Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng tại Habubank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.76 KB, 107 trang )

1
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước trong thời gian qua đã thu được những
kết quả khả quan, tạo được niềm tin trong nhân dân cũng như các nhà đầu tư trong và
ngoài nước. Cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước, hoạt động Ngân hàng
đã có những bước tiến đáng kể, góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, hoạt động của ngành ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập cả về cơ chế
chính sách và tổ chức hoạt động. Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành ngân hàng
vẫn còn những tồn tại. Một trong những tồn tại chủ yếu năng lực quản lý hoạt động
tín dụng còn yếu, biểu hiện dễ nhận thấy nhất là nợ quá hạn, nợ khó đòi làm suy giảm
năng lực của hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, việc đưa ra các biện pháp nhằm hạn
chế đến mức thấp nhất các rủi ro tín dụng, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng
luôn là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong hoạt động của mọi ngân hàng.
Quản lý rủi ro tín dụng là một trong những mục tiêu cơ bản trong quá trình thực
hiện đề án cơ cấu lại một cách toàn diện và nâng cao năng lực cạnh tranh của các
ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội
(Habubank) nói riêng trước yêu cầu mở cửa thị trường tài chính dịch vụ theo các cam
kết quốc tế của Việt Nam. Xuất phát từ thực tế hoạt động tín dụng của Habubank, em
xin được chọn đề tài: “ Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng tại Habubank”
1
Chuyên đề thực tập Năm 2008
1
2
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
Chương 1: Lý luận chung về rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro
tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm:


Tín dụng là quan hệ vay mượn, tạm thời sử dụng vốn của nhau dựa trên nguyên tắc
hoàn trả và sự tin tưởng. Trong nền kinh tế thị trường, nhiều loại hình quan hệ tín
dụng cùng tồn tại như tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước,
tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng, tín dụng quốc tế. Song căn cứ vào chức năng
và vai trò của NHTM với nền kinh tế mà tín dụng ngân hàng có thể được coi là loại
quan hệ tín dụng quan trọng nhất, phổ biến nhất với nền kinh tế và thường xuyên
được quan tâm nghiên cứu.
Tín dụng ngân hàng được hiểu là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng,
một tổ chức chuyên kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, một bên là các chủ thể còn lại
của nền kinh tế. Tuy nhiên, quan niệm phổ biến về tín dụng ngân hàng là: Tín dụng
ngân hàng được hiểu là việc cho vay của NHTM với các chủ thể của nền kinh tế.
Theo luật tổ chức tín dụng năm 1998 của Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam thì: “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử
dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác” và “Hoạt động
tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để
cấp tín dụng”
1.1.2.Phân loại tín dụng:
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng
và mục tiêu quản lý của ngân hàng.Sau đây là một số cách phân loại:
- Phân loại theo thời gian( thời hạn tín dụng): Phân chia theo thời gian có ý nghĩa
quan trọng đối với vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín
dụng còng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được
phân thành:
2
Chuyên đề thực tập Năm 2008
2
3
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
+ Tín dụng ngắn hạn : từ 12 tháng trở xuống

+ Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm
+ Tín dụng dài hạn: trên 5 năm
Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể( ngày, tháng, năm) và ghi trong
hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách
hàng 1 khoản tín dụng.Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu
tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về.
Ví dụ, cho vay 3 tháng từ 1/1 đến 1/4 có nghĩa ngân hàng sẽ phát tiền vat đầu tiên
vào lúc 1/1 và đến 1/4 sẽ phải thu hết gốc và lãi. Thời hạn tín dụng có thể là thời
gian mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với khách hàng.
Ví dụ, ngân hàng cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng 100 triệu trong 6 tháng,
hết 6 tháng ngân hàng sẽ xem xét lại, có thể tăng giảm hoặc chấm dứt quan hệ tín
dụng với khách hàng.Tuy nhiên còng có khoản cho vay không xác định trước
thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách hàng thỏa thuận với ngân hàng về việc
ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi
tài khoản có tiền.Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong trường hợp này có thể
gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
- Phân loại theo hình thức: gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
+ Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở
hữu 1 thương phiếu chưa đến hạn( hoặc 1 giấy nợ). Về mặt pháp lí thì ngân hàng
không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi
trái quyền.Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về 1 khoản
lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động tín
dụng. Ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán, nhưng thực chất là thay thế người
mua trả tiền trước cho người bán.
+ Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách
hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
3
Chuyên đề thực tập Năm 2008
3

4
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
+ Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ
khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho
khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
+ Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê
theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả
gốc lẫn lãi cho khách hàng.
- Phân loại theo tài sản đảm bảo:
+ Tín dụng không có đảm bảo: là tín dụng không có tài sản cầm cố, thế chấp
không có bảo lãnh của người thứ ba.
+ Tín dụng có đảm bảo: là tín dụng có tài sản cầm cố thế chấp hay có bảo
lãnh của người thứ ba.
- Phân loại tín dụng theo rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này,ngân hàng cần
nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia
tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản
mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán.
Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của
các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.Có thể kể các loai tín
dụng sau:
+Tín dụng lành mạnh: là các khoant tín dụng có khả năng thu hồi cao.
+Tín dụng có vấn đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng gặp
thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
+ Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn
ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá ytij lớn…
+ Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ kém, tài sản thế
chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì..
- Căn cứ vào mục đích của tín dụng:
+ Tín dụng bất động sản: đây là các khoản tín dụng được bảo đảm bằng bất

động sản, bao gồm: tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai và tín
4
Chuyên đề thực tập Năm 2008
4
5
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn hộ cơ sở dịch vụ, trang trại và bất
động sản ở nước ngoài.
+ Tín dụng công và thương nghiệp: đây là các khoản tín dụng cấp cho các
doanh nghiệp để trang trải chi phí thu mua nguyên vật liệu, trả thuế và chi trả
lương.
+Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt động
nông nghiệp, nhằm trợ cấp cho các hoạt động nông nghiệp, trợ giúp các hoạt
động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia súc.
+Tín dụng cá nhân: Đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để mua sắm
hàng hóa tiêu dung đắt tiền như xe hơi, nhà cửa, trang thiết bị trong nhà…
+ Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các
ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
+ Cho thuê tài chính: là việc ngân hàng mua các trang thiết bị, máy móc và
cho thuê lại chúng.
+ Tín dụng khác: bao gồm các khoản tín dụng chưa được phân loại ở trên( ví
dụ như tín dụng kinh doanh chứng khoán)
1.1.3.Các nghiệp vụ tín dụng
1.1.3.1.Chiết khấu thương phiếu:
(1) Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hóa và dịch
vụ giữa khách hàng với nhau.Người bán(hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương
phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng
để xin chiết khấu trước hạn. Sau đây là sơ đồ luân chuyển thương phiếu: Người bán
chuyển hàng hóa hoặc dịch vụ cho người mua
(2) Thương phiếu được lập, người mua kí, cam kết trả tiền cho người thụ hưởng khi

thương phiếu đến hạn và giao thương phiếu cho người bán đồng thời là người thụ
hưởng.
(3) Trong thời hạn có hiệu lực của thương phiếu, người bán có thể mang thương phiếu
đến ngân hàng để xin chiết khấu.
5
Chuyên đề thực tập Năm 2008
5
6
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
(4) Sau khi kiểm tra độ an toàn của thương phiếu, ngân hàng có thể phát tiền cho người
bán và nắm giữ thương phiếu( ngân hàng có thể yêu cầu người bán kí hậu thương
phiếu, cam kết trả tiền cho ngân hàng nếu người mua không trả, quyền truy đòi đối
với thương phiếu).
(5) Đến hạn ngân hàng chuyển thương phiếu đến người mua đòi tiền( nếu người mua
không trả, ngân hàng có quyền đòi tiền của các bên kí tên trên thương phiếu).
Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vaò lãi suất chiêt khâú, thời hạn chiết
khấu và lệ phí chiết khấu. Ví dụ, nếu lãi suất chiết khấu là 6%, giá trị của thương
phiếu là 1 triệu đồng, thời hạn còn lại của thương phiếu 6 tháng thì số tiền ngân hàng
phát ra là: 1 triệu*(1-0,06/2)=0,97 triệu
Nếu sau 6 tháng ngân hàng đòi được1triệu thì số lãi mà ngân hàng thu được trong
6 tháng là: 1-0,97= 0,03 triệu.
Vậy lã suất thực là: 0,03*2/0,97=6,185%/năm
Bên cạnh áp dụng lãi suất chiết khấu( thường chung cho các thương phiếu)
ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng trả thêm lệ phí chiết khấu đối với những trường
hợp cụ thể có liên quan đến rủi ro và chi phí đòi tiền.
Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân
hàng và những người kí tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách, ngân hàng
thường kí với khách hợp đồng chiết khấu( cấp cho khách hàng hạn mức chiết khấu
trong kì). Khi cần chiết khấu khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên ngân hàng xin
chiết khấu. Ngân hàng sẽ kiểm tra chất lượng của thương phiếu và thực hiện chiết

khấu. Do tối thiểu có 2 người cam kết trả tiền cho ngân hàng nên độ an toàn của
thương phiếu tương đối cao( trừ trường hợp ngân hàng kí miễn truy đòi đối với
khách hàng). Hơn nữa, ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại
ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp( vì vậy thương
phiếu còn được coi là loại tài sản có khả năng chuyển nhượng- có tính thanh khoản
cao).
6
Chuyên đề thực tập Năm 2008
6
7
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
1.1.3.2. Cho vay
+ Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi
trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến 1 giới hạn nhất định và trong
khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Để được thấu
chi khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng han mức thấu chi và thời gian thấu chi
(có thể phải trả phí cam kết thấu chi cho ngân hàng).
Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập ủy nhiệm chi…vượt quá
số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập
về tài khoản tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà ngân hàng phải trả là:
lãi suất thấu chi * thời gian thấu chi * số tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng
hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời gian
và qui mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ
song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn
là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong
tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng…

Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu
nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
+ Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân
hàng đối với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để
được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu,
chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là
vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào 1 số giai đoạn nhất định của chi kì sản xuất kinh
doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng
vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy
7
Chuyên đề thực tập Năm 2008
7
8
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần.
Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá
trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả.
Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển
nợ quá hạn. lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản.Ngân hàng có thể kiểm soát
từng món vay tách biệt.
+ Cho vay theo hạn mức:
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng
hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư
tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu
vay vốn của khách hàng.
Trong kì khách hàng có thể thực hiện vay-trả nhiều lần, song dư nợ không được

vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng qui định hạn mức cuối kì.
Dư nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kì, khách hàng phải trả
nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kì không được vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các
chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra
tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường
xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong
nghiệp vụ này ngân hàng không xác định trước kì hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi
khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí ngân quỹ
cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể
nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể
phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm
sút.
8
Chuyên đề thực tập Năm 2008
8
9
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
+ Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng
hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho vay để mua
hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quí, người vay phải làm
đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương
thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn
mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong 1 năm hoặc vài năm. Đây không phải là
thời gian hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách
hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tùy mối quan hệ giữa ngân hàng với
khách hàng còng như tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa nên cả ngân hàng lẫn doanh
nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân

quỹ trong thời gian tới. Người vay cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán
và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được
trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa đơn nhập
hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức
này, giá trị hàng hóa mua vào (có hóa đơn, hợp pháp, hợp lệ đúng đối tượng) đều là
đối tượng được ngân hàng cho vay, thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho
ngân hàng.Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tùy theo khối lượng và chất
lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hóa trong kho
trở thành vật đảm bảo cho khoản cho vay.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp
hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay-trả thường
xuyên với ngân hàng. Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng. Thủ
tục vay chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu
vốn kịp thời, vì vậy, việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn.Nếu doanh
nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ (hàng hóa tồn đọng..)thì ngân hàng sẽ gặp khó
khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được qui định rõ ràng.
9
Chuyên đề thực tập Năm 2008
9
10
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
+ Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp
thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố
định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả
năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập
hàng kì của người tiêu dùng).
Ngân hàng thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức
nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà khách hàng

đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân
hàng và làm đại lí thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả trực tiếp cho ngân
hàng. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua (qua đó đến người bán) nhằm
khuyến khích tiêu thụ hàng hóa.Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế
chấp bằng hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn
của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu
nợ của ngân hàng còng bị ảnh hưởng.Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp
thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp:
Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho vay trực tiếp.Bên cạnh đó ngân hàng
còng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp.Đây là hình thức cho vay thông qua
các hình thức trung gian.
Ngân hàng
Trung gian: tổ, đội, hội, nhóm
Khách hàng (thường là nông dân, người buôn bán nhỏ…)
(1)
(2)
(3)
(3)
10
Chuyên đề thực tập Năm 2008
10
11
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
(1) Phân tích tín dụng trước khi cho vay
(2) Ngân hàng phát tiền vay trực tiếp cho khách hàng
(3) Các tổ chức trung gian thu nợ hộ cho ngân hàng
Ngân hàng cho vay qua các tổ, hội, đội nhóm như nhóm sản xuất,Hội nông
dân, Hội cựu chiến binh,Hội phụ nữ ..Các tổ chức này thường liên kết các thành viên
theo các mục đích riêng, song chủ yếu đều hỗ trợ lẫn nhau, bảo vệ quyền lợi cho mỗi

thành viên. Vì vậy, việc phát triển kinh tế, làm giàu, xóa đói giảm nghèo luôn được
các trung gian quan tâm.
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các hoạt
động trung gian, như thu nợ, phát tiền vay…Tổ chức trung gian còng có thể đứng ra
tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên đưa ra bảo lãnh cho một thành
viên vay. Điều này rất thuận tiện cho người vay không có hoặc không đủ thời gian thế
chấp.Để bù đắp một phần chi phí của trung gian, ngân hàng trích một phần thu nhập
để lại cho trung gian.
Ngân hàng còng có thể cho vay thông qua các sản phẩm bán lẻ các sản phẩm
đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử
dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường được dụng đối với thị trường có nhiều món vay
nhỏ, người vay phân tán cách xa ngân hàng. Trong trường hợp như vậy, cho vay qua
trung gian tiết kiệm chi phí cho vay (phân tích,giám sát, thu nợ..)
Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí của ngân hàng. Tuy
nhiên, nó còng bộc lộ các khiếm khuyết. Nhiều trung gian đã lợi dụng các vị thế của
mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho vay lại, hoặc giữ
lấy số tiền của các thành viên khác cho mình. Các nhà bán lẻ có thể lợi dụng để bán
hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
11
Chuyên đề thực tập Năm 2008
11
12
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
1.1.3.3.Cho thuê tài sản (thuê- mua)
Cho thuê của ngân hàng thường là hình thức tín dụng chung và dài hạn.
Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu
gần đủ ( hoặc thu đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi ( thời hạn khoảng 80-90%
đời sống kinh tế của tài sản). Hết hạn thuê khách hàng có thể mua lại tài sản đó.
Ngân hàng (người cho thuê)

Nhà cung cấp trang thiết bị
Khách hàng (người thuê)
(3)
(2)
(1)
(5)
(4)

(1) Khách hàng làm đơn gưởi ngân hàng nêu yêu cầu về tài sản cần thuê.Sau khi phân
tích dự án và tình hình tài chính của khách hàng, ngân hàng kí hợp đồng mua với
khách hàng.
(2) Khách hàng gặp người sản xuất để nêu yêu cầu về qui cách, chất lượng tài sản thuê,
người sản xuất có thể phải cam kết bảo hành cho người thuê.
(3) Ngân hàng kí hợp đồng mua tài sản với người sản xuất.
(4) Người bán giao tài sản cho người thuê.
(5) Ngân hàng kiểm soát tình hình sử dụng tài sản thuê, thu tiền thuê, hoặc thu hồi tài
sản nếu thấy người thuê vi phạm.
Cho thuê (thuê – mua )giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ ngân
hàng phải xuất tiền thu về cả gốc lẫn lãi sau thời hạn nhất định; khách hàng phải trả
gốc và lãi dưới hình thức thuê hàng kỳ. Ngân hàng còng phải đối đầu với rủi ro khi
12
Chuyên đề thực tập Năm 2008
12
13
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
khách hàng kinh doanh không có hiệu quả không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng
hạn. Tuy nhiên, cho thuê có nhiều điểm khác biệt so với cho vay như tài sản cho thuê
vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng( vì vậy không ghi vào bản cân đối tái sản của người
vay, không làm tăng cơ cấu nợ của người vay), ngân hàng có quyền thu hồi nếu thấy
người thuê không thực hiện đúng hợp đồng, đồng thời ngân hàng còng phải có trách

nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần cho khách hàng và phải đảm bảo chất lượng về
tài sản đó. Cho thuê không có tài sản đảm bảo, nhiều tài sản thuê mang tính đặc
chủng, khó bán, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao…nên cho thuê rủi ro rất cao đối với
ngân hàng.
Ngân hàng có thể lập phòng cho thuê hoặc công ty cho thuê để thực hiện và
quản lí hoạt động cho thuê.
1.1.3.4.Bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo
lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi
khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết.
Bảo lãnh thường có 3 bên: Bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh, và bên
bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng có nghĩa ngân hàng là bên bảo lãnh; khách hàng của
ngân hàng là bên được bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh là bên thứ ba.
• Các loại bảo lãnh phân theo mục tiêu:
- Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu: là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư
(hay chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các
qui định trong hợp đồng dự thầu.
Trong hoạt động kinh tế, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu thầu
như đấu thầu cung cấp thiết bị, xây dựng. Để tìm kiếm được các nhà thầu có đủ năng
lực và hạn chế những rủi ro khi nhà thầu vi phạm các điều khoản tham gia dự thầu
như trúng thầu song không thực hiện hợp đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của
chủ đầu tư… chủ đầu tư thường yêu cầu bên dự thầu phải kí quỹ (đặt cọc) dự thầu.
Nếu vi phạm, bên dự thầu sẽ bị mất tiền kí quỹ. Do kí quỹ gây ra nhiều thủ tục phiền
13
Chuyên đề thực tập Năm 2008
13
14
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
phức cho cả hai bên, đặc biệt làm đọng vốn của bên tham gia dự thầu, nhiều chủ thầu
yêu cầu thay thế tiền kí quỹ bằng bảo lãnh của ngân hàng.

- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất hộ
khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn
thất cho bên thứ ba.
Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp đồng cung cấp hàng hóa, xây dựng, vật liệu
thiết kế… Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không đúng hạn, không
đúng chất lượng cam kết…đều có thể gây tổn thất lớn cho bên thứ ba. Bảo lãnh của
ngân hàng một mặt bù đắp tổn thất cho bên thứ ba, mặt khác thúc khách hàng nghiêm
chỉnh thực hiện hợp đồng.
- Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước:
Nhiều người cung cấp yêu cầu khách hàng (người mua hàng hóa dịch vụ) phải
đặt trước một phần tiền trong giá trị cung cấp. Tiền đặt cọc vừa giúp bên cung cấp có
một phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua phải
mua hàng đã đặt. Tuy nhiên, đề phòng người cung cấp không cung cấp hàng đồng
thời không trả tiền đặt cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp phải có bảo lãnh của ngân
hàng về việc phải trả tiền ứng trước. Vậy bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước là
cam kết của ngân hàng về việc hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua ( người hưởng
bảo lãnh) nếu bên cung cấp( người được bảo lãnh) không trả.
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vay vốn (bảo lãnh vay vốn).
Nhiều tổ chức tín dụng khi cho vay vốn đòi hỏi phải có đảm bảo hoặc bằng hàng
hóa, chứng khoán, bất động sản, hoặc bảo lãnh của người thứ ba (tín chấp)… Nhà
nước,doanh nghiệp tổ chức tín dụng có nhu cầu vay vốn bằng cách phát hành trái
phiếu. Tuy nhiên, nếu uy tín của người vay trên thị trường đó chưa cao, việc phát
hành sẽ rất khó khăn. Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay là cam kết của ngân hàng
đối với người cho vay (tổ chức tín dụng, các cá nhân…) về việc sẽ trả gốc và lãi đúng
thời hạn (người đi vay) không trả được.
- Bảo lãnh đảm bảo thanh toán.
14
Chuyên đề thực tập Năm 2008
14
15

Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
Là cam kết của ngân hàng về việc thanh toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán
cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ.
• Bản chất và ý nghĩa của bảo lãnh ngân hàng:
Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, qua đó
khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện được
các sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi.
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất
tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy bảo lãnh được coi như tài sản ngoài bảng. Tuy nhiên,
khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ
chi trả chon bên thứ ba. Khoản chi trả này được xếp vào loại tài sản xấu trong nội
bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy bảo lãnh còng chứa đựng các rủi ro như
một khoản cho vay và đòi hỏi ngân hàng phân tích khách hàng như khi cho vay.
Bảo lãnh của ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm hành chính và san sẻ
rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của ngân
hàng là thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên
hệ giữa ngân hàng với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện
các cam kết. Bảo lãnh còng góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi
tổn thất xẩy ra.
Ngân hàng cố gắng tìm kiếm các khoản thu từ bảo lãnh nhằm bù đắp chi
phí. Phí bảo lãnh được tính theo tỷ lệ phần trăm trên số tiền bảo lãnh. Ngoài phí,
ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng phải ký quỹ, tạo nguồn tiền thanh toán cho
ngân hàng với mức lãi suất rất thấp. Bảo lãnh còng góp phần mở rộng các dịch vụ
khác như kinh doanh ngoại tệ, tư vấn, thanh toán…
Ngân hàng (bên bảo lãnh)
Khách hàng của ngân hàng (bên được bảo lãnh)
Người thứ 3 (bên hưởng bảo lãnh)
(4)
(1)
(a)

(2)
(3)
15
Chuyên đề thực tập Năm 2008
15
16
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
(a) Khách hàng ký các hợp đồng với bên thứ 3 về thanh toán, về xây dựng, hay
vay vốn… Bên thứ 3 yêu cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng.
(1) Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi ngân hàng. Ngân hàng sẽ thực
hiện phân tích khách hàng để tìm hiểu về yêu cầu của bảo lãnh còng như mức
độ rủi ro. Nếu đồng ý ngân hàng và khách hàng sẽ ký hợp đồng bảo lãnh và
phát hành thư bảo lãnh.
(2) Ngân hàng (hoặc khách hàng) thông báo về thư bảo lãnh co bên thứ 3.
(3) Theo như đã thỏa thuận với khách hàng và bên thứ 3, ngân hàng thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh với bên thứ 3 nếu nghĩa vụ đó xảy ra.
(4) Nếu như hợp đồng bảo lãnh đã ký với khách hàng, ngân hàng yêu cầu khách
hàng phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng.
• Quy trình bảo lãnh của ngân hàng:
Bước 1: Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi ngân hàng ghi rõ số tiền, điều
kiện bảo lãnh. Ngân hàng phân tích khách hàng, hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và
bên thứ ba, yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba. Qua đó ngân hàng xác định rủi ro và các
biện pháp phòng ngừa.
Bước 2: Kí hợp đồng bảo lãnh vơi khách hàng. Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc
lập với hợp đồng kinh tế giữa khách hàng với ngân hàng thể hiện ràng buộc tài chính
giữa ngân hàng và bên thứ ba. Nội dung chính của hợp đồng:
- Số tiền và thời hạn bảo lãnh của ngân hàng
- Các điều khoản vi phạm hợp đồng kinh tế dẫn đến nghĩa vụ chi trả của
ngân hàng.
- Các tài liệu cần thiết mà bên thứ ba cần có để chứng minh sự vi phạm hợp

đồng của bên được bảo lãnh.
16
Chuyên đề thực tập Năm 2008
16
17
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
- Hình thức bảo lãnh.
- Phí bảo lãnh, số tiền kí quỹ hoặc tài sản đảm bảo cho bảo lãnh mà khách
hàng phải thực hiện đối với ngân hàng.
- Trách nhiệm trả nợ cho ngân hàng khi ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ
với bên thứ ba.
Bước 3: Hình thức bảo lãnh
Ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh dưới hình thức sau:
- Phát hành thư bảo lãnh
- Mở thư tín dụng
- Kí hối phiếu nhận nợ
Lựa chọn hình thức nào là tùy thuộc chủ yếu vào yêu cầu của bên thứ 3.Để hạn chế
rủi ro, bên thứ ba có thể yêu cầu đích danh ngân hàng bảo lãnh và hình thức bảo
lãnh. Phát hành thư bảo lãnh có thể áp dụng cho mọi loại bảo lãnh, bảo lãnh thanh
toán được thực hiện dưới hình thức mở thư tín dụng (bảo lãnh mở L/C trả chậm).Độ
an toàn của hình thức này rất cao do tính pháp lí quốc tế của L/C.bảo lãnh vay vốn
(thường vay của các tổ chức tín dụng nước ngoài) được thực hiện dưới hình thức kí
phát hối phiếu. Thư bảo lãnh kèm theo hối phiếu trả tiền đã được ngân hàng kí với
ngày trả tiền đúng vào ngày khách hàng phải trả cho bên thứ ba.
1.1.4.Các hình thức đảm bảo trong tín dụng
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi
nhận tín dụng. Lí do khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro trong kinh doanh, có thể
mất khả năng trả nợ cho ngân hàng do thu nhập từ hoạt động giảm sút mạnh. Những
biến cố không mong đợi có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì vậy,
trừ những khách hàng có uy tín cao, phần lớn khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi

nhận tín dụng của ngân hàng. Đặt yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, ngân hàng muốn
có được nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động không đảm
bảo trả nợ.
17
Chuyên đề thực tập Năm 2008
17
18
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
1.1.4.1.Các hình thức tài sản đảm bảo
• Phân loại theo tính chất an toàn: ngân hàng chia tài sản đảm bảo thành 2 loại: loại 1
và loại 2.
Loại 1 là các tài sản thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng, hoặc đảm
bảo của bên thứ 3 cho khách hàng của ngân hàng (bảo lãnh). Những đảm bảo này
không được hình thành từ khoản tín dụng của chính ngân hàng. Đảm bảo loại 1 có
thể có giá trị lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng giá trị của khoản tín dụng tùy thuộc vào dự
đoán của ngân hàng về rủi ro. Các khoản tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo loại 1
thường đảm bảo an toàn cho ngân hàng, song gây khó khăn cho cả ngân hàng lẫn
khách hàng trong việc định giá, bảo quản, làm cho thời gian phân tích tín dụng
thường bị kéo dài.
Loại 2 là những tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng. Ví dụ khi
ngân hàng cho người nông dân vay 10 triệu để mua bò, người nông dân không có tài
sản đảm bảo loại 1, thì số bò hình thành từ vốn vay sẽ có thể trở thành đảm bảo loại
2. Đây là liệu pháp cuối cùng để ngân hàng có thể hạn chế việc người vay bán tài sản
được hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên, khi người vay không có khả năng trả nợ thì
phần lớn các tài sản này còng đều bị giảm giá,khó bán. Do đó, tài sản loại 2 không
đảm bảo cho ngân hàng thu đủ gốc và lãi. Tài sản loại 2 thường áp dụng cho khách
hàng mà tài sản loại 1 có ít hoặc không thể trở thành tài sản đảm bảo cho ngân hàng.
• Phân loại tài sản đảm bảo theo hình thức vật chất
+) Đảm bảo bằng hàng hóa trong kho như nguyên, nhiên, vật liệu, sản phẩm…
Nếu ngân hàng có kho bãi riêng hoặc có phương thức bảo quản thích hợp thì đây là

hình thức rất thuận lợi cho khách hàng và ngân hàng. Các nhân tố tác động đến việc
chấp nhận hàng hóa làm đảm bảo:
- Khả năng kiểm soát hàng hóa đảm bảo: nếu hàng đảm bảo thuộc kho người vay, hoặc
kho người vay thuê, ngân hàng phải nắm quyền kiểm soát việc bán hàng hóa đó nếu
không ngân hàng phải có kho để cất giữ hàng đảm bảo. Ngân hàng phải nắm giữ
hàng hoặc giấy tờ lưu kho để đảm bảo người vay không mang thế chấp cho ngân
hàng khác, hoặc rút hàng ra bán. Ngân hàng còng xem xét việc những đảm bảo này
18
Chuyên đề thực tập Năm 2008
18
19
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
có thể đã mang đảm bảo cho tổ chức tín dụng khác để vay vốn. Khi có nhu cầu vay,
người vay phải trình cho ngân hàng kiểm soát hàng hóa trong kho (sau khi trừ đi hàng
hóa đảm bảo nợ khác, hàng kém chất lượng, hàng hóa được tài trợ bằng nguồn vốn tự
có…khoảng 70-80% phần còn lại mới là đối tượng cho vay của ngân hàng, đồng thời
là đảm bảo cho khoản vay).
- Tính thị trường của hàng hóa đảm bảo. Ngân hàng quan tâm đến tính ổn định giá trị
thị trường của đảm bảo: hàng hóa phải dễ bán( có thị trường )và giá phải tương đối
ổn định.
- Khả năng bảo quản và định giá hàng đảm bảo:rất nhiều hàng hóa đòi hỏi kỹ thuật bảo
quản cao, nếu không sẽ bị giảm giá. Do vậy ngân hàng chỉ thường chấp nhận hàng
hóa ít chịu ảnh hưởng của yếu tố môi trường.
Hàng hóa phải được bảo hiểm. Bảo hiểm sẽ tránh cho ngân hàng tổn thất lớn khi
hàng bị cháy, trôm cướp hoặc các thiên tai khác.
+) Đảm bảo bằng tài sản cố định. Nhà máy, trang thiết bị sản xuất và các phương
tiện vân chuyển, cây con, quyền sử dụng đất đai,rừng…đều có thể trở thành đảm bảo
cho ngân hàng. Đảm bảo bằng đát đai rất phức tạp. Khách hàng cần phải đăng kí với
sở địa chính, hoặc các cơ quan có thẩm quyền về việc chuyển nhượng hoặc đã thế
chấp cho ngân hàng. Các nhân tố tác động tới việc chấp nhận tài sản cố định làm đảm

bảo cho các khoản tài trợ:
- Quyền sở hữu hợp pháp hoặc quyền thuê lâu dài: tài sản cố định phải bán được
khi cần thiết. Điều này liên quan đến quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của tài sản
và khả năng chuyển nhượng tài sản đó. Ngân hàng còng quan tâm đến tranh chấp và
di chúc như các quy định của pháp luật đối với tài sản đảm bảo.
- Tính thị trường của tài sản đảm bảo: giá cả của tài sản cố định thường có những
giai đoạn thay đổi rất lớn. Máy móc đã lắp đặt vận hành thường bị giảm giá lớn so
với giá trị còn lại. Nhiều loại tài sản cố định bị tác động mạnh của hao mòn vô hình.
Bên cạnh đó có nhiều loại tài sản cố định thì giá trị thường xuyên gia tăng như cây
trồng, vật nuôi. Ngân hàng thường phải nghiên cứu những tính chất này để định tỷ lệ
19
Chuyên đề thực tập Năm 2008
19
20
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
tài trợ hợp lí vừa đảm bảo an toàn cho ngân hàng vừa đáp ứng yêu cầu vốn của
khách hàng .
- Bảo hiểm: ngân hàng yêu cầu khách hàng phải mua bảo hiểm đối với tài sản cố
định làm đảm bảo cho khoản tài trợ.
+) Đảm bảo bằng các hợp đồng chi trả của người thứ 3. Nhiều khách hàng kí hợp
đồng bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ (ví dụ bán hàng, nhận thầu cung cấp, xây
dựng..) và nhận về hợp đồng thanh toán. Một số trường hợp thanh toán liên quan đến
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm nhân thọ hoặc các bảo hiểm khác. Hợp đồng thanh toán là
cam kết của người thứ 3 về việc thanh toán số tiền trong thời hạn nhất định với
những điều kiện cụ thể cho khách hàng . Hợp đồng này có thể đảm bảo cho khách
hàng để nhận tài trợ của ngân hàng. Các nhân tố ảnh hưởng là:
- Khả năng chi trả của người thứ 3: việc tài trợ cho khách hàng dựa trên các hợp
đồng chi trả đã chuyển trọng tâm phân tích tín dụng từ khách hàng sang người thứ 3.
Tình hình tài chính, uy tín, tính sòng phẳng trong thanh toán là những yếu tố ngân
hàng cân nhắc.

- Khả năng thực hiện hợp đồng với người thứ 3 của khách hàng: nếu người cung
cấp hàng hóa và dịch vụ hoặc người mua bảo hiểm không có khả năng thực hiện hợp
đồng cam kết thì bên thanh toán sẽ không thực hiện cam kết thanh toán. Ví dụ, ngân
hàng sẽ xem xét các loại bảo hiểm, các điều kiện hạn chế..để đánh giá tính thích hợp
đối với khách hàng.
- Các cam kết có khả năng chuyển nhượng: nếu khách hàng đã chuyển nhượng cam
kết cho người khác thì ngân hàng rất khó thu hồi nợ, vì vậy, ngân hàng phải xem xét
khả năng chuyển nhượng các cam kết. Ví dụ, ngân hàng đề phòng có những hợp
đồng bảo hiểm ngắn hạn, nắm quyền sở hưu hợp pháp bằng cách yêu cầu công ty
bảo hiểm viết giấy chuyển…
+) Đảm bảo bằng chứng khoán: các chứng khoán có thể bán với ít nhiều rủi ro. Quản
lí chứng khoán là tương đối thuận tiện đối với ngân hàng do phần lớn ngân hàng đều
có nghiệp vụ quản lí và khách hàng chứng khoán. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc
sử dụng làm đảm bảo:
20
Chuyên đề thực tập Năm 2008
20
21
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
- Tính an toàn của chứng khoán: Ngân hàng quan tâm đến tình hình tài chính, uy tín
của các tổ chức sở hữu chứng khoán, tức là người ta chi trả các chứng khoán. Các
chứng khoán của chính phủ, các tổ chức tài chính lớn hoặc các công ty lớn thường dễ
được ngân hàng chấp nhận đảm bảo bằng chính chứng khoán của chính khách hàng.
- Tính thị trường (tính thanh toán). Các chứng khoán thường xuyên trao đổi trên thị
trường được ngân hàng ưu tiên nhận làm đảm bảo so với các chứng khoán ít trao đổi.
Nhiều loại chứng khoán giá cả bị ảnh hưởng của nạn đầu cơ, do vậy, ngân hàng phải
phân tích kĩ lưỡng tính biến động trong giá trị thị trường của chứng khoán làm đảm
bảo.
+) Đảm bảo bằng bảo lãnh của người thứ ba: người thứ ba cam kết thực hiện các
nghĩa vụ tài chính trao đổi với ngân hàng thay cho khách hàng khi khách hàng không

thực hiện được. Bảo lãnh là hình thức bảo đảm đối nhân. Đối với người bảo lãnh có
uy tín (Nhà nước, các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn…). Ngân hàng chấp
nhận bảo lãnh không cần tài sản đảm bảo. Đối với những người bảo lãnh chưa có uy
tín, ngân hàng đòi phải có tài sản đảm bảo cho bảo lãnh đó. Các nhân tố ảnh hưởng
gồm:
- Uy tín của người bảo lãnh.
- Tài sản đảm bảo của người bảo lãnh.
+) Đảm bảo bằng số dư bù:
Trong một số trường hợp ngân hàng không đòi đảm bảo dưới hình thái hàng hóa hay
bảo lãnh. Các đảm bảo loại này đều gắn liền với thủ tục phức tạp, không có lợi cho
cả ngân hàng lẫn khách hàng. Hơn nữa, ngân hàng dự tính nếu rủi ro có xảy ra với
khách hàng thì tổn thất còng chỉ chiếm một phần số tiền vay. Trong trường hợp này
ngân hàng có thể yêu cầu đảm bảo bằng tiền gưỉ kí quỹ (số dư bù). Số tiền đảm bảo
có thể được chuyển sang tài khoản khác của khách hàng, hoặc vẫn lưu trên tài khoản
gửi song khách hàng không được quyền sử dụng cho đến khi đã trả hết nợ cho ngân
hàng. Đảm bảo bằng kí quỹ thủ tục đơn giản và phần lớn kí quỹ có giá trị nhỏ hơn số
tiền vay (kí quỹ có thể từ 10-100%). Tuy nhiên, kí quỹ làm đọng vốn của khách hàng
21
Chuyên đề thực tập Năm 2008
21
22
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
và trong trường hợp số tiền vay lớn, ngân quỹ của khách hàng nhỏ hoặc cần thiết để
lưu chuyển, tỉ lệ kí quỹ cao thì hình thức đảm bảo này không phù hợp.
1.1.4.2. Các nghiệp vụ đảm bảo
+ Cầm cố: là hình thức theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển
quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết (thường
là thời gian nhận tài trợ).
Cầm cố thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản
tương đối chắc chắn, đồng thời việc ngân hàng nắm giữ không ảnh hưởng đến quá

trình hoạt động của người nhận tài trợ, ví dụ như các chứng khoán, các hợp đồng, sổ
tiết kiệm, ngoại tệ mạnh, kim loại quí. Các tài sản này gọn nhẹ, dễ quản lí, không
chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên. Đối với hàng hóa, ngân hàng
thường chấp nhận các loại ít chịu tác động của môi trường, (tính chất lí hóa và công
dụng) trong thời gian cầm cố.
Ngân hàng yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản đảm
bảo là không an toàn cho ngân hàng. Thường đó là các tài sản mà khách hàng dễ bán,
dễ chuyển nhượng. Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng cầm cố, ngân hàng kiểm tra
tính hợp pháp, hợp lệ, an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả
năng chi trả của người cam kết (như công ty phát hành chứng khoán, công ty bảo
hiểm…) đối với vật cầm cố, giá trị thị trường khi phát mại… Ngân hàng cùng với
khách hàng định giá vật cầm cố, quy định quyền và nghĩa vụ đối với các đảm bảo
cầm cố như chuyển giao vật cầm cố, nghĩa vụ của ngân hàng trong việc quản lí giữ
gìn vật cầm cố, quyền của ngân hàng phát mại vật cầm cố khi khách hàng vi phạm
các cam kết trong hợp đồng tài trợ… Ví dụ, đối với cầm cố chứng khoán được niêm
yết tại thị trường chứng khoán. Cách cầm cố như sau: khách hàng làm đơn vay và xin
cầm cố chứng khoán, các chứng khoán này có thể sang tên ngân hàng hoặc được
ngân hàng lưu giữ với cam kết chuyển lại cho khách hàng. Ngân hàng chuyển đơn
chuyển nhượng tơi công ty đăng kí chứng khoán để công ty chuyển tên cho ngân
hàng. Các chứng khoán này thuộc sở hữu của ngân hàng. Khi khách hàng trả đủ nợ,
22
Chuyên đề thực tập Năm 2008
22
23
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
ngân hàng sẽ làm thủ tục chuyển nhượng lại. Các chứng khoán vô danh thì không cần
làm giấy chuyển.
+ Thế chấp: là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ
chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm giữ
trong thời gian cam kết.

Nhiều tài sản của khách hàng trở thành đảm bảo cho các khoản tài trợ của
ngân hàng song vẫn phải tham gia vào quá trình hoạt động. Những tài sản này ngân
hàng không thể cầm cố. Ví dụ như máy móc, trang thiết bị, nhà đất đang trong quá
trình sử dụng, hàng hóa đang trong quá trình luân chuyển. Các tài sản này thường
cồng kềnh, phân tán. Hơn nữa việc bán hoặc chuyển nhượng còng không đơn giản.
Trừ các ngân hàng, các công ty tài chính có thể nắm giữ có thể nắm giữ nhiều chứng
khoán, tài sản chủ yếu của doanh nghiệp là hàng hóa và tài sản cố định. Vì vậy đảm
bảo bằng thế chấp rất phổ biến, đặc biệt đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do
giá trị của tài sản loại này thường lớn nên doanh nghiệp có thể vay ngân hàng với quy
mô lớn.
Đảm bảo bằng thế chấp cho phép người nhận tài trợ sử dụng tài sản đảm bảo
phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đó là một thuận lợi. Tuy nhiên, quá trình sử dụng
sẽ làm biến dạng tài sản, hơn nữa do khả năng kiểm soát tài sản đảm bảo của ngân
hàng bị hạn chế, khách hàng có thể lợi dụng phân tán, làm giảm giá trị của tài sản,
gây thiệt hại cho ngân hàng.
Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bang thế chấp, ngân hàng phải xem xét kĩ vật
thế chấp. Trong hợp đồng thế chấp ( kí cùng với hợp đồng tài trợ), phải có phần mô
tả vật thế chấp (diện tích, các mốc đánh dấu, giấy tờ sở hữu đối với đất, giá trị thị
trường, công dụng, loại công nghệ, quyền sở hữu… đối với máy móc, thiết bị,
phương tiện vận tải, năm tuổi, khả năng sinh trưởng..đối với cây trồng, vật nuôi, các
sản phẩm gắn với đất…). Như vậy ngân hàng phải có các nhà chuyên môn (hoặc
thuê) đủ khả năng đánh giá đảm bảo. Nếu định giá quá cao, quy mô tài trợ có thể lớn
(tài trợ theo tỷ lệ % trên giá trị đảm bảo), có thể gây rủi ro cho ngân hàng. Ngược lại,
nếu định giá thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng vay của khách hàng. Sau khi định giá,
23
Chuyên đề thực tập Năm 2008
23
24
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
ngân hàng và khách hàng phải thỏa thuận về nội qui sử dụng đảm bảo, quyền của

ngân hàng giám sát đảm bảo, phát mại đảm bảo khi khách hàng vi phạm hợp đồng tài
trợ.
1.1.5.Nhân tố xác định quy mô và tính đa dạng tín dụng ngân hàng
Quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng là rất khác nhau,
phụ thuộc chủ yếu vào:
• Các đặc trưng thuộc vào lĩnh vực dịch vụ ngân hàng cung cấp: Mỗi ngân hàng phải
đáp ứng nhu cầu cụ thể về tín dụng của khách hàng trong lĩnh vực dịch vụ mà ngân
hàng cung cấp. Ví dụ, các ngân hàng hoạt động ở vùng ngoại ô thường có khách hàng
đông đảo là những hộ gia đình, các cửa hàng mua bán lẻ, các cá nhân với các khoản
tín dụng nhỏ. Ngược lại các ngân hàng hoạt động ở thành phố thường có đội ngũ
khách hàng đông đảo là những siêu thị, trụ sở các công ty, các cơ sở sản xuất với
những khoản tín dụng lớn.
• Quy mô ngân hàng: nhìn chung các nước đều quy định, dư nợ tín dụng cho một ngân
hàng phụ thuộc vào quy mô vốn tự có của ngân hàng. Các ngân hàng lớn thường
cung cấp các khoản tín dụng cho doanh nghiệp và công ty, các ngân hàng nhỏ lại tập
trung vào các khoản tín dụng nhỏ cho các cá nhân, hộ gia đình, các công ty và cửa
hàng tư nhân. Như vậy, quy mô ngân hàng còng là nhân tố xác định quy mô tín dụng
và chủng loại tín dụng của ngân hàng.
• Tỷ suất lợi nhuận dự tính: tính đa dạng của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào tỷ
suất lợi nhuận dự tính đối với từng nhóm tín dụng. Với các nhân tố khác không đổi,
ngân hàng sẽ ưu tiên cấp các khoản tín dụng mang lại lợi nhuận ròng lớn nhất sau khi
trừ chi phí và rủi ro tín dụng. Quy mô ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ suất
lợi nhuận đối với các nhóm tín dụng khác nhau. Nhìn chung, các ngân hàng nhỏ
thường có tỷ suất lợi nhuận cao đối với tín dụng thương mại và bất động sản, trong
khi đó các ngân hàng lớn có ưu thế trong việc cấp thẻ tín dụng cho cá nhân và hộ gia
đình. Điều hiển nhiên là, quy mô khách hàng còng như quy mô ngân hàng có ảnh
hưởng đáng kể đến tỷ suất lợi nhuận tín dụng. Ví dụ ngân hàng lớn cấp tín dụng cho
khách hàng thường áp dụng mức lãi suất thấp hơn vì mức rủi ro tín dụng thấp và áp
24
Chuyên đề thực tập Năm 2008

24
25
Trần Thị Thanh Nga Lớp TC 46Q
lực cạnh tranh cao hơn. Ngược lại tín dụng của ngân hàng nhỏ cấp cho công ty vừa
và nhỏ thường có mức lãi suất cao hơn.
1.1.6. Chất lượng tín dụng và xếp loại ngân hàng
Chất lượng danh mục tín dụng và chính sách tín dụng của ngân hàng luôn là đối
tượng kiểm tra của thanh tra ngân hàng. Ở Mỹ, cán bộ thanh tra tiến hành xếp hạng
chất lượng tài sản có của ngân hàng (bao gồm tín dụng) theo các cấp độ (bằng số)
như sau:
1 = hoạt động tốt.
2 = hoạt động khá.
3 = hoạt động trung bình.
4 = hoạt động bên bờ thua lỗ.
Ngân hàng nào được đánh giá càng cao thì càng bị ít nhà chức trách để ý và thanh
tra. Cán bộ thanh tra thường kiểm tra các khoản tín dụng có số dư lớn hơn một mức
quy định nào đó, còn các khoản tín dụng nhỏ hơn thì chỉ tiến hành kiểm tra ngẫu
nhiên. Những khoản tín dụng hoạt động tốt, nhưng có một vài điểm yếu nhỏ như đã
không tuân thủ chính xác quy trình tín dụng hay không lưu trữ đầy đủ hồ sơ khách
hàng được gọi là tín dụng có thiếu sót. Những khoản tín dụng chứa đựng những điểm
yếu căn bản hay theo nhà thanh tra là nguy hiểm như tập trung quá lớn cho một khách
hàng hay một ngành, nghề nào đó gọi là tín dụng tập trung.
Khi cán bộ thanh tra phát hiện ra những khoản tín dụng chứa đựng rủi ro không trả
được nợ ngay lập tức theo như thỏa thuận, thì chúng được xếp vào loại tín dụng xấu.
Các khoản tín dụng xấu được phân thành 4 nhóm:
• Nợ cần chú ý: các khoản tín dụng được tổ chức đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả
nợ.
• Nợ dưới tiêu chuẩn: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ

chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần cả gốc và lãi
25
Chuyên đề thực tập Năm 2008
25

×