từ 5 giờ đến 7 giờ
sáng) ngày hai mươi sáu tháng sáu (tức ngày
10 tháng 8 năm 1863).
2.2. Ghi chép về Suez
Suez (Ai Cập) ngày nay là một kênh đào
có vị trí chiến lược trọng yếu kết nối Hồng
Hải với Địa Trung Hải, nhưng vào thời điểm
mà đoàn sứ bộ nhà Nguyễn đến Suez (năm
1863) thì nơi đây vẫn chỉ là một cảng biển,
chưa có kênh đào. Ý tưởng đào kênh đã được
manh nha từ những năm 1560 dưới thời
Sultan Selim II (1566-1574) của đế chế
Ottoman. Nhưng dự án đào kênh chỉ chính
thức được khởi công vào năm 1859 và mãi
đến năm 1869, (tức sáu năm sau khi sứ bộ nhà
Nguyễn ghé qua) thì kênh đào Suez mới được
khai thông (Mustafa L. Bilge, 2010: 186).
48

Theo ghi chép của Tây hành nhật ký thì sau
khi rời Aden, đến ngày mùng bốn tháng bảy
(tức ngày 17 tháng 8 năm 1863) sứ bộ nhà
Nguyễn mới tới được cảng Suez. Như vậy tàu
của sứ bộ nhà Nguyễn đã có một hải trình kéo
dài khoảng 7 ngày để đi từ Aden đến Suez:
“Từ A-điên đến đây phải bảy ngày, thuyền đi
được bốn ngàn sáu trăm bốn mốt dặm với hơn

sáu mươi chín trượng” (Phạm Phú Thứ, 2001:
87). Trong hải trình khoảng 7 ngày này, tàu
của sứ bộ nhà Nguyễn đã đi qua nhiều địa
danh nổi tiếng ở khu vực Trung Đông, được
nhắc đến trong Tây hành nhật ký như cảng
Djeddah, vịnh Aqaba, cảng Djoubal và núi
Sinai. Chẳng hạn, tác phẩm chép về cảng
Djeddah (ngày nay thuộc Ả Rập): “Ngày hai
chín tháng sáu (13 tháng 8 năm 1863), giờ
dậu (từ 5 đến 7 giờ tối), thuyền đi ngang qua
núi Xu-bà-gia (?) ở phía tây và đối diện với
cửa Chiết Đa (Djeddah) ở phía đơng (cửa này
thuộc về A-rờ-bi, từ bờ biển phía bắc này đi
vào trong đất liền chừng vài chục dặm thì đến
thành La-mết (La Mecque, Mecca), nghe nói
mộ của ông tổ đạo Hồi là Mô-ha-mét ở tại
đây)” (Phạm Phú Thứ, 2001: 84). Ghi chép về
vịnh Aqaba: “Ngày mùng ba tháng bảy (16
tháng 8 năm 1863), vào giờ sửu (từ 1 giờ đến
3 giờ sáng), thuyền đi ngang qua cửa vịnh Aca-bà (Aqaba) ở phía đơng (thuộc A-rờ-bi,
cửa rộng chừng sáu mươi dặm, dài hơn hai
trăm dặm, vịnh này dẫn vào xứ Du-đề (Judea,
tức xứ Palestine và Israel ngày nay), cịn gọi
là Xu-diêu-trì, có thành Biết-lê-iêm
(Bethlehem), tục truyền rằng đó là nơi Di-du
(Jesus) giáng sinh, lại có thành Gia-liêm
(Jerusalem), tương truyền là nơi Di du phục
sinh, nay thuộc về nước Tu-du-ki (Thổ Nhĩ
Kỳ)”. Sau đó tàu của sứ bộ đi vào cảng
Djoubal: “Thuyền vào cửa Duy-bàn (Djoubal)


Tạp chí nghiên cứu CHÂU PHI & TRUNG ĐÔNG số 09(181) tháng 9/2020


Những ghi chép đầu tiên...

(phía tây là Y-điệp (Ai Cập), phía đơng là Tudu-ki, cửa này rộng hơn sáu mươi dặm, dài
một trăm hai mươi dặm). Phía tây cũng có
đảo gọi là Duy-bàn, nước Y-điệp có dựng đèn
chiếu ở đấy. Lại có một ngọn núi hết sức cao
lớn gọi là Xi-na-y (Sinai) (sách tây chép rằng
ba ngàn năm về trước, Mơ-i-căng (Moise),
người Xu-diêu (Judea), lên trên núi, bắt được
một hịn đá có mười điều răn, bèn truyền lại
cho học trị. Mười điều răn ngày nay của đạo
Da-tô (Ki tô) là do đó mà ra)” (Phạm Phú Thứ,
2001: 85-86).
Sứ bộ của nhà Nguyễn đến cảng Suez vào
giờ sửu (từ 1 đến 3 giờ sáng) ngày mùng bốn
(tức ngày 17 tháng 8 năm 1863) và lưu lại ở
đây đến ngày mùng sáu (ngày 19 tháng 8) thì
tiếp tục khởi hành đi Cairo. Tuy thời gian sứ
bộ ở Suez cũng rất ngắn nhưng trong Tây
hành nhật ký cũng có các ghi chép tỉ mỉ về
diên cách địa lí và đặc điểm dân cư của Suez:
“Chỗ này thuộc về đất của nước Y-điệp, cũng
là nơi tiếp giáp của châu Á Phi Lợi Gia với
đất châu Á Tế Á ở đông nam và với hải phận
của châu Âu La Ba ở tây bắc. Vịnh rộng vài
chục dặm, hai bên bờ đều là cồn cát, thuyền

các nước đậu ở bến thường là mười mấy
chiếc...Trên bờ, người Y-điệp và người Anh
dựng nhiều dãy phố và hiệu buôn. Dân số ước
chừng bốn, năm ngàn, nhưng khơng có mạch
nước tốt, nên người ta phải lấy nước ở sông
Nhĩ-lô (sông Nile) (sông này bắt nguồn từ
vùng núi lớn của sa mạc châu Á Phi Lợi Gia
và chảy về hướng tây bắc, ngang qua nước Yđiệp rồi ra biển)” (Phạm Phú Thứ, 2001: 87).
Cũng trong thời gian ở Suez, sứ bộ nhà
Nguyễn đã có cuộc gặp gỡ với quan trấn người đứng đầu thành Suez và vị lãnh sự
người Pháp ở nơi này: “Giờ tỵ (từ 9 đến 11

Lư Vĩ An

giờ sáng), quan trấn thành Xu-ết (Tây hành
nhật ký chép Suez là Xu-ết) cùng với lãnh sự
Phú-lãng-sa ở thành phố là Ê-vi-gia (?) đến
thăm chúng tôi”. Theo đánh giá của sứ bộ thì
người Pháp đặt lãnh sự ở cả Suez và
Alexandria, nhưng chức lãnh sự ở Alexandria
có quyền lớn hơn chức lãnh sự ở Suez (Phạm
Phú Thứ, 2001: 87-88). Qua ghi chép của tác
phẩm, có thể thấy được tầm ảnh hưởng rất
đáng kể của người Pháp ở Ai Cập thời bấy giờ,
mặc dù khi đó Ai Cập vẫn cịn là một xứ phụ
thuộc của đế chế Ottoman-Thổ Nhĩ Kỳ:
“Nước này từ lâu đời đã có quan hệ hữu hảo
với Phú-lãng sa. Tơi hỏi để tìm hiểu thì được
lãnh sự Phú-lãng-sa cho biết là những nơi mà
phái đồn chúng tơi đi qua đều thuộc đất Yđiệp và người Y-điệp nhận các tổn phí về vận

chuyển xe cộ, nhà ở cũng như lương thực,
khơng bao giờ buộc người Phú-lãng-sa phải
hồn lại” (Đặng Như Tùng dịch, 1998: 34).
Cũng trong thời gian ở Suez, khi tàu của sứ
bộ nhà Nguyễn vừa mới vào cảng Suez, có một
câu chuyện thú vị xoay quanh lá cờ khâm sứ
của sứ bộ được ghi chép lại trong Tây hành nhật
ký đó là theo nghi thức đón tiếp sứ bộ ở Suez,
sứ bộ nhà Nguyển cần phải treo cờ của nước
mình lên cột buồm giữa tàu. Tuy nhiên, vì lá cờ
mà sứ bộ mang theo có màu giống với cờ của
xứ Ai Cập (đều màu đỏ) nên để phân biệt, sứ bộ
đã đính thêm bốn chữ “Đại Nam khâm sứ” ở
hai mặt lá cờ (Phạm Phú Thứ, 2001: 90).
Khi đó ở Suez kênh đào vẫn chưa hoàn tất
nên để tiếp tục hành trình, đồn sứ bộ nhà
Nguyễn phải dùng xe lửa di chuyển tới Cairo.
Như vậy, sau hai ngày dừng chân ở Suez, giữa
giờ thìn (khoảng 9 giờ sáng) ngày mùng sáu
(tức ngày 19 tháng 8 năm 1863) sứ bộ lên xe
lửa đi Cairo.

Tạp chí nghiên cứu CHÂU PHI & TRUNG ĐÔNG số 9(181) tháng 9/2020

49


Lư Vĩ An

Những ghi chép đầu tiên...


2.3. Ghi chép về Cairo
Khởi hành từ Suez vào giữa giờ thìn đến
giờ ngọ (tức giữa trưa) của ngày hơm đó
(ngày 19 tháng 8) thì sứ bộ nhà Nguyễn đã
đến được Cairo, kinh đơ của Ai Cập, mà Tây
hành nhật ký chép là thành Kê. Như vậy sứ bộ
chỉ mất khoảng hơn hai giờ để di chuyển từ
Suez sang Cairo: “Giữa giờ ngọ, đến thành
Kê, kinh đô của nước Y-điệp. Trong hai giờ
này, xe đi được hai trăm mười dặm” (Phạm
Phú Thứ, 2001: 93). Theo ghi chép của Tây
hành nhật ký thì sứ bộ nhà Nguyễn đã dừng
lại lưu trú ở Cairo khoảng 9 ngày, tới ngày 27
tháng 8 mới tiếp tục khởi hành lên đường.
Thời gian dừng chân ở Cairo khá lâu nên hoạt
động của sứ bộ ở đây cũng như ghi chép của
Tây hành nhật ký về Cairo được xem là nhiều
hơn các nơi khác.
Sau khi đến Cairo thì vào hơm sau, ngày
mùng bảy (tức ngày 20 tháng 8 năm 1863),
đoàn sứ bộ đã có buổi yết kiến Phó vương Ai
Cập khi đó là İsmail Paşa (Isma’il Pasha),
người cai trị Ai Cập trong giai đoạn 18631879 (2). Theo ghi chép của Tây hành nhật ký
thì “Quốc trưởng năm đó ba mươi hai tuổi”,
nơi tiếp đón sứ bộ được gọi là “lầu Lê-xi-đề
(cung điện Gezirah) nằm trên đảo giữa sông
Nhĩ-lô” (Phạm Phú Thứ, 2001: 94).
Bên cạnh đó, Tây hành nhật ký cũng có các
mơ tả về diên cách địa lí và khái qt lịch sử

của Ai Cập: “Đất nước Y-điệp nam-bắc dài
hơn một ngàn năm trăm dặm, đông-tây rộng
hơn một ngàn ba trăm sáu mươi dặm, chiếm
một phương của châu Á Phi Lợi Gia, cho nên
là một nước lớn vậy. Ba, bốn ngàn năm về
trước, nước họ đã có vua, sau bị nước Tu-ducơ (cũng gọi là Tu-du-ki) thơn tính, rồi bị
nước Phú-lãng-sa đánh chiếm. Được bốn
50

năm, tổ tiên của Quốc trưởng hiện nay là Mêhi-mết Á-li (Mehmed Ali) trước kia đi học ở
Tu-du-ki, ra làm quan kỵ binh, đang đi chinh
chiến thì gặp dịp người Phú-lãng-sa trong
nước có chuyện phải bãi binh. Mê-hi-mết bèn
thừa chỗ sơ hở đó của đối phương mà giành
lại nước. Người Phú-lãng-sa không trở lại
nữa. Mê-hi-mết bèn xin Tu-du-cơ phong cho
mình làm ba-sa (paşa). Từ đó, nước Y-điệp
tách ra làm chư hầu của Tu-du-cô, phải chịu
sưu cống, truyền đến nay - năm đầu của basa It-ma-in (İsmail) là bốn đời, sáu mốt năm
vậy” (Phạm Phú Thứ, 2001: 95-96). Những
ghi chép này khi đối chiếu lại với thực tế lịch
sử của nước Ai Cập thì hồn tồn trùng khớp.
Đó là việc Ai Cập bị người Thổ Ottoman thơn
tính năm 1517, trở thành một trấn
(beylerbeyliği hay eyalet) thuộc đế chế
Ottoman. Đến cuối thế kỉ XVIII, khi ảnh
hưởng của đế chế Ottoman ở đây bắt đầu suy
yếu, vào năm 1798 người Pháp đứng đầu là
Napoléon Bonapart đã mở cuộc viễn chinh
sang Ai Cập, kéo dài đến năm 1801. Bốn năm

sau, vào năm 1805 Mehmed Ali Paşa trở
thành tổng trấn (vali) của Ai Cập và bắt đầu
triều đại cai trị của mình, kéo dài đến thời của
İsmail Paşa là trải qua bốn đời, nếu tính ln
İsmail Paşa là đời thứ năm (Seyyid
Muhammed es-Seyyid, 2004: 563) (Hilal
Gưrgün, 2004: 569).
Ghi chép về khí hậu và dân cư của Ai Cập:
“Khí hậu ấm nóng, hai ba năm mới có trận
mưa nhỏ. Dân trong nước dùng nước sông
Nhĩ-lô để uống, múc, tưới. Người ta đặt máy,
đào mương ngồi ngàn dặm để dẫn nước
sơng về các nơi, dùng không hết. Ven hai bên
bờ sông, trồng dây tiêu, lúa mì, dưa, bơng, lúa
cùng các thứ cây có trái lạ. Từ bờ ruộng bên
này đến bờ ruộng bên kia trơng xa tắp…Dân

Tạp chí nghiên cứu CHÂU PHI & TRUNG ĐÔNG số 09(181) tháng 9/2020


Những ghi chép đầu tiên...

số cả nước hơn bốn triệu, riêng thành Kê có
bốn chục vạn. Số binh lính thường trực là bốn
vạn, khi động binh thì đến hai chục vạn”
(Phạm Phú Thứ, 2001: 100). Về diện mạo của
thành Cairo, Tây hành nhật ký chép: “Thành
Kê là một nơi đô hội lớn, có sơng Nhĩ-lơ bao
quanh. Ở hai bên bờ sơng có đến bốn, năm
cung điện. Trên bờ sơng, phố xá của người Y

kéo dài mười mấy dặm (phần lớn là nhà nóc
bằng, cao bốn, năm tầng). Trên đường phố,
xe ngựa qua lại như thoi, tiếng ca hát, tiếng
kèn trống náo nhiệt đến đêm. Người Phú,
người Anh, người Y-ta-li ở buôn bán cũng
đông” (Phạm Phú Thứ, 2001: 96).
Tây hành nhật ký cịn đề cập đến chữ viết
tượng hình của người Ai Cập: “Chữ viết hình
cơn trùng, chim, thú và viết hàng ngang từ
phía tay mặt sang. Cũng có người viết chữ
Phú-lãng-sa hoặc chữ A-rạp (chữ A-rạp
giống cành trúc nhỏ hoặc như thân cây cỏ)”
(Phạm Phú Thứ, 2001: 96).
Tác phẩm miêu tả rất chi tiết về trang phục
truyền thống cùng với phong tục tập quán của
người dân xứ Ai Cập. Đại khái rằng: “Theo
tục họ, hễ thấy khách cùng người tôn q thì
cúi mình, đưa bàn tay từ ngang tim lên đến
ngang trán để chào. Tơi tớ thì vịng tay kính
cẩn, nếu có đưa vật gì thì quỳ xuống mà đưa.
Bạn bè gặp nhau thì chạm mũi để tỏ tình thân
ái. Họ lấy vợ, gả chồng từ rất sớm: trai gái từ
mười tuổi trở lên là cưới gả...” (Phạm Phú
Thứ, 2001: 97). Đáng lưu ý là ghi chép về tục
hút thuốc và uống cà phê của người dân Ai
Cập, trong đó cà phê là thứ rất đỗi xa lạ dưới
góc nhìn của người Việt thời bấy giờ. Về tục
hút thuốc: “Họ có tục nghiện hút ống điếu.
Ống điếu được gọi là xuy-bỳt (ting Th Nh
K: ỗubuk) (ng trũn gn hai tc, dài chừng

ba thước, miệng điếu làm bằng đá có vân

Lư Vĩ An

vàng, thân ống bọc bằng hàng kim tuyến, có
cái lại bằng ngọc. Loại ống điếu vòng tròn giá
rất đắt: một ống điếu đến mấy ngàn quan).
Cũng có loại điếu bình có nước gọi là na-kilê (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: nargile)…”. Về tục
uống cà phê: “Trà đậu quí gọi là ca-hịe (cà
phê) rót trong chén nhỏ để trên đế làm bằng
bạc hay vàng sợi. Sau khi ăn cơm hoặc khi đãi
khách, đều chỉ dùng một chén mà thôi” (Phạm
Phú Thứ, 2001: 97). Ở đây nargile (vốn là từ
qalyân trong tiếng Ba Tư) và cà phê (kahve)
đều là những tập tục của người Thổ Ottoman
được lan truyền đến các vùng lãnh thổ thuộc
đế chế Ottoman, trong đó có Ai Cập. Đặc biệt
cà phê sau đó đã lan tỏa đến các thành phố lớn
ở châu Âu và cả thế giới (İdris Bostan, 2001:
203).
Về tôn giáo của xứ Ai Cập, Tây hành nhật
ký chép như sau: “Họ theo đạo Hồi, nên làm
nhiều tháp thờ thần Ma-hô-mét, tháp rất to và
đẹp. Đạo trưởng của họ gọi là Y-mang (imam)
(Y-mang cũng có người mù, người ta mời Ymang khi có lễ chơn cất). Hàng ngày, người
theo đạo, bất kể ở nơi nào, đều hướng về
phương Đông lạy và đọc kinh năm lần (Mộ
của Ma-hô-mét ở tại thành La-mết, phía đơng
nước Y-điệp, cho nên họ hướng về phương
đông lạy; khi lạy, dùng nước để rửa mặt, nếu

khơng có nước thì lấy cát xát mặt). Quốc
trưởng của họ lập đàn riêng, cứ mỗi ngày làm
lễ ba lần. Đạo của họ cấm ăn thịt heo và uống
rượu, cho nên trong nước không nấu rượu và
nuôi heo” (Phạm Phú Thứ, 2001: 99).
Tác phẩm cũng đề cập đến lễ hội truyền
thống của người Hồi giáo. Theo Tây hành
nhật ký thì ngày mười ba tháng bảy (26 tháng
8 năm 1863) là ngày lễ của Ai Cập: “A-mết
(Ahmed) nói ngày hơm đó là ngày mười tháng
ba của nước Y-điệp (lịch của các nước

Tạp chí nghiên cứu CHÂU PHI & TRUNG ĐƠNG số 9(181) tháng 9/2020

51


Lư Vĩ An

Những ghi chép đầu tiên...

phương Tây đều bắt đầu từ năm sinh của Datơ, tính đến nay là 1863 năm. Cịn nước Y theo
đạo Hồi, tính từ khi Ma-hơ-mét xướng ra đạo
Hồi tại thành Bì-lê-na (tức Medine, Ả Rập)
đến nay là 1280 năm. Lịch Hồi khơng có phép
tính nhuận, nên cứ ba mươi ba năm thì có một
năm bốn mùa thay đổi không theo lệ thường).
Thường năm, ngày này là ngày lễ lớn của đạo
Hồi (A-mết theo đạo Da-tơ). Nhân dịp đó,
người ta mời chúng tơi và Lý-a-nhi (Henri

Reunier) đến nhà thờ riêng của con cháu Mahô-mét” (Phạm Phú Thứ, 2001: 107-108).
Đặc biệt trong thời gian lưu trú ở Cairo, sứ
bộ nhà Nguyễn đã có dịp tham quan thành phố
và chiêm ngưỡng nhiều thắng cảnh, di tích
lịch sử nơi đây, trong đó cụm kim tự tháp ở
Giza - một trong bảy kì quan của thế giới cổ
đại. Bởi vậy trong Tây hành nhật ký có ghi
chép về kim tự tháp, đồng thời cũng đề cập
đến các kì quan cịn lại của thế giới cổ đại: “Ở
góc nam của thành, cách sông vài chục dặm
xa xa, trên đất bằng, nổi lên ba chóp cao sừng
sững. Chúng tơi hỏi người ta nói rằng, đó là
lăng tẩm của các vị quốc trưởng thời trước
của nước Y-điệp. Người ta dùng nhiều thứ đá
để xây những ngôi mộ cao hơn ba trăm bảy
mươi thước... Những kim tự tháp là những kỳ
quan của thế giới ghi trong sách Âu”. Các kỳ
quan khác bao gồm “pho tượng lớn bằng
đồng ở Tiểu Á; mô-do-lê-âm (mausoleum)
của vua A-di-mi-nê (Achaemenid); vườn treo
ở Ba-bi-luân (Babylon); thành Ba-bi-luân;
đền thờ Đi-a-na (Diana tức nữ thần Artemis
trong thần thoại Hy Lạp cổ đại) ở thành Yphê-do (Ephesus); tượng Du-bi-tê (tức thần
Jupiter trong thần thoại Hy Lạp cổ đại) tại
thành O-liêm (Olympia) thuộc nước Lê-cô
(Hy Lạp)” (Phạm Phú Thứ, 2001: 103-106).
Với những ghi chép này Tây hành nhật ký
52

cũng chính là tài liệu đầu tiên của người Việt

đề cập đến bảy kỳ quan của thế giới cổ đại.
Sau một khoảng thời gian dừng chân ở
Cairo, vào giờ giữa thìn (khoảng 8 giờ sáng)
ngày mười bốn (tức ngày 27 tháng 8 năm
1863) sứ bộ nhà Nguyễn rời Cairo tiếp tục lên
tàu Labrador để đi tới Alexandria (Phạm Phú
Thứ, 2001: 107-108).
2.4. Ghi chép về Alexandria
Theo ghi chép của Tây hành nhật ký thì vào
cuối giờ ngọ (1 giờ chiều) sứ bộ đến thành
Alexandria (trong tác phẩm chép là Á-lêxang-rí, cũng gọi là thành Xang-rí). Từ Cairo
đến Alexandria mất hai tiếng rưỡi và xe lửa
chở sứ bộ đã đi được 370 dặm (Phạm Phú Thứ,
2001: 111). Cho đến khi lên tàu Labrador để
tiếp tục hành trình sang Pháp vào ngày hai
mươi tháng bảy (tức ngày 2 tháng 9 năm 1863)
thì sứ bộ nhà Nguyễn đã dừng chân tại
Alexandria khoảng một tuần.
Cũng như những nơi khác mà sứ bộ đã ghé
lưu trú, Tây hành nhật ký trước hết ghi chép
về diện mạo của thành Alexandria: “Phố đều
là ba, bốn tầng. Người Y cùng với người Anh,
người Phú ở bn bán rất đơng, hàng hóa Tây
phương tràn ngập. Ở các cổng đường qua lại,
có chừa đất trống để trồng cỏ, hoa và xây
giếng nhỏ, giữa giếng dựng trụ sắt để quay
nước lên. Mỗi ngày cứ đến chiều vặn vịi thì
nước phun thành hình hoa, làm nơi dạo chơi
xem cảnh. Tính nhân khẩu có hơn hai chục
vạn, mật độ kém hơn thành Kê, nhưng nhà

cửa, thành quách phần lớn là mới làm, lại rất
sang và đẹp” (Phạm Phú Thứ, 2001: 112).
Trong thời gian ở Alexandria, sứ bộ nhà
Nguyễn cũng gặp gỡ lãnh sự Pháp và viên
quan trấn thành tại đây. Tây hành nhật ký đề
cập đến sự hiện diện và ảnh hưởng của người

Tạp chí nghiên cứu CHÂU PHI & TRUNG ĐÔNG số 09(181) tháng 9/2020


Những ghi chép đầu tiên...

Pháp ở Alexandria: “Ở đây, nước Phú-lãngsa đặt chánh và phó lãnh sự cùng một quan
năm có cầu vai bằng chỉ vàng và một quan ba
có cầu vai bằng chỉ bạc. Họ chia nhau nắm
các việc thuyền bè, tiền bạc và hàng hóa”
(Phạm Phú Thứ, 2001: 113).
Tây hành nhật ký cũng ghi chép sự tích về
nữ hoàng Cleopatra - vị nữ hoàng nổi tiếng
trong lịch sử Ai Cập cổ đại thời kì Hy Lạp hóa,
người cai trị cuối cùng của Ai Cập trước khi
bị biến thành một tỉnh của đế chế La Mã (năm
30 trước Công ngun): “Trên một trái gị cao
ở phía nam thành ấy có một trụ đá, cao bốn
trượng, ghi sự tích một bà phi của quốc
trưởng nước Y thời trước (chuyện rằng: vài
trăm năm về trước, quốc trưởng nước Y-điệp
là Lê-Mê (Ptolemee) chết, em trai lên nối ngôi,
nàng Cơ-lê-ô là cung phi của Lê-Mê, bị em
truất ngôi, bèn chạy sang phương Tây, vào

nước Rô-ma xin nước ấy giúp. Quốc trưởng
Rô-ma sai tướng là An-toan (Antonius) sang
giúp nàng. Cơ-lê-ô tự xưng là quốc trưởng và
lấy An-toan, nên quốc trưởng Rô-ma lại sai
quan tên là Ốc-tao (Octavian, tức Augustus)
đến bắt An-toan. Cơ-lê-ô kêu xin không được.
An-toan thắt cổ chết, Cơ-lê-ô cũng lấy một
con rắn cho cắn tay mình mà chết. Về sau,
người vùng đó muốn ghi nhớ Cơ-lê-ô nên
dựng trụ đá để ghi)” (Phạm Phú Thứ, 2001:
114-115). Tuy ghi chép này chưa hồn tồn
chính xác, chẳng hạn về mặt thời gian là hơn
hai ngàn năm chứ khơng phải vài trăm năm,
nhưng nó cũng đã phản ánh sự quan tâm của
sứ bộ về các sự tích lịch sử thú vị của địa
phương nơi mà họ đi qua.
Trong lúc sứ bộ nhà Nguyễn dừng chân tại
Alexandria, thì vào ngày mười sáu tháng bảy
(tức ngày 29 tháng 8 năm 1863), một thành
viên của sứ bộ là chánh y Nguyễn Văn Huy

Lư Vĩ An

bệnh qua đời và được chôn cất lại ở
Alexandria (Phạm Phú Thứ, 2001: 115).
Theo ghi chép của Tây hành nhật ký thì sau
khoảng một tuần lưu trú ở Alexandria, vào giờ
tỵ (từ 9 đến 11 giờ sáng) ngày hai mươi tháng
bảy (tức ngày 2 tháng 9 năm 1863), sứ bộ lên
tàu Labrador để tiếp tục hành trình sang Pháp.

Quãng thời gian sứ bộ nhà Nguyễn dừng chân
lưu trú ở khu vực Trung Đông kết thúc. Sau
khi hoàn tất sứ mệnh ngoại giao ở Pháp và
Tây Ban Nha, trên đường trở về vào ngày 23
tháng 01 năm 1864, sứ bộ có quay lại
Alexandria, một tuần sau thì đến Suez, và tại
đây sứ bộ lên tàu Japon để về lại Sài Gòn (Hà
Xuân Liêm dịch, 2004: 120).
2.5. Ghi chép liên quan đến Thổ Nhĩ Kỳ
Mặc dù đoàn sứ bộ nhà Nguyễn trong suốt
chuyến hành trình chưa từng đi đến İstanbul,
kinh đơ của đế chế Ottoman khi đó, nhưng
Tây hành nhật ký cũng nhiều lần nhắc đến
Thổ Nhĩ Kỳ với tên gọi 須油姑 “Tu Du Cô”
hoặc 須油箕 “Tu Du Ky” (3). Khảo cứu các
ghi chép trong tác phẩm, có thể thấy được
nhiều dữ kiện, nội dung có liên quan đến Thổ
Nhĩ Kỳ vào thời bấy giờ.
Khi nói đến mối liên hệ phụ thuộc của Ai
Cập với Thổ Nhĩ Kỳ, việc Thổ Nhĩ Kỳ đặt
chức phó vương (hidiv) với tước hiệu pasha ở
Ai Cập thì tác phẩm cho biết: “ba-sa là chức
quan lớn của nước Tu-du-ki, nước Y-điệp
thần phục nước Tu-du-ki nên phong chức ấy
cũng như là chức phó vương vậy” (Phạm Phú
Thứ, 2001: 88). Pasha (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ:
paşa) ở đây là tước hiệu cao nhất của người
đứng đầu về mặt quân sự và hành chính vào
thời Ottoman (Abdülkadir Özcan, 2007: 182).
Tây hành nhật ký cũng miêu tả quốc kỳ của

Thổ Nhĩ Kỳ, dù trong tác phẩm nói đến là cờ

Tạp chí nghiên cứu CHÂU PHI & TRUNG ĐÔNG số 9(181) tháng 9/2020

53


Lư Vĩ An

Những ghi chép đầu tiên...

xứ Ai Cập, nhưng thực chất đó là cờ của Thổ
Nhĩ Kỳ vì khi đó Ai Cập vẫn cịn là phiên
thuộc của Thổ Nhĩ Kỳ: “Cờ nền đỏ, ở giữa là
hình trăng lưỡi liềm màu trắng bọc lấy một
ngơi sao có cánh cùng màu trắng” (Phạm Phú
Thứ, 2001: 90).

Trong thời gian lưu trú ở Alexandria, sứ bộ
nhà Nguyễn có dịp tham quan các thắng cảnh
ở đây, bao gồm kênh đào mang tên của Sultan
Mahmud II, người cai trị đế chế Ottoman-Thổ
Nhĩ Kỳ trong giai đoạn (1808-1839). Tác
phẩm chép về nguồn gốc tên gọi của con kênh
đào này như sau: “Ở về phía đơng bắc đường
xe lửa có một con mương dài tên là Ma-mụcdi-e (tức Mahmoud hay Mamoudhyeh trong
tiếng Pháp đã được Hán Việt hóa). Đầu
mương nối với sơng Nhĩ-lơ, đi mương giáp
Trung Hải. Xưa kia, khi Mê-hi-mết vừa lấy lại
được nước thì đào mương này, dẫn nước ngọt

của sông vào cho dân thành Xang uống, rất
lợi cho dân (Ma-mục-di-e là tên của vua nước
Tu-du-cô, Mê-hi-mết bấy giờ xin lệnh vua đào
mương, nên khi đào xong lấy tên vua đặt tên
mương để tỏ lòng nhớ ơn)” (Phạm Phú Thứ,
2001: 111).

Theo ghi chép của Tây hành nhật ký thì vào
ngày mười sáu tháng tám (tức ngày 28 tháng
9 năm 1863) M. Pha-ry, mang tước “Bê” (Bey
- cũng là một danh xưng của người Thổ)
(Orhan F. Kưprülü, 1992: 12), trợ lí của đại sứ
Thổ Nhĩ Kỳ đến thăm sứ bộ và mời sứ bộ thu
xếp gặp gỡ (Trần Xuân Toản, 1921: 166). Sau
đó, đến ngày hai mươi hai (tức ngày 4 tháng
10 năm 1863), sứ bộ đến thăm đại sứ Thổ Nhĩ
Kỳ và được tiếp đón rất trọng thị (Trần Xuân
Toản, 1921: 171). Vào ngày hai tháng chín
(tức ngày 14 tháng 10 năm 1863), thì ngài đại
sứ của Thổ Nhĩ Kỳ là MM. Đê-mẫn-lơ, có
tước “Ba-sa” (paşa) cùng phó sứ là Ba-di,
tước “Bê” (Bey) đến thăm đáp lễ sứ bộ tại
khách sạn nơi sứ bộ cư trú (Trần Xuân Toản,
1921: 185). Đáng lưu ý, sứ bộ nhà Nguyễn
cịn so sánh sự khác biệt giữa phái đồn ngoại
giao của nước Thổ Nhĩ Kỳ với các nước khác
ở Paris. Theo Tây hành nhật ký thì “trang
phục các đại sứ nước ngoài tại Pháp đều
giống nhau, ngoại trừ Thổ Nhĩ Kỳ với mũ tròn
màu đỏ” (tức mũ fes đã nhắc đến ở trên) (Trần

Xuân Toản, 1921: 167). Ngoài ra, Tây hành
nhật ký cũng đề cập đến mối quan hệ giữa Nga
và Thổ, khi Nga hùng mạnh lên thì tìm cách
xâm chiếm lãnh thổ của Ottoman, như việc
cảng “Xi-việt-tô-bô-lô” (Sebastopol) trước
đây từng thuộc Ottoman sau bị Nga chiếm,
hay cuộc chiến tranh giữa hai nước này vào
tám năm về trước [tức cuộc chiến tranh
Crimea trong giai đoạn 1853-1856] (Trần
Xuân Toản, 1921: 181-182).

Sau khi đến Paris, trong lúc chờ đợi tiếp
kiến hoàng đế Pháp, sứ bộ nhà Nguyễn đã có
nhiều hoạt động ngoại giao khác nhau, bao
gồm việc gặp gỡ đại diện phái bộ ngoại giao
của Thổ Nhĩ Kỳ tại Paris (Trương Bá Cần,
1967: 18) (Nguyễn Duy Oanh, 1974: 189).

Như vậy, có thể thấy tuy sứ bộ nhà Nguyễn
chưa đến İstanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng khi ở
Paris sứ bộ đã có cơ hội gặp gỡ đại diện của
người Thổ Ottoman tại hải ngoại. Nói cách
khác, đây có thể là sự tiếp xúc đầu tiên giữa
người Việt và người Thổ Nhĩ Kỳ trong lịch sử.

Ở một nội dung khác, Tây hành nhật ký
miêu tả mũ fez (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: fes), một
loại mũ truyền thống của người Thổ Ottoman:
“Cả nước trên dưới đều đội mũ bằng tơ hoặc
nhung đỏ (đó là loại mũ trịn, có kết một chum

dây tơ màu đen, dài chừng ba tấc, bng thịng
xuống phía sau)” (Phạm Phú Thứ, 2001: 97).

54

Tạp chí nghiên cứu CHÂU PHI & TRUNG ĐƠNG số 09(181) tháng 9/2020


Những ghi chép đầu tiên...

3. Kết luận
Từ khi đến cảng Aden vào ngày 8 tháng 8
năm 1863 cho đến khi tiếp tục hành trình sang
Pháp vào ngày 2 tháng 9 năm 1863, sứ bộ nhà
Nguyễn đã có khoảng thời gian gần một tháng
lưu trú tại những nơi khác nhau thuộc lãnh thổ
của đế chế Ottoman mà ngày nay là các nước
Yemen, Ai Cập ở khu vực Trung Đông. Tuy
thời gian dừng chân của sứ bộ ở khu vực này
không nhiều nhưng Tây hành nhật ký đã có
những ghi chép tỉ mỉ về diện mạo địa lí, khí
hậu, đặc điểm dân cư, phong tục tập quán, lễ
hội cùng các thắng cảnh, di tích lịch sử địa
phương. Nó cho thấy sự quan tâm đáng kể của
sứ bộ nhà Nguyễn đối với đất nước và con
người nơi mà họ ghé qua. Cũng trong thời
gian này, có hai thành viên của sứ bộ đã đột
ngột qua đời, được chôn cất tại địa phương
nơi sứ bộ dừng chân. Đó là trường hợp của
thơng ngơn Nguyễn Văn Trường, mất ngày 9

tháng 8 năm 1863, được an táng ở Aden; và
trường hợp của chánh y Nguyễn Văn Huy,
mất ngày 29 tháng 8 năm 1863, được an táng
ở Alexandria.
Về các địa danh và nhân danh trong Tây
hành nhật ký, hầu hết các tên gọi này đều từ
tên gốc trong tiếng địa phương đã được Pháp
hóa rồi phiên âm Hán Việt. Vậy nên khi đối
chiếu lại với tên gốc và tên gọi thơng thường
hiện nay, có nhiều tên gọi có thể tra cứu được,
cũng có nhiều tên gọi khơng thể tra cứu ra
được. Ví dụ: A-điên là Aden; La-Mết là
Mecca; Bì-lê-na là Medine; A-rờ-bi là Ả Rập;
Bì-rờ-xa là Persia (Ba Tư); Ma-hô-mét là
Muhammed; Du-đề là Judea; Biết-lê-iêm là

Lư Vĩ An

Bethlehem; Gia-liêm là Jerusalem; Mô-i-căng
là Moise; Di-du là Jesus; Xi-na-y là Sinai; Xuết là Suez; Y-Điệp là Ai Cập; Nhĩ Lơ là sơng
Nile; Kê là Cairo; Xang là Alexandria; XíchHải là Biển Đỏ; Tu-Du-Cô và Tu-Du-Ky là
Thổ Nhĩ Kỳ; Ma-mu-đi-ê là Mahmud, v.v…
Cịn các tên gọi như Xu-bà-gia, Gia-mơng-xaphí-á-la-nê, Du-mục-xà, La-dịch-tiên, Pha-ry,
Đê-mẫn-lơ thì khơng thể nào đối chiếu tra cứu
ra được.
Cũng do sự khác biệt về mặt ngôn ngữ và
văn hóa nên một số ghi chép trong tác phẩm
cịn nhầm lẫn, như việc tín đồ Hồi giáo thờ
thần Ma-hơ-mét (tín đồ Hồi giáo thờ duy nhất
đấng Allah còn Muhammed chỉ là nhà tiên tri),

hay sự tích về nữ hồng Cleopatra có vài trăm
năm trước. Dẫu vậy, giá trị tư liệu lịch sử của
tác phẩm thì rất đáng kể. Bởi Tây hành nhật
ký là tài liệu sớm nhất của người Việt có nội
dung viết về các nước ở khu vực Trung Đơng
như Yemen, Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ. Đồng
thời nó rất có thể cũng là tài liệu đầu tiên của
người Việt đề cập đến bảy kì quan của thế giới
cổ đại, vốn thuộc về các nền văn minh rất
khác biệt so với thế giới quan của người Việt
lúc bấy giờ.
Tóm lại, như kết quả từ chuyến hành trình
đi sứ sang Pháp và Tây Ban Nha của sứ bộ
nhà Nguyễn (1863-1864), Tây hành nhật ký là
một tài liệu có giá trị về mặt lịch sử, phản ánh
nhận thức và những hiểu biết của người Việt
đương thời về các vùng đất và con người nơi
mà sứ bộ dừng chân ghé qua trong suốt
chuyến hành trình đi sứ.

Chú thích:
(1) Tuy nhiên theo ghi chép của A. Delvaux thì sứ bộ của nhà Nguyễn cử đi Pháp có khoảng 60 người,
trong đó có 10 người Sài Gịn, hầu hết là tín đồ Cơng giáo. Dẫn theo A. Delvaux (1926), “L’ambassade de
Phan-Thanh-Gian en 1863, d’après les documents franỗais, Bulletin des Amis du Vieux Huộ, Janvier-

Tp chí nghiên cứu CHÂU PHI & TRUNG ĐƠNG số 9(181) tháng 9/2020

55



Lư Vĩ An

Những ghi chép đầu tiên...

Fevrier, No. 1, p. 70. A. Delvaux (Hà Xuân Liêm dịch) (2004), “Sứ bộ Phan Thanh Giản năm 1863 theo các
tư liệu Pháp”, Những Người Bạn Cố Đô Huế, Tập XIII, Huế: Nxb. Thuận Hóa, tr. 112.
(2) Phó vương (khedive, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: hidiv) là danh xưng dùng để chỉ người cai trị xứ Ai Cập
(Hidiv-i Mısır) từ năm 1867 đến năm 1914, thay thế cho danh xưng tổng trấn (vali tức beylerbeyi) trước đó.
İsmail Paşa cũng là phó vương Ai Cập đầu tiên. Xem thêm Atilla Çetin (2001), “İsmail Paşa”, TDV İslâm
Ansiklopedisi, Cilt 23, İstanbul: İSAM, 117-119.
(3) Tên gọi Tu Du Cô có nguồn gốc từ Turco trong tiếng Ý, cịn Tu Du Ky thì có nguồn gốc từ Turquie
trong tiếng Pháp. Cả hai từ này đều đã được phiên âm Hán Việt.

Tài liệu tham khảo
1.

Bilge, Mustafa L., 1988, Aden, TDV İslâm Ansiklopedisi, Cilt 1, İSAM, İstanbul, 367-369.

2.

Bilge, Mustafa L., 2010, Süveyş, TDV İslâm Ansiklopedisi, Cilt 38, İSAM, İstanbul, 186-187.

3.

Bostan, İdris, 2001, Kahve, TDV İslâm Ansiklopedisi, Cilt 24, İSAM, İstanbul, 201-205.

4. Delvaux, A. (Hà Xuân Liêm dịch), 2004, Sứ bộ Phan Thanh Giản năm 1863 theo các tư liệu Pháp,
Những Người Bạn Cố Đơ Huế, Tập XIII, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 112-131.
5. Delvaux, A., 1926, L’ambassade de Phan-Thanh-Gian en 1863, d’après les documents franỗais,
Bulletin des Amis du Vieux Huộ, Janvier-Fevrier, No. 1, 69-80.

6. Görgün, Hilal, 2004, Mısır: Fransız İşgali ve Sonrası, TDV İslâm Ansiklopedisi, Cilt 29, İSAM,
Ankara, 569-575.
7.

Köprülü, Orhan F., 1992, Bey, TDV İslâm Ansiklopedisi, Cilt 6, İSAM, İstanbul, 11-12.

8. Ngơ, Đình Diệm (Đặng Như Tùng dịch), 1998, Phái đoàn Phan Thanh Giản (1863-1864), Những
Người Bạn Cố Đô Huế, Tập VI-B, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 5-61.
9. Ngơ, Đình Diệm, 1919, L’Ambassade de Phan-Thanh-Gian (1863-1864), Bulletin des Amis du
Vieux Hué, Avril-Juin, No. 1 bis et 2, 161-216.
10. Nguyễn, Duy Oanh, 1974, Chân dung Phan Thanh Giản, Tủ sách Sử học, Bộ Văn hóa Giáo dục và
Thanh niên, Sài Gịn.
11. Nguyễn, Hồng Thân, 2011, Một vài sử liệu về thế giới đương thời trong Giá Viên Tồn Tập, Tạp
chí Phát triển Kinh tế-Xã hội Đà Nẵng, số 18, 53-56.
12. Özcan, Abdülkadir, 2007, Paşa, TDV İslâm Ansiklopedisi, Cilt 34, İSAM, İstanbul, 182-183.
13. Phạm, Phú Thứ (Tô Nam và Văn Vinh dịch), 2001, Tây hành nhật ký: Sứ bộ Phan Thanh Giản đi
Pháp và Y Pha Nho năm 1863, Nxb. Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
14. Seyyid Muhammed es-Seyyid, 2004, Mısır: Osmanlı Dönemi, TDV İslâm Ansiklopedisi, Cilt 29,
İSAM, Ankara, 563-569.
15. Trần, Văn Giáp, 1990, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
16. Trần, Xuân Toản, 1921, L’Ambassade de Phan-Thanh-Gian (1863-1864), Bulletin des Amis du
Vieux Hué, Juillet-Septembre, No. 3, 147-188.

17. Trương, Bá Cần, 1967, Phan Thanh-Giản đi sứ ở Paris (13-9 đến 10-11-1863), Tập san Sử Địa, Số
7-8, Khai Trí, Sài Gịn,3-21.

56

Tạp chí nghiên cứu CHÂU PHI & TRUNG ĐƠNG số 09(181) tháng 9/2020




×