TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC
NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
QUẢN
TRỊ
KINH
DOANH
CHUYÊN NGÀNH
LUẬTKINH
DOANH
QUỐC
TẾ
-ã,
to
.gí
KHOA
LUÂN
TÓT
NGI
Về tài:
CHÍNH SÁCH
VÀ
PHÁP
LUẬT
CẠNH TRANH
Ở
MỘT
SỐ NƯỚC
TIÊU BIỂU
VÀ
BÀI
HỌC CHO
VIỆT
NAM
um
Vũ
Thị
Thu
Hà
Anh
Ì
-LKDQT
44
TS.
Tăng Văn
Nghĩa
Sinh
viên thực hiện
Lớp
Khoa
Giáo
viên
hướng dẫn
Hà
Nội,
05
-
2009
MỤC
LỤC
LỜI
MỞ
ĐÀU
Ì
Chương
ì.
TỎNG
QUAN
VÈ
CHÍNH SÁCH
VÀ
PHÁP
LUẬT
CẠNH
TRANH 3
ì.
Quan
niệm về cạnh
tranh
và
tầm
quan
trọng
của cạnh
tranh
3
Ì. Khái
niệm,
phương
tiện
và hình
thức
của cạnh
tranh
3
2.
Chức năng
của cạnh
tranh trong kinh tế thị
trường
6
3. Những
điều
kiện
đảm
bảo cho
cạnh
tranh
8
a. Điều
kiện
về các
yếu
tố
về
pháp
lý
-
thể
chế
đối với
hoạt
động
kinh
doanh
8
b.
Điều
kiện trong
chỉ đạo, điều
hành
nền
kinh tế
quốc
dân
9
c. Điều
kiện
về
trình
độ
nhận
thức,
hiểu
biết
của
công chúng về
cạnh
tranh,
về chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
của
nhà nước
9
li.
Khái niệm về chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
10
Ì. Chính sách
cạnh
tranh
10
a.
Khái
niệm
10
b.
Mục
tiêu
li
c.
Chức năng
12
d.
Các công cụ
của
chính sách
cạnh
tranh
13
2. Pháp
luật
cạnh
tranh
15
a.
Sự
cn
thiết
của
pháp
luật
cạnh
tranh
16
b.
Vai trò của
pháp
luật
cạnh
tranh
17
c. Nội dung của
pháp
luật
cạnh
tranh
20
3.
Vai trò của
chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh trong
phát
triển
kinh
tế
xã
hội
24
Chương
li.
THỰC TRẠNG
CHÍNH SÁCH
VÀ
PHÁP
LUẬT
CẠNH
TRANH Ở MỘT SỔ
NƯỚC
VÀ
VIốT
NAM 27
ì.
Thực
trạng
chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
ở một
số nước
27
Ì.
Thực
trạng
chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
của
Mỹ 27
Ì
a.
Đạo
luật
Sherman
29
b.
Đạo
luật
Clayton
(1914)
31
c.
Đạo
luật
về
Uỷ
ban thương
mại
liên
bang
(Luật
FTC -
Federal
Trade
Commission
Act,
1914)
31
d.
Đạo
luật
Robinson-Patman
(1936)
32
2. Thực
trạng
chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
của
Australia
33
3.
Thực
trạng
chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
của
Pháp
38
4.
Thực
trạng
chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
của Nhật
42
li.
Thực
trạng
chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
ử
Việt
Nam 48
Ì. Chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
qua
các
thời
kỳ
48
2.
Bài
học
cho chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
của
Việt
Nam 55
Chương
HI.
GIẢI
PHÁP HOÀN
THIỆN
CHÍNH SÁCH
VÀ
PHÁP
LUẬT
CẠNH TRANH CỦA
VIỆT
NAM 61
ì.
Sự
cần
thiết
phẳi
hoàn
thiện
chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
của Việt
Nam 61
li.
Giẳi
pháp hoàn
thiện
chính sách
cạnh
tranh
của
Việt
Nam 63
Ì.
Giẳi
pháp về tăng
cường nhận
thức
về
cạnh
tranh
và chính sách
cạnh
tranh
63
2.
Giẳi
pháp
đẳm
bẳo
đối
xử bình đẳng
giữa
các
doanh
nghiệp
65
a.
Tạo thông thoáng về mặt hành
chính,
đối
xử công
bằng
giữa
các
doanh
nghiệp
66
b.
Xoa bỏ rào
cẳn
gia
nhập
thị
trường
67
c.
Đổi
mới các
doanh
nghiệp
nhà
nước, xoa
bỏ
tình
trạng
bị
ép
buộc
làm
việc
theo
kế
hoạch
áp
đặt từ
trên
xuống
69
3. Tăng
cường
năng
lực
của
cơ
quan quẳn
lý
cạnh
tranh
71
4. Chính sách
cạnh
tranh
và
việc
thực
hiện
chúng
phẳi
đặt trong bối
cẳnh
hội
nhập
kinh tế
quốc
tế
72
IU. Giẳi
pháp hoàn
thiện
pháp
luật
cạnh
tranh Việt
Nam 73
Ì.
Việc
hoàn
thiện
và
thực
hiện
pháp
luật
cạnh
tranh
phẳi
được
đặt
trong
mối quan
hệ
tổng
thể với
các
chế
định
pháp
luật
khác
73
2
2.
Hoàn
thiện
các quy định
điều
chỉnh
hành
vi
cạnh
tranh
74
3. Hoàn
thiện
các
chế tài
xử
lý
hành
vi
vi
phạm
74
4. Tăng
cường
việc
thực
thi
luật
cạnh
tranh
75
KÉT
LUẬN
77
TÀI
LIỆU
THAM KHẢO 78
3
LỜI
MỞ ĐẦU
1.
Sự
cần
thiết
nghiên cứu đề tài
Xây
dựng
một môi trường
cạnh
tranh
tự do,
công
bằng là vấn
đề được các nước
trên
thế
giới,
nhất
là
các nước phát
triển,
quan
tâm đặc
biệt
nhằm
khuyến
khích
hoạt
động
kinh
doanh của
các thành
phần
kinh
tế,
qua đó
mang
lại
lợi
ích cho
người
tiêu
dùng và phát
triển
kinh
tế -
xã
hội
nói
chung.
Để
thực
hiện
được
điều này,
các nước
đều
ban hành chính
sách,
pháp
luật
cạnh
tranh
nhàm
khuyến
khích và
điều chỉnh
các hành
vi
cạnh
tranh
trên
thỏ
trường.
Như
thế,
chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
một
mặt chủ động
tạo ra
các
tiền
đề cho
cạnh
tranh,
mở
cửa
thỏ
trường,
loại
bỏ các
rào cản
gia
nhập
thỏ
trường,
mặt
khác,
đưa
ra
các
biện
pháp
chống
lại
các hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
và hạn
chế cạnh
tranh
của các
doanh
nghiệp. Đổi
mới
kinh
tế theo
cơ
chế
thỏ
trường
của
Việt
Nam đã đánh dấu sự
ra đời
của những
quy
đỏnh
pháp lý đầu tiên cho sự
vận
hành
cạnh
tranh
trên
thỏ
trường.
Cho
tới
nay,
Việt
Nam đã xây
dựng
được một
khung
pháp lý cơ
bản điều chỉnh
các
chủ
thể
cạnh
tranh
trên
thỏ
trường,
xoa
bỏ phân
biệt
giữa
các
doanh
nghiệp,
như
Luật
thương
mại, Luật
doanh
nghiệp, Luật
đầu
tư,
và đặc
biệt
là
Luật
cạnh
tranh.
Tuy
nhiên,
chính sách
và pháp
luật
cạnh
tranh
của
Việt
Nam vẫn còn chưa
thống nhất
và
nhiều
hạn chế
làm
cho
việc hiện
thực
các
chủ
trương
tiến
bộ về
cạnh
tranh
còn chưa
đạt
hiệu
quả.
Trước
thực
tiễn
ấy,
nghiên cứu chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
ở một số
nước
để
rút
ra
bài
học
kinh
nghiệm cho
Việt
Nam
là
một
việc
làm
cần
thiết.
Đó
là
lý
do
tôi
chọn
đề
tài
"Chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
ở một số nước tiêu
biểu
và
bài học
cho
Việt
Nam" làm Kjhoá
luận
tốt
nghiệp
của
mình.
2.
Mục đích nghiên cứu của Khoa
luận
Mục đích nghiên cứu của Khoa
luận
là làm rõ
những
vấn đề cơ bản của chính
sách và pháp
luật
cạnh
tranh
và
vai
trò của nó
trong việc
phát
triển
kinh
tế
xã
hội;
phân
tích
thực
trạng
chính sách pháp
luật
cạnh
tranh
ở một
số
nước và
Việt
Nam; và
đề
xuất
những
giải
pháp cụ
thể
cho chính sách pháp
luật
cạnh
tranh
của
Việt
Nam.
3.
Đối
tượng nghiên cứu của Khoa
luận
Ì
Đối
tượng
nghiên cứu
của
Khoa
luận
là
chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh.
4.
Phạm
vi
nghiên
cứu
Phạm
vi
nghiên
cứu
của Khoa
luận
là chính sách
và
pháp
luật
cạnh
tranh
của
một số
nước
tiêu
biểu
và
Việt
Nam.
5.
Phương pháp nghiên
cứu
Để
hoàn thành Khoa
luận,
các
phương pháp nghiên
cứu chủ yếu bao gồm:
phương pháp
thống kê,
phân
tích,
so
sánh
và
logic.
6. Két
cấu của
Khoa
luận
Ngoài
mục
lục,
lời
mở
đầu, kết
luận,
danh
mục
tài
liệu
tham
khảo,
Khoa
luận
được
chia
thành 3 chương:
Chương
ì:
Tỏng
quan
về chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
Chương
li:
Thực
trạng
chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
ờ
một
số
nước
và
Việt
Nam
Chương
IU:
Giải
pháp hoàn
thiện
chính sách
và
pháp
luật
cạnh
tranh
của
Việt
Nam
Khoa
luận
được hoàn thành
dưới
sự
hướng
dẫn
nhiệt
tình của
thầy
giáo,
TS.
Tăng
Văn
Nghĩa.
Tôi
xin
bày
tỏ
lòng
biết
ơn
và
quý
trọng
sâu
sắc
tới
thầy.
Tôi
cũng
xin
cảm ơn nhà
trường cùng
các
thầy
cô
giáo
đã
trang
bị
những
kiến
thức
và kỹ
năng cần
thiết
trong việc
tìm
tòi tài
liệu,
nghiên cứu
và
sáng
tạo
trong
suốt
quá
trình
học tập
cho
sinh
viên.
2
Chương
ì.
TỎNG
QUAN
VỀ
CHÍNH SÁCH
VÀ
PHÁP
LUẬT
CẠNH
TRANH
ì.
Quan
niệm
về
cạnh
tranh
và tầm
quan
trọng
của cạnh
tranh
1.
Khái niệm, phương
tiện
và
hình
thức
của cạnh
tranh
Cạnh
tranh
là
một khái
niệm
rộng,
có ở
nhiều lĩnh
vực khác
nhau.
"Cạnh
tranh
là
hành động
ganh đua,
đấu
tranh
chống
lại
các cá
nhân hay các nhóm,
các
loài
vì
mục đích giành được
sự
tồn
tại,
sống
còn, giành được
lợi
nhuận,
địa
vị,
sụ
kiêu
hãnh,
các
phần
thưởng hay
những
thứ
khác.
Thuật
ngữ
cạnh
tranh
được sử
dụng
cho
nhiều lĩnh
vực khác
nhau
như
lĩnh
vực
kinh
tế,
thương
mại,
luật,
chính
trị,
sinh
thái,
thổ thao.
Cạnh
tranh
có
thổ
là
giữa hai
hay
nhiều
lực
lượng,
hệ
thống,
cá
nhân,
nhóm,
loài,
tuy
theo
nội
dung
mà
thuật
ngữ
này
được
sử
dụng.
Cạnh
tranh
có
thổ
dẫn
đến các
kết
quả khác
nhau.
Một vài
kết quả,
ví dụ
như
trong
cạnh
tranh
về
tài
nguyên,
nguồn sống hay
lãnh
thổ,
có
thổ
thúc đẩy
sự
phát
triổn
về mặt
sinh học,
tiến
hoa,
vì
chúng có cơ
hội,
được
cung cấp
lợi
thế
cho sự
sống
sót, tồn
tại
.
Trong
lĩnh
vực
kinh
tế,
cạnh
tranh
cũng
có
nhiều
cách
hiổu
khác
nhau.
Ví dụ
như
"cạnh
tranh
là
tranh
đua
giữa
những
cá
nhân,
tập thế
có
chức
năng
như
nhau,
nhằm giành
phần
hơn,
phần
thắng
về
phía mình"
2
,
"cạnh
tranh
là
một
trận
chiến
giữa
các
doanh
nghiệp
và
các ngành
kinh
doanh
nhằm
chiếm
được sự
chấp
thuận
và
lòng
trung
thành
của
khách hàng"
3
Cạnh
tranh
còn
được
hiổu
là
"Chạy
đua
trong kinh tế;
hành
vi
của
các
doanh
nghiệp
độc
lập với
nhau
và
là
đối thủ
của nhau cung
ứng hàng
hoa,
dịch
vụ,
nhằm
làm
thoa
mãn
nhu
cầu
giống
nhau
với
sự
may
rủi
của mỗi bên,
thổ hiện
qua
việc
lôi
kéo được
hoặc
đổ
bị
mất
đi
một
lượng
khách hàng thường xuyên"
4
.
Đây là
cuộc chạy đua,
trên một
thị
trường
mà
cấu trúc
và sự
vận hành của
thị
trường
đó đáp ứng các
điều
kiện
của
quy
luật
cung
cầu
giữa
một bên là các nhà
1
/> 1%BA%A Ì
nh_tranh
2
Từ
điổn
tiếng
Việt
(Nguyễn
Như
Ý
chủ
biên),
NXB
Văn
hoa
Thông
tin,
Hà
Nội 1998,
tr.
258
3
/> lo
4
Từ
điổn
Comu
(Pháp),
theo
Nguyễn
Hữu
Huyên,
"Luật cạnh tranh
của
Pháp
và
Liên minh Châu
Ấu"
NXB
Tư
pháp,
Hà
Nội
2004,
tí.
11
3
cung
cấp
với
bên
kia
là những người
sử
dụng hoặc
tiêu dùng hàng hoa
hoặc dịch vụ;
các hàng hoa và
dịch
vụ này được
tự
do
tiếp
cận
trong
điều
kiện
các
quyết
định
kinh
doanh
không
phải
là
hệ
quả của
áp
lực
hoặc những
ưu
đãi
do pháp
luật
mang
lại.
Nhưng nhìn
chung, cạnh
tranh
được
coi
là hành
vi
của
hai
hay
nhiều
chủ
thể
trong kinh
doanh
(trong
nền
kinh
tế thị
trường)
với
mục đích giành cho mình
những
ưu
thế
cao
nhất
so
với
chủ
thể
khác.
Hệ
thẩng
cạnh
tranh
tự
do đảm bảo cho các
ngành có
thể tự
mình đua
ra
các
quyết
định về mặt hàng
cần sản
xuất,
phương
thức
sản xuất,
và
tự
định giá cho sản phẩm và
dịch vụ.
Với hệ
thẩng
này, người
ta
tin
rằng
càng
nhiều
doanh
nghiệp
cạnh
tranh
với
nhau thì sản
phẩm hay
dịch
vụ
cung
cấp
cho khách hàng sẽ càng có
chất
lượng
tẩt
hơn.
Như
thế thì,
cạnh
tranh
sẽ đem
đến cho
khách hàng giá
trị tẩi
ưu
nhất
với
đồng
tiền
mà họ bỏ
ra.
Một
sẩ khái
niệm
liên
quan
đến
cạnh
tranh
là
"cạnh
tranh
hoàn
hảo"
và
"cạnh
tranh
không lành
mạnh",
"cạnh
tranh
mang
tính độc
quyền".
Cạnh
tranh
hoàn hảo
xuất
hiện
ở
những
ngành có
nhiều
hãng
cạnh
tranh
nhau
trong việc
cung
ứng một
loại
sản
phẩm duy
nhất.
Những đặc
điểm
cơ
bản
cho
cạnh
tranh
hoàn hảo
là:
Có một
sẩ
lượng
lớn
các hãng
(cả
bán và
mua),
vì
thế
không
thể
có một hãng nào có
thể
ảnh
hưởng
riêng
đẩi với
giá cả trên
thị
trường,
giá cả của
sản
phẩm hoàn toàn do
quan
hệ
cung cầu
và quy
luật
giá
trị
quyết
định;
Tất
cả các
hãng đều nhắm đến mục tiêu
tẩi
đa hoa
lợi
nhuận;
Các hãng có
thể gia
nhập hoặc
thoái
lui
khỏi
ngành một cách dễ
dàng,
không
tẩn
kém; Hàng hoa được mua - bán
là
hoàn toàn
thuần
chủng;
Thông
tin
trên
thị
trường
phải
tường
minh.
Cạnh
tranh
không hoàn hảo là hình
thức
cạnh
tranh
chiếm
ưu
thế
trong
các
ngành
sản
xuất
mà ở
đó,
các
doanh
nghiệp
phân
phẩi
hoặc sản
xuất
có đủ
sức
mạnh
và
thế lực
để có
thể chi phẩi
giá cả các
sản
phẩm của mình trên
thị
trường.
Trong
thực
tế,
hình
thức
cạnh
tranh
không hoàn hảo
là
hình
thức
phổ
biến
trên
thị
trường,
ở
nhiều lĩnh vực, nhiều
ngành
của nền
kinh tế.
Cạnh
tranh
không
lành
mạnh (còn được
gọi
là
cạnh
tranh
bất
chính)
là hành
vi
cạnh
tranh
bằng những
công cụ
bất
hợp pháp
hoặc
không họp
với
đạo lý luân
4
thường
cùa xã
hội,
gây
thiệt
hại
cho
người
tiêu dùng
hoặc
cho
người cạnh
tranh
khác.
Cạnh
tranh
mang
tính
độc quyền là
cạnh
tranh
giữa nhiều
đơn vị
cung
trên
thị
trường
với
những sản
phẩm khác
biệt
nhau
(khác
biệt
về
giá,
địa
lý,
chất
liệu, thời
gian
cung ứng, dịch
vụ
cung
ứng ).
Sự khác
biệt
này
tạo
điều
kiện
cho mỗi
doanh
nghiệp
có
thể
có một
vị trí
độc
quyền
(tương
đậi)
trong
một phạm
vi
nhỏ
(một
phân
đoạn
hoặc
một phân lóp
thị
trường).
Độc quyền
lại
được
chia
thành độc
quyền
do pháp
luật
quy
định
và độc
quyền
tự
nhiên.
Độc
quyền
nhà nước nhìn
chung
là
loại
độc
quyền
do pháp
luật
quy
định,
khác
với
độc
quyền
thực
tế
(độc
quyền tự
nhiên)
là
loại
độc
quyền
mà một
doanh
nghiệp
có được
theo
quy
luật
thị
trường,
một cách
ngẫu
nhiên
hoặc
nhờ vào sự
vượt
trội
của
doanh
nghiệp
đó chứ không nhờ vào ý chí chủ
quan
của Nhà
nước.
Độc
quyền
thực tế
có
thể
hình thành
từ
nhiều
nguồn gậc
khác
nhau.
Cạnh
tranh
là một
trong
những
đặc trưng cơ bản của
kinh
tế thị
trường,
và chỉ
xuất
hiện
và
tồn
tại
trong
nền
kinh
tế
thị
trường,
bời
đặc
điểm
của
kinh
tế thị
trường
là
có sự
tham
gia
của
ít
nhất
hai
hoặc
nhiều
người cung
cấp
hoặc
có nhu
cầu.
Mục
đích
của những người
này
là
khác
nhau
và
ít
nhất
sẽ có một sậ
đậi
kháng
nhau,
sự
đạt
được mục đích
của người
này
sẽ
dẫn đến sự
thất
bại
của người
kia
và ngược
lại.
Do đó, họ
phải
tìm mọi cách
cạnh
tranh
với
nhau
nhằm
thoa
mãn mục đích của
mình.
Vì nền
kinh
tế thị
trường
là
nền
tảng
cho sự
tồn
tại
của
cạnh
tranh,
nên tính
chất
khác
nhau của
nền
kinh
tế
ờ
những
nơi khác
nhau
lại
mang
đến cho
cạnh
tranh
ở đó một
sắc
thái
riêng.
Cho
nên,
nghiên cứu
cạnh
tranh
đi
liền
với
nghiên cứu về
thị
trường.
Để
thực
hiện
cạnh
tranh
trên
thị
trường,
các chủ
thể
dựa vào
những
ưu
thế
nhất
định
của
mình,
gọi là
phương
tiện
cạnh
tranh.
Đó có
thể
là giá cả
của
hàng hoa và
dịch
vụ.
Đó có
thể
là
chất
lượng
của
hàng hoa và
dịch
vụ.
Đôi
khi
phương
tiện
cạnh
tranh
của
các
chủ
thể
kinh
tế
còn
là
các
dịch
vụ kèm
theo.
Ngoài
ra,
quảng
cáo
cũng
là
một phương
tiện
hữu ích
khi
các
chủ
thể
muận
gây ấn
tượng,
đánh bóng tên
tuổi,
muận
người
xem chú ý
tới
mình qua các phương
tiện
thông
tin
đại
chúng. Ví dụ
5
như trên
thị
trường
Việt
Nam về
cung
cấp
dịch
vụ
chiếu
phim, Megastar
tuy
xuất
hiện
sau nhưng đã
chiếm
thị
phần
đáng
kể,
nhờ áp
dụng
phương
thức
cạnh
tranh
bang
chất
lượng và các
dịch
vụ đi kèm, đồng
thời
với chiến
dịch quảng
áo rầm
rộ.
Mặc dù giá
đắt
hơn nhưng khách hàng
sốn
sàng
trả
để sử
dụng dịch
vụ.
Hoặc
trong
sản
xuất
ô tô
thì Mercedes,
BMW thường
nổi tiếng
về các dòng xe
hạng
sang,
chất
lượng
tốt,
còn
Toyota,
Honda,
Ford
thì
lại
có ưu
thế
về giá
cả.
Như
vậy
mỗi
chủ
thể
đều
cố
gang
tạo ra
cho mình một phương
thức
cạnh
tranh
để có
thể tồn
tại
trên các
thị
trường ngày một đòi
hỏi
cao
này.
Vê hình
thức,
nhìn vào
thị
trường
người ta
có
thể
biết
được các
đối thủ
đang
cạnh
tranh với
nhau
theo
hình
thức
nào.
Có
nhiều
loại
hình
thức,
nhìn
chung
được
nhìn
nhận
với
ba
dạng
là
cạnh
tranh
thực
tế,
cạnh
tranh tiềm
năng và
cạnh
tranh
thay thế.
2.
Chức năng
của cạnh
tranh trong kinh tế thị
trường
Cạnh
tranh
cần
phải
được nhìn
nhận
nhu là nhân
tố cốt
lõi của nền
kinh tế thị
trường.
Thực
tế
đã
chứng
minh,
nhờ có
cạnh
tranh,
cùng
với
nền
kinh tế thị
trường
nơi nhu
cầu của con người
không bao
giờ
dừng
lại,
mà
loài
người
đã có
những
bước
tiến
nhảy
vọt
chưa
từng
có được
trong
các hình thái
kinh tế
xã
hội
trước
đó, điển
hình như các
cuộc
cách
mạng
công
nghiệp,
cách
mạng
khoa
học kỹ
thuật
Người
tiêu dùng thì có nhu cầu ngày càng
cao,
còn các nhà
kinh
doanh
thì có ham muốn
lợi
nhuận
ngày càng
nhiều, khiến
họ sáng
tạo
không mệt
mỏi,
luôn luôn tìm cách
sản
xuất
tốt
hơn,
tạo
ra
nhiều
của
cải
hơn. Điều
này làm cho
cạnh
tranh
được nhìn
nhận là
động
lực
của sự
phát
triển.
Tuy
cạnh
tranh
có
thể
mang
lại
lợi
ích
cho người
này và gây
thiệt
hại
cho người
khác,
nhưng
xét
một cách toàn
thể
thì cạnh
tranh
bao
giờ
cũng
có tác động tích
cực.
Chức năng của
cạnh
tranh
đối
với
nền
kinh
tế thị
trường
được
thể hiện
ở
những
điểm
sau
đây:
Cạnh
tranh
điều
chinh giữa
cung
và
cầu
hàng
hoa
trên
thị
trường.
Trong
một môi
trường
cạnh
tranh
hoàn
hảo,
giá cả hoàn toàn được
quyết
định
bởi
cung
và
cầu
trên
thị
trường.
Các
doanh
nghiệp
dựa vào nhu
cầu
và
khả
năng
tài
chính
của người
tiêu
dùng mà định hướng cho
việc
sản
xuất,
chào bán
sản
phẩm
dịch
vụ của
mình.
Tuy
6
nhiên
chức
năng này của
cạnh
tranh
chỉ phát huy nếu
cung
và cầu không bị ảnh
hưởng
bởi
một
quyết
định hành chính hay
bất
cứ một sự can
thiệp
nào
từ
phía nhà
nước.
Đe
thực
hiện
điều đó thì một mặt
phải
mở cửa
thị
trưồng
cung
và
cầu,
mặt
khác
phải
không
điều
chỉnh
lượng
cầu.
Cạnh
tranh khiến
cho các kế
hoạch
và
quyết
định
kinh tế
cá nhân
trở
nên chính
xác
hơn,
nghĩa
là đảm bảo cho
việc
sử
dụng
các
nguồn
lực
một cách có
hiệu
quả
nhất.
Các
doanh
nghiệp
luôn tìm cách làm
thế
nào để sử
dụng
một cách
tiết
kiệm
nhất
các
nguồn
lực
mà có
thể tạo ra
sản phẩm
mong
muốn
để
cạnh
tranh với
các
doanh
nghiệp
khác
trên
thị
trưồng.
Mọi sự lãng
phí
hoặc
tính toán
sai
đều có
thể
dẫn
đến
thất
bại trong kinh
doanh.
Vì
thế,
cạnh
tranh
là động
lực
làm cho
việc
các yếu
tố
sản
xuất
như
vốn
và
lao
động được áp
dụng
và dùng một cách
hiệu quả
và có
lợi
nhất,
tránh lãng
phí
những
yếu tố sản xuất.
Cạnh
tranh khiến
các
doanh
nghiệp
phải
tìm mọi cách
sản
xuất
ra sản
phẩm
với
chất
lượng và giá cả
tốt
nhất
có
thể
để không
bị
loại
ra khỏi thị
trưồng.
Trong
một
thị
trưồng mà
tất
cả các nhà sản
xuất
đều bị sức ép
phải
sản
xuất
ra sản
phẩm
tốt
hơn
nữa,
giá cả
thấp
hơn nữa thì
việc
sáng
tạo
không
ngừng
là điều mà các
doanh
nghiệp
luôn hướng
tới.
Điều này làm cho
ngưồi
tiêu dùng luôn được sử
dụng
những
sản
phẩm và
dịch
vụ
mới,
tốt
hơn và
hấp
dẫn
hơn.
Như
thế,
cạnh
tranh
thúc đẩy
việc
ứng
dụng
các
tiến
bộ
khoa
học,
kỹ
thuật trong kinh
doanh
và
nhiều
ngành
khoa
học
khác
nữa.
Do
đó,
cạnh
tranh
thúc đẩy
việc đổi
mới
trong
toàn
nền kinh tế.
Cạnh
tranh
không
những
có
lợi
cho
ngưồi
tiêu dùng
khi
mang
lại
những
thành
quà
từ sức
sáng
tạo
và
đổi
mới không
ngừng
của
các nhà
sản xuất,
mà còn cho phép
họ
có
thể lựa
chọn
và do đó có
thể
tránh được
những
trưồng
hợp
cung
cấp
hàng hóa,
dịch
vụ kém
chất
lượng và được bảo vệ
khỏi
các hành
vi
tiêu cực của các chù
thể
kinh
doanh
riêng
lẻ
trên mặt trái của
thị
trưồng,
ví dụ
khi
họ chào giá lạm
dụng
quyền
lực thị
trưồng.
Cạnh
tranh
còn có
chức
năng
điều
phối.
Cạnh
tranh
đảm bảo phân
phối thu
nhập
và các
nguồn
lực kinh tế tập trung
vào
tay
những
doanh
nghiệp
giỏi,
có
khả
năng và
bản
lĩnh
trong kinh
doanh.
Nhồ có
cạnh
tranh
mà các hành
vi
lạm
dụng
quyền
lực
7
thị
trường của một số chủ
thể
kinh
doanh
trong việc
lừa
dối,
bóc
lột
đối thủ
cạnh
tranh
và khách hàng
sẽ bị
loại
bỏ.
Quá
trình
cạnh
tranh
tạo ra
các
chu
trình mà càng
về
sau thì mức độ
cạnh
tranh
càng
khốc
liệt,
khả năng
kinh
doanh
của các chủ
the
càng được nâng cao
hơn.
Do
đó,
khi
một
chu
trình
cạnh
tranh
được
giả
định
là
kết
thúc,
người
chiến
thắng
sẽ
có được
thị
phần
(kèm
theo
chúng
là nguồn
nguyên
liệu,
vốn
và
lao
động )
lửn
hơn
điểm
xuất
phát.
Giống
như quá trình tích
tụ
để
tái
sàn
xuất,
thành
quả
từ
chu
trình
cạnh
tranh
trưửc
lại
được sử
dụng
làm
khởi
đầu cho
giai
đoạn cạnh
tranh
tiếp
theo.
Cứ như
thế,
các
doanh
nghiệp
ngày càng nâng cao
vị
thế
của
mình trên thương trường nhờ các chu trình
cạnh
tranh hiệu
quả.
Bên
cạnh
đó,
những doanh
nghiệp
bị
loại
ra
khỏi
chu
trình
cạnh
tranh
là những doanh
nghiệp
kém
hiệu
quả,
mở
ra
cơ
hội
cho
những
chủ
thể
mửi
hiệu
quả
hơn,
năng động hơn
gia
nhập
vào
thị
trường.
Các
doanh
nghiệp
bị
thất
bại
hoặc
là
phải
tự
đổi
mửi mình
hoặc
phải
tìm một ngành
nghề
kinh
doanh
khác cho
tửi
khi
trụ
vững
được trên
thị
trường.
Việc
này
khiến
cho
việc
các
nguồn
lực
của xã
hội
không bị sử
dụng
một
cách
lãng
phí.
3. Những
điều
kiện
đảm bảo cho
cạnh
tranh
Nền
kinh
tế thị
trường là cơ sờ để
tồn
tại
cho
cạnh
tranh,
nhưng nếu không có
những điều
kiện
nhất
định
thì cạnh
tranh
cũng
không
thể
được duy
trì, bởi
vì có
thể
chính
cạnh
tranh
lại
triệt
tiêu
cạnh
tranh.
Những
điều
kiện
quan
trọng
nhất
đó là:
a. Điều
kiện
về các
yếu
tố
về pháp
lý
-
thể
chế
đối
vói
hoạt
động
kinh
doanh
Để cạnh
tranh
tồn
tại
trên
thị
trường
thì
hoạt
động
kinh
doanh
phải
được phép
tự
do
diễn ra,
các chủ
thể
kinh
tế
được
tự
do
lựa
chọn
và
tự
do
tiếp
cận
thị
trường.
Điều
này phụ
thuộc
hoàn toàn vào
chủ
trương
của
nhà nưửc và được
biểu hiện
ra
là
khung
pháp lý -
thể
chế.
Các
yếu
tố
về mặt pháp lý -
thể
chế
này
quyết
định đến sự
tồn
tại
và mức độ của
cạnh
tranh trong
nền
kinh
tế.
Một môi trường pháp lý và cơ
chế,
chính sách phù hợp
sẽ
phát huy các
nguồn
lực
trong
xã
hội,
tạo điều
kiện
cho
các chủ
thể hoạt
động
kinh
doanh
bình
đẳng,
cạnh
tranh
lành
mạnh,
công
khai
và
minh
bạch,
có
trật
tự
kỷ cương. Bên
cạnh đó,
nếu
khung
pháp lý chưa được
kiện
toàn,
các chính sách còn
thiếu
nhất
quán và mâu
thuẫn vửi
nhau,
thì
cạnh
tranh
8
không
thể đạt
được
trạng
thái
tốt
nhất
như
mong
muốn. Có
thể
nhận
thấy
điều
này
khi
xem xét
khung
chính
sách,
pháp
luật
của các
nước.
Những nước phát
triển
với
kinh
nghiệm
xây
dựng
và pháp
luật
lâu
đời
có một môi trường
cạnh
tranh tốt
hơn,
bình
đẳng,
lành
mạnh
hơn.
Các nước kém phát
triển
với
trình độ xây
dựng
pháp
luật
còn
yếu
nên tính
cạnh
tranh trong thị
trường
cũng
yếu hơn.
Hơn
nữa, trong
xu
thế
ngày càng
hội
nhập
về
kinh tế
trên
thế
giới
hiện
nay và
với
sự hình thành của
"thị
trường
toàn
cầu",
những
quy định về pháp lý -
thể
chế đã
vượt
ra khọi
phạm
vi
quốc
gia
để
mang
tính
chất
quốc
tế,
nghĩa
là các quy định này được hình thành và
có
hiệu lực
toàn
cầu.
Điều
này đòi
họi
các
quốc
gia khi
xây
dựng
khung
pháp lý -
thể chế phải đặt trong
điều
kiện hội
nhập
quốc
tế.
Để
bảo đảm cho
cạnh
tranh
và
chống
độc
quyền
thì
các
yếu tố
pháp lý -
thể
chế
quy
định về mọi
lĩnh
vực
của
hoạt
động
kinh
doanh
phải
đồng
bộ,
rõ
ràng,
sát
với
thực
tiễn
và
thống
nhất.
Để tăng cường sự bình đẳng trên
thực
tế giữa
các chủ
thể
kinh
doanh
thì cần
phải
hạn chế
tối thiểu
những
ngoại
lệ đối với
một chủ
thể
hay
một
hành
vi kinh
doanh
nào
đó.
Bên
cạnh
đó,
các chính
sách,
quy
định
phải
rõ ràng,
không mâu
thuẫn
với
nhau.
b.
Điều
kiện trong chỉ đạo,
điều
hành nền
kinh tế
quốc
dân
Nhà nước
chỉ đạo,
điều
hành nền
kinh tế
quốc
dân thông qua bộ máy
điều
hành
của
mình.
Thiếu
sự
hiệu quả trong
hoạt
động
của
bộ máy
này,
cạnh
tranh
không
thể
tồn
tại
mặc dù
thoa
mãn các
yếu tố
về mặt pháp lý -
thể chế.
Để các quy định pháp
luật
đã ban hành có
hiệu lực trong
thực
tiễn
thì
việc
chỉ đạo và
điều
hành của bộ
máy hành chính nhà nước đóng
vai trò
quyết
định.
Vì
vậy,
để
thực
hiện vai
trò
quản
lý
kinh tế của
mình,
nhà nước
phải
hình thành được bộ máy
điều
hành đủ năng
lực
chuyên môn,
tận tụy,
công tâm
khi thi
hành công
vụ.
Mọi văn bản pháp quy đều
không
thể
đưa vào
thực
hiện trong
cuộc
sống
nếu bộ máy
điều
hành non kém về
chuyên
môn,
quan
liêu
và lãng
phí.
c.
Điều
kiện
về trình độ
nhận
thức, hiểu
biết
của
công chúng về
cạnh
tranh,
về
chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
của nhà nước
9
Nếu như sự hình thành các văn
bản
pháp
luật,
công
tác chỉ đạo, điều
hành
của
bộ
máy công
quyền
là
những điều
kiện
cần thì trình độ
nhận
thức,
hiểu
biết
về
cạnh
tranh
và chính
sách,
pháp
luật
cạnh
tranh
của
các chủ
thể kinh
doanh
và
người
tiêu
dùng
lại
là
điều
kiện
đủ để bảo đảm sự
cạnh
tranh
lành
mạnh
và
chống
độc
quyền
trong kinh
doanh.
Những
hiểu sai
của công chúng về
cạnh
tranh
có
thể
dẫn
tới
phong
trào
từy
chay cạnh
tranh,
không
chấp nhận cạnh
tranh
trên
thị
trường (như đã
từng
diễn ra
ở các nước có nền
kinh tế
bao cấp trước
đây).
Bên
cạnh đó,
việc
nhận
thức
đầy đủ về chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh,
tức
là
nhận
thức
về
cạnh
tranh
hợp
pháp
khiến
cho các
chủ
thể kinh
doanh
có
những
hành
vi
phù hợp nhàm bảo vệ
cạnh
tranh
lành
mạnh
trên
thị
trường,
đồng
thời
giúp
người
tiêu dùng bảo đảm
lợi
ích
của
mình không
bị
vi
phạm.
li.
Khái
niệm
về chính sách và pháp
luật
cạnh
tranh
1.
Chính sách
cạnh
tranh
a.
Khái
niệm
Như đã đề
cập,
cạnh
tranh
luôn luôn
tồn
tại
trong với
nền
kinh
tế
thị
trường.
Trong
nền
kinh tế
này,
tất
cả các chủ
thể kinh tế
đều có mục tiêu là
đạt
vị
thế
cao
trên
thị
trường để sử
dụng vị
thế
này
tạo ra
lợi
nhuận
lâu
dài.
Để
đạt
được mục tiêu
này,
các
doanh
nghiệp
không
ngừng
sử
dụng
các
biện
pháp khác
nhau,
trong
đó có
cả
những
biện
pháp tác động tiêu cực đến
thị
trường và xã
hội.
Nếu không có một
sự
quản
lý nào
thì cạnh
tranh
sẽ liên
tục diễn ra
vô cùng
mạnh
mẽ và hỗn
loạn,
do
các
doanh
nghiệp
luôn tìm
mọi
cách để dành
lợi
thế
về phía
mình.
Nhà nước
phải
có
nhiệm
vụ
tạo ra
và bảo đảm một môi trường
cạnh
tranh
tích
cực,
loại
trừ
những
hành
vi
hạn
chế cạnh
tranh
hoặc cạnh
tranh
không lành
mạnh
trên
thị
trường.
Tất
cả
những
biện
pháp nhà nước sử
dụng
để
đạt
được mục đích này có
thể coi
là chính
sách
cạnh
tranh
của
Nhà
nước.
Như
vậy,
chính sách
cạnh
tranh
bao gồm
tất
cả
những
biện
pháp của nhà nước
nhằm duy
trì
cạnh
tranh,
để
cạnh
tranh tồn
tại
nhu một công cụ
điều
tiết
của
kinh tế
thị
trường.
Một
mặt,
nó chủ động
tạo ra
các
tiền
đề cho
cạnh
tranh,
mở cửa
thị
10
trường,
loại
bỏ các rào
cản
xâm
nhập
thị
trường,
mặt
khác,
nó
phải
có các
biện
pháp
chống
lại
các
chiến
lược hạn chế
cạnh
tranh
của các
doanh
nghiệp.
Do
đó,
có
thế
hiểu
chính sách
cạnh
tranh
bao gồm cả pháp
luật
cạnh
tranh,
cơ chế bảo đảm
thực
hiện
cũng
nhu
những
biện
pháp
kinh tế
kích
thích
cạnh
tranh
trên
thị
trường.
Chính sách
cạnh
tranh
ở các
quốc
gia
khác
nhau
là khác
nhau.
Ngay cả
trong
mỳt quốc
gia,
chính sách
cạnh
tranh
cũng
thay
đổi
theo
từng
thời
kỳ.
Đó
là vì
chính
sách
cạnh
tranh
được xây
dựng
dựa
trên
chủ
trương phát
triển
kinh tế
của quốc
gia,
tình hình
thực
tế
của
đời
sống
kinh tế
và tương
quan cạnh
tranh
giữa
các thành
phần
kinh tế
chính trên
thị
trường,
xu
thế kinh tế
quốc
tế hiện đại,
tập
quán
kinh
doanh
truyền
thống
của
quốc
gia
Nói
chung,
chính sách
cạnh
tranh
của mỳt nước phụ
thuỳc
vào trình đỳ phát
triển,
cũng
nhu các nhân
tố
văn
hoa, kinh
tế,
xã
hỳi.
Cụ
thể
về
chính sách
cạnh
tranh
của mỳt số
quốc
gia
tiêu
biểu
sẽ được nghiên cứu rõ ở
chương
li.
b.
Mục tiêu
Chính sách
cạnh
tranh
là mỳt bỳ
phận
trong
toàn bỳ hệ
thống
các công cụ của
nhà nước nhằm
tạo ra
mỳt nền
kinh tế thị
trường
hiệu
quả và như
thế
phải
xem xét
chính sách
cạnh
tranh trong
mối tương
quan
với
các chính sách
khác.
Do
đó,
mục
tiêu
của
chính sách
cạnh
tranh
nhìn
chung
phụ
thuỳc
vào mục tiêu phát
triển
chung
của
mỳt
quốc
gia,
và
cũng
liên
quan
tới
mục
tiêu
của
các chính sách khác như chính
sách thương
mại,
chính sách ngành công
nghiệp,
chính sách cổ
phần hoa,
chính
sách
vùng,
chính sách xã
hỳi
Mỗi nước
với
mỳt trình đỳ và
bối
cảnh
phát
triển
kinh tế
riêng sẽ có mục tiêu của chính sách
kinh tế
khác
nhau,
và do đó mục tiêu
của
chính sách
cạnh
tranh
cũng
khác
nhau.
Chính sách
cạnh
tranh
của
Mỹ có 3 mục
tiêu:
tăng phúc
lợi
cho
người
tiêu
dùng,
bảo vệ
tự
do
cạnh
tranh
và tăng
hiệu
quả
kinh
tế.
Chính sách
cạnh
tranh
Canada nêu rõ mục tiêu là duy
trì
và
khuyến
khích
cạnh
tranh,
thúc đẩy
hiệu
quả
kinh
tế.
Còn mục tiêu cùa chính sách
cạnh
tranh
ở
Việt
Nam là xây
dựng
và phát
triển
mỳt môi trường
cạnh
tranh
lành
mạnh,
không
phân
biệt
đối
xử
giữa
các
doanh
nghiệp,
bảo vệ các
quyền
và
lợi
ích họp pháp của
thương nhân và
người
tiêu dùng, góp
phần
phát
triển
kinh tế
- xã
hỳi.
Ở mỳt số
li
nước
khác,
mục tiêu của chính sách
cạnh
tranh
lại
nhấn
mạnh
tới
đổi
mới và
hiệu
quả
hoạt
động
của doanh
nghiệp.
Nhưng nhìn
chung,
có
hai
mô hình về mục tiêu
của
chính sách
cạnh
tranh
được
đưa
ra.
Mô hình
thứ
nhất
coi
mục
tiêu
của
chính sách
cạnh
tranh
chỉ
đơn
giản
là
làm
tăng tính
hiệu
quả của nền
kinh
tế.
Mô hình
thứ hai
hướng
chính sách
cạnh
tranh
tới
"lợi
ích
chung
toàn
cộng
đồng".
Lợi
ích
cộng
đồng thường được định
nghĩa
bao
gồm
cả
tính
hiệu
quả
của nền
kinh
tế, lợi
ích cho
người
tiêu
dùng,
sự
phát
triữn
kinh
tế
cân
bằng
và có
thữ
là
cả duy
trì việc
làm,
phát
triữn
công
nghệ
và
xuất
khấu.
Trên
thực
tế,
không có nước nào quá
cứng nhắc
chi lấy việc
tăng
hiệu
quả
kinh
tế
làm
mục tiêu cho chính sách
cạnh
tranh
của
mình.
Tuy
nhiên,
có sự khác
biệt
rõ ràng
giữa
các nước sử
dụng
đa - mục tiêu (tăng
lợi
ích
cộng
đồng nói
chung)
và đơn -
mục tiêu (như
là
duy
trì
sự
vận
hành
hiệu
quả
của
thị
trường).
Cả
hai
cách
tiếp
cận
này đều có
những
lý
lẽ
riêng của
mình.
vấn đề ở đây
là,
mục tiêu của chính sách
cạnh
tranh
dù được
định
nghĩa
như
thế
nào
cũng
đều được
theo
đuổi
với
những
cách
thức
linh
hoạt,
và nhìn
chung
nó phụ
thuộc
vào văn hoa và mô hình pháp lý của
từng
nước.
c.
Chức
năng
Chính sách
cạnh
tranh
có
những chức
năng cơ bàn như
sau:
- Chính sách
cạnh
tranh tạo ra
tất
cả
những điều
kiện
cần
thiết
cho sự
tồn
tại
của
cạnh
tranh,
là
nền
tảng
cơ bản duy
trì
quá trình
cạnh
tranh
tự do,
bảo đảm tính
hiệu
quà của
cạnh
tranh
cũng
như ngăn
ngừa
các tác động tiêu cực của
cạnh
tranh.
Như
vậy,
chính sách
cạnh
tranh
phải
tạo ra
được một môi trường
trong
đó
cho
phép các
doanh
nghiệp
tự
do thương
mại,
tự
do
lựa
chọn
và
tự
do
tiếp
cận
thị
trường.
Các nước có thâm niên về áp
dụng
chính sách
cạnh
tranh
đều
coi
trọng
quyền tự
do của các chủ
thữ kinh
tế,
ví dụ như Đức
coi
tự
do hành động
một
cách độc
lập
là
biữu hiện
dân chủ
của
hệ
thống
luật
pháp
kinh
tế,
Pháp thì
12
đặc
biệt
nhấn
mạnh
chính sách
cạnh
tranh
như một cách
thức
bảo đảm tự do
kinh tế
và
tự
do
kinh tế
chính
là tự
do
cạnh
tranh
'.
- Chính sách
cạnh
tranh
điều
tiết
quá trình
cạnh
tranh.
Tuy
cạnh
tranh
cần
phải
được
đảm bảo để
diễn ra
một cách
tự
do,
nhưng nếu không có sự định
hướng
ờ
tầm
vĩ
mô
thì
có
thể
đem
lại
những
kết
quả không
mong
đợi,
không phù hợp
với
mỗc
tiêu
chung của quốc
gia.
Mỗi một
quốc
gia trong
mỗi
một
giai
đoạn
đều
đặt
ra
những
mỗc tiêu
kinh
tế,
chính
trị,
xã
hội
khác
nhau,
như
đạt hiệu
quả
kinh tế
cao,
bảo vệ các
doanh
nghiệp
vừa và
nhỏ,
duy
trì
sự
tự
chủ
của
hệ
thống
doanh
nghiệp,
duy
trì
sự công
bằng
trong kinh
doanh
hay bảo vệ
người
tiêu dùng
Nhà nước sử
dỗng
công cỗ
quản
lý
kinh tế
của mình là các chính sách để đạt
được
các mỗc tiêu
đó.
Chính sách
cạnh
tranh
cũng là
một
phần của
công cỗ này,
và nó có
chức
năng
hướng
quá
trình
cạnh
tranh
phỗc
vỗ đúng mỗc
tiêu.
- Chính sách
cạnh
tranh
còn có
thế
giúp bình ổn giá
cả
trong
nước. Với
việc
ngăn
chặn
các hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
và các hành
vi
lạm
dỗng
vị
thế
độc
quyền,
chính sách
cạnh
tranh
khiến
cho
việc chi
phối
giá cả trên
thị
trường
là
không
thể với bất
kỳ một
doanh
nghiệp
nào.
Giá cả
chỉ
phỗ
thuộc
vào
cung
và
cầu
trên
thị
trường mà không bị
chi
phối
bởi
bất
cứ một chủ
thể
nào,
do đó nó
trờ
nên ổn
định
một cách tương
đối.
d.
Các công cỗ
của
chính sách
cạnh
tranh
Như đã đề
cập,
chính sách
cạnh
tranh
bao gồm
tất
cả các
biện
pháp của nhà
nước
nhằm xây
dựng
và duy
trì
môi trường
cạnh
tranh
lành
mạnh
trên
thị
trường.
Như
vậy
có
thể
thấy
các chính sách thương
mại,
chính sách đầu
tư,
chính sách
thuế,
đặc
biệt
là
luật
cạnh
tranh,
đều
là
các công cỗ
của
chính sách
cạnh
tranh.
Thông qua
các công cỗ này mà chính sách
cạnh
tranh
mới phát
huy
được
vai
trò của
mình.
- Chính sách thương mại
Chính sách thương mại là một công cỗ
quan
trọng
của chính sách
cạnh
tranh.
Chính sách thương mại đóng
vai
trò
quyết
định
trong việc
tạo
ra một hệ
thống
1
Dự án hoàn
thiện
môi trường
kinh
doanh
VIE/97/016,
Các
vấn
đề pháp lý và
thể
chế
về chính sách
cạnh
tranh
và
kiểm
soát độc
quyền
kinh
doanh,
Nxb
Giao
thông
vận tài.
13
thương
mại tự do,
bình đẳng cho các chủ
thể kinh tế
cả ờ phạm
vi
quốc
gia
và quôc
tế.
Chính sách thương
mại
còn bao gồm các chính sách như chính sách
ngành,
chính
sách
thuế
Chính sách ngành
điều
chỉnh
việc
sử
dụng
nguồn
tài
nguyên
giữa
các
ngành,
qua đó
tạo ra
một cơ cấu ngành hầp
lý,
định
hướng
phát
triển
ngành
theo
mục tiêu
kinh tế
dài hạn
chung,
nâng
cao
tính
hiệu
quả
của
nền
kinh
tế.
Chính sách
thuế
là công cụ
điều
tiết
thị
trường,
giúp nâng cao năng
lực
cạnh
tranh
và
thu
hút
vốn
đầu tư của nền
kinh
tế.
Một chính sách
thuế
minh
bạch,
rõ
ràng,
thống
nhất,
không phân
biệt
các
loại
hình
doanh
nghiệp
sẽ đem
lại
sự công
bằng
cho
tất
cả các
doanh
nghiệp
trong
nền
kinh
tế,
đồng
thời
đảm bảo công
bằng
xã
hội
và
tạo
động
lực
phát
triển.
Như
vậy,
thông qua chính sách thương
mại,
nhà nước có
thể tạo ra
một hệ
thống
thương mại thông
thoáng,
hiệu quả, từ
đó góp
phần
đảm bảo
cạnh
tranh
đưầc
diễn
ra
tự
do
trên
toàn
nền kinh
tế.
- Chính sách
đầu
tư
Một
chính sách đầu tư
hiệu quả,
ổn định là một công cụ
hiệu
quả
nhất, ít tốn
kém
nhất
để
thực hiện
chính sách
cạnh
tranh.
Chính sách đầu tư là chính sách
tài
khóa mở
rộng
của Chính phủ có tác động
làm tăng
tổng cầu,
tăng
sản
lưầng
(GDP),
tăng
việc
làm cho xã
hội
.
Các
nội
dung
chính của chính sách đầu tư
là tạo
điều
kiện
cho các
tổ
chức,
cá nhân đầu tư phát
triển,
thu
hút
nguồn
vốn đầu tư
từ
ngước ngoài và đầu tư
trực
tiếp
từ
nguồn
vốn
ngân
sách.
Nhìn
chung,
có
thể hiểu
nhà nước sử
dụng
chính sách đầu tư vừa nhằm
thu
hút
vốn từ
nước ngoài vào
thị
trường
nội địa,
vừa để
điều
tiết
các
nguồn
đầu tư
trong
nước cho phù
hầp.
Các
nguồn
vốn đầu tư đưầc
điều
chỉnh
giữa
các ngành,
giữa
các
lĩnh
vực
trong
một
ngành,
nhằm phân
phối
các
nguồn
tài
nguyên
hiệu
quả,
cũng
để
thực hiện
các mục tiêu
kinh tế
chung
của
nhà
nước,
tránh tình
trạng
đầu tư
dàn
trải,
lãng
phí.
Trong
chính sách đầu tư
của
mình,
nhà nước có
thể
sử
dụng
các
'Mạng
thông tin
khoa
học và công
nghệ
Việt
Nam, "Chinh sách đầu tư và tiền tệ cùa nhà nước ánh hưởng
tới phát
triển
nông
nghiệp,
nông
thôn
vùng -vùi phía Bắc
Việt
Nam
", tại
/>08-30.5412/MArticle.2006-08-30.5918/marticle
view
14
biện
pháp như
miễn giảm
thuế
những
năm
đầu,
cho
vay lãi
suất
thấp ,
nhằm hỗ
trợ
các
tố
chức,
cá nhân đầu tư phát
triển
các
ngành,
các khu
vực.
Thông qua
đó,
nhà
nước
cố
gắng
tạo
ra
mịt môi trường đầu tư ổn
định,
lành
mạnh,
qua đó góp
phần
tăng tính
cạnh
tranh trong
nền
kinh tế.
Nhìn
chung
chính sách đầu tư hỗ
trợ
các
doanh
nghiệp
trong việc
tiếp
cận
thị
trường,
quan
trọng
hơn,
nó
tạo ra
mịt sự
cạnh
tranh
tự do và công
bằng
giữa
các
doanh
nghiệp,
đặc
biệt
là
giữa
doanh
nghiệp
trong
nước
với
doanh
nghiệp
nước ngoài.
-
Luật
cạnh
tranh
Luật
cạnh
tranh
là công cụ
quan
trọng
nhất,
có tác
dụng
mạnh
mẽ
nhất
trong
chính sách
cạnh
tranh.
Nếu như các công cụ trên có tác đụng
khuyến
khích
cạnh
tranh, tạo
nền
tảng
để xây
dựng
mịt môi trường
cạnh
tranh,
thì
luật
cạnh
tranh
có
tác
dụng
ngăn cản
bất
kể mịt hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
hoặc
hạn chế
cạnh
tranh
nào.
Không có
luật
cạnh
tranh, thị
trường
sẽ
rơi vào
trạng
thái
hỗn
loạn
do
các
chủ
thể kinh tế
luôn
muốn
tìm mọi
cách,
kể cả
việc
thực
hiện
những
hành
vi
mang
tính tiêu
cực,
để duy
trì
và tăng cường
vị trí
của
mình.
Các nước có
thể
xây
dựng
cho mình mịt đạo
luật
cạnh
tranh
riêng,
hoặc
ngầm quy định
trong
các
luật
khác như
Luật
thương
mại.
Dù ở hình
thức
nào thì
những
quy định pháp
luật
về
cạnh
tranh
cùng các chế tài xử lý
vi
phạm của nó đều cố
gắng
loại
bỏ
khỏi
thị
trường
tất
cà các hành
vi
tiêu
cực
làm ảnh hưởng đến
cạnh
tranh
lành
mạnh.
2.
Pháp
luật
cạnh
tranh
Công cụ
quan
trọng
nhất
của
chính sách
cạnh
tranh
là
pháp
luật
cạnh
tranh.
Pháp
luật
cạnh
tranh
là hệ
thống
các quy phạm
cũng
như các công cụ pháp
luật
khác
nhằm bảo vệ
tự
do
cạnh
tranh,
cơ cấu
thị
trường
cũng
như môi trường
cạnh
tranh
bình đẳng và công
bằng.
Vai
trò căn bản của
cạnh
tranh trong
nền
kinh tế thị
trường đã sớm được
nhận
thức
với
đầy đủ
những
nịi
dung của nó.
Nhưng
cũng
như
đối với
chính sách
cạnh
tranh,
người
ta
phải
mất
thời
gian
hơn để
hiểu
được sự
cần
thiết
phải
có pháp
luật
cạnh
tranh.
15
a.
Sự
cần
thiết
của
pháp
luật
cạnh
tranh
Nhà nước
thực
hiện
quản
lý
kinh tế
bàng các công cụ
vĩ
mô
thuộc
về
kiến
trúc
thượng
tầng
của
xã
hội
là chính sách và pháp
luật.
Trong
đó,
pháp
luật
cạnh
tranh
đóng
vai
trò
là
một bộ
phận
cơ
bản
không
thể
thiếu
trong việc
duy
trì
trật
tự kinh tế
cũng
nhu thúc đẩy
kinh tế
phát
triển.
Thực
tế
phát
triển
của đời
sống
kinh
tế,
xã
hội
đã
đặt ra
đòi
hịi cần
phải
có một "bàn
tay
hữu hình"
của
nhà nước - một mô hình
quản
lý kinh tế hiện đại.
Trong
thời
kỳ
kinh tế thị
trường cổ
điển
của
giai
cấp
tư
sản,
nhà nước chì có
chức
năng bảo vệ an
ninh,
xây
dựng
luật
pháp và xét xử
tranh
chấp.
Pháp
luật
chỉ
giới
hạn ở
việc
quản
lý
chung
đời
sống
dân sự và
trật
tự
xã
hội.
Chức
năng đó đủ để pháp
luật
và nhà nước
tạo lập
một môi trường cho
cạnh
tranh
và
quan
hệ thị
trường
vận
động
linh
hoạt,
năng
động,
làm cho mọi
khuyết
tật
của thị
trường
được
bộc lộ
một cách
mạnh
mẽ. Sự
thất
bại của
mô hình
kinh tế chỉ
huy ở các nước
xã
hội
chủ
nghĩa
và
những
cuộc
khủng
hoảng
kéo dài trên
thị
trường
tự
do
của
các
nước
tư bản đã
là
những
nguyên
nhân,
là động
lực
để con
người
thiết
lập
mô hình
kinh tế thị
trường
hiện đại.
Trong
mô hình
này,
ở tầm
vĩ mô,
về cơ bản do bàn
tay
vô hình của
thị
trường điều
tiết.
Vai
trò
kinh tế
của nhà nước là để vừa hạn chế
những
khuyết
tật
của thị
trường vừa
tạo
môi trường cho ưu
thế của thị
trường phát
huy
tác
dụng
tích
cực.
Đe
thực
hiện vai
trò
kinh tế của
mình,
nhà nước
phải
duy trì
một
trật
tự
chung
đảm bảo sự lành
mạnh
và phát
triển
của
thị
trường,
thông qua
công cụ pháp
luật
cạnh
tranh.
Đó là lý do
trong
xã
hội
ngày
nay,
pháp
luật
cạnh
tranh
đóng
vai trò
vô cùng
quan
trọng, trở
thành
chế
định,
nền
tảng
cơ
bản của
pháp
luật
kinh
tể.
Vì
thế,
ngày nay càng có
nhiều
nước xây
dựng
pháp
luật
cạnh
tranh
hơn.
Đối với
các nước đang phát
triển,
đặc
biệt
là các nước sau
thời
kỳ xã
hội
chủ
nghĩa,
pháp
luật
cạnh
tranh
lại
càng
cần
thiết.
Thứ
nhất
bởi vì
hầu
hết
các nước này
đều
có
rất
nhiều
những
doanh
nghiệp
lớn
chiếm
lĩnh
các ngành công
nghiệp
đặc
biệt,
thường là do chính sách của chính phủ và thói
quen
từ
quá
khứ. Khi
được tư
nhân
hoa,
các
doanh
nghiệp
này không
muốn
có
bất
kỳ một sự
cạnh
tranh
nào
nổi
lên làm ảnh hưởng đến vị
trí
và
quyền
lợi
mà mình đang nắm
giữ,
họ sẽ tìm mọi
16
cách để ngăn
cản nhập khẩu hoặc
phân
phổi
các
sản
phàm
cạnh
tranh.
Khi đó,
cân
phải
có pháp
luật
cạnh
tranh
để ngăn
chặn những
hành động
đó,
đảm bảo cho
cạnh
tranh
được
diễn ra hiệu
quả
trên
thị
trường.
Thứ
hai,
khi
các nước đang phát
triển
tằ
do
hoa nền
kinh tế,
có
thể
như
việc
xoa bỏ độc
quyền
của các
doanh
nghiệp
lớn
bằng
cách
chia
tách chúng
ra,
thì
khó có
thể
ngăn
cản
được sằ họp tác
giữa
các nhà
quản
lý
từ
những
bộ
phận
chia
tách này
của doanh
nghiệp.
Họ có
thể
lại
thoa
thuận
với
nhau,
tạo
nên
những
cartel.
Những
thoa
thuận
như vậy có
thể
được hỗ
trợ
bởi
việc
hình thành các
hiệp hội
mà mà thành viên là
những
bộ
phận
mới của chính
doanh
nghiệp
cũ trước
kia.
Độc
quyền
của các
doanh
nghiệp
lớn
bây
giờ trở
thành
sằ
liên
kết
của
một số
doanh
nghiệp
nhằm
thống
lĩnh
thị
trường.
Như
thế,
những
cố
gắng của
nhà nước
trong việc
xoa
bỏ độc
quyền sẽ
không thành
công,
và
người
tiêu
dùng không được hưởng
bất
cứ
lợi
ích nào
từ
việc
này. Như
vậy, việc
ban hành
pháp
luật
cạnh
tranh
ở các nước đang phát
triển
rõ
ràng
là
vô cùng
cần
thiết.
b.
Vai
trò
của
pháp
luật
cạnh
tranh
Pháp luật cạnh tranh góp phần quan trọng tạo lập môi trường kinh doanh và
cạnh tranh bình đẳng, tự do.
Với
tư cách là
lĩnh
vằc pháp
luật
đặc thù
của
nền
kinh tế thị
trường,
pháp
luật
cạnh
tranh
bảo vệ
cạnh
tranh
bàng cách
chổng
lại
các hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
và
loại
bỏ mọi hành
vi
hạn
chế cạnh
tranh
trên
thị
trường.
Để
cạnh
tranh tồn
tại
trên
thị
trường
thì
phải
đảm bảo cơ sở pháp lý
quan
trọng
là các quy định về
tằ
do
kinh
doanh
và
quyền
được
tồn
tại
bình đẳng của các
doanh
nghiệp.
Tằ do
kinh
doanh là quyền
được
tằ
do
lằa
chọn
lĩnh
vằc
kinh
doanh,
tằ
do
gia
nhập
thị
trường,
tằ
do
giao
kết
và bảo đảm
quyền
sở
hữu, tằ
do
quyết
định các phương
thức
kinh
doanh.
Đó
là những điều
kiện
tiên
quyết
để
cạnh
tranh tồn
tại
và phát huy tác
dụng.
Trong
điều
kiện
đó,
các chủ
thể trong thị
trường
tằ
quyết
định
việc
cung
cấp hàng
hoa dịch
vụ mà không
chịu bất
cứ sằ
chi phối
nào
từ
phía nhà nước và các
doanh
nghiệp
khác.
Người
tiêu
dùng
cũng
được
tằ
do
lằa
chọn những
hàng hoa mà họ
cần,
thị
trường đưa các
doanh
nghiệp
và
người
tiêu dùng đến
với
nhau.
Việc
tằ
do
gia
nhập
thị
trường cùng
với
một số lượng
lớn
các
doanh
nghiệp
cùng
sản
xuất
một
loại
17
hàng hoa trên
thị
trường
khiến
cuộc cạnh
tranh trở
lên
khốc
liệt.
Các
doanh
nghiệp
phải
tìm mọi cách để
tạo ra
lợi
nhuận,
giữ
vững vị trí của
mình trên thương
trường.
Kết
quả
là,
trong
khi
một vài
doanh
nghiệp
thành công thì sẽ có
những doanh
nghiệp
phải
gánh
chịu
tổn
thất,
thậm
chí
phải
rời
bằ
thị
trường.
Đây là
điều
tất
yếu
của
nguyên
tắc
cạnh
tranh, tuy
nhiên,
trên
thực
tế
điều
này phát
sinh ra
nhiều
biếu
hiện
tiêu
cực.
Do sự thôi thúc tìm
kiếm
lợi
nhuận bằng
mọi
cách,
một số chủ
thể
trên
thị
trường
thực
hiện
các hành
vi
không phù hợp
với truyền
thống
kinh
doanh
lành
mạnh,
xâm phạm
trật
tự kinh
doanh,
đe doa
hoặc
xâm
hại
trực tiếp
đến
lợi
ích
của đối thủ
cạnh
tranh
hoặc của
người
tiêu
dùng.
Một
số
hành
vi
hạn
chế cạnh
tranh
khác còn
trực tiếp
xâm
hại
trật
tự kinh
tế,
huy
hoại
cạnh
tranh,
xâm phạm
quyền tự
do
kinh
doanh
lành
mạnh
của
các
doanh
nghiệp
trên
thị
trường.
Pháp
luật
cạnh
tranh
ra
đời
nhằm mục đích ngăn
ngừa
và hạn
chế
tất
cả các hành
vi
này.
Thông qua đó,
pháp
luật
cạnh
tranh
bảo vệ
quyền
tự
do
kinh
doanh của chủ
thể
trên
thị
trường,
bảo
vệ
một môi trường
cạnh
tranh
và các
quan
hệ
kinh
doanh
lành
mạnh
trên
thị
trường.
Đây
là vai
trò chủ yếu của
chính sách
cạnh
tranh.
Pháp
luật cạnh tranh
bảo
vệ
quyền
lợi
người tiêu
dùng
Bảo vệ
người
tiêu dùng luôn luôn là một
trong
các mục tiêu chính của chính
sách
cạnh
tranh tất
cả các
nước.
Pháp
luật
cạnh
tranh
có
vai
trò
quan
trọng trong
việc
thực
hiện
mục
tiêu
này.
Các hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
và hạn chế
cạnh
tranh
trên
thị
trường
của
các
doanh
nghiệp
không
những
gây
tổn hại
cho
đối thủ
cạnh
tranh
mà còn xâm
phạm nghiêm
trọng
tới lợi
ích
của
người
tiêu
dùng.
Lợi
dụng
sự
thiếu
hiểu
biết
của
khách hàng về sản phẩm, các
doanh
nghiệp
có
thể
đưa
ra những
chiêu
thức
kinh
doanh
lừa
dối,
hoặc cung cấp
các
loại
hàng hoa kém
chất
lượng.
Người
tiêu dùng bị
các
doanh
nghiệp
này
thuyết
phục
bời
những
thủ
đoạn
đánh bóng
chất
lượng
và che
lấp
khuyếm
khuyết
trong
cung
ứng và
trong
tính
năng,
kết
cấu của sản phẩm. Khi
phát
hiện,
họ khó có
thể
khiếu nại
hay
kiện
tụng
vì
giao
dịch
đã hoàn thành tự
nguyện.
Khi đó,
thiết
chế của
pháp
luật
cạnh
tranh
cùng
với
nguyên
tắc trung
thực
18
trong
cạnh
tranh
được phát huy tác
dụng,
đàm bảo sự
trung
thực
của
thị
trường và
lợi
ích
của người
tiêu
dùng.
Các
hạnh
vi
nghiêm
trọng
hơn là
khi
cạnh
tranh
giữa
các
doanh
nghiệp
bị
triệt
tiêu
bằng những
thủ
đoạn
không lành
mạnh
hoặc bằng
sự tích
tụ,
tập trung tất
yếu
của thị
trường.
Khi
các
doanh
nghiệp
bắt tay vểi
nhau
trong việc
cung
cấp một
loại
sản
phẩm
dịch
vụ nào
đó,
có
thể
về giá
cà,
số
lượng,
vùng phân
phối ,
lợi
ích của
người
tiêu dùng
sẽ
bị xâm phạm nghiêm
trọng,
do họ không có khả năng
lựa
chọn
mà
buộc
phải
chấp nhận
sự áp
đặt
của
nhà
sản
xuất.
Pháp
luật
cạnh
tranh
có
nhiệm
vụ
chống
lại
tất
cả
những
hành
vi
này, qua đó bảo vệ
người
tiêu dùng
vểi
ba
nội
dung:
bảo vệ
người
tiêu dùng trưểc
những
họp đồng không
trang
thực
và không
công
bằng
theo
hưểng
phải
sửa
đổi
lại
những điều khoản
không công
bằng; đặt ra
các quy
định
trong việc
đảm bảo thông
tin
về
sản
phẩm,
kiểm
soát
hoạt
động
quảng
cáo, khuyến
mãi và ngăn cấm các
biểu
hiện
bất
chính
trong
các
lĩnh
vực này;
và quy
định
trách
nhiệm đối
vểi
những
vi
phạm có
thể
đe doa đến
quyền
lợi
người
tiêu
dùng
1
.
Pháp
luật cạnh tranh
bảo
vệ
quyền
lợi
của các
doanh
nghiệp
Không chỉ đảm bảo
lợi
ích cho
cộng
đồng và
người
tiêu dùng không bị xâm
phạm mà pháp
luật
cạnh
tranh
còn có
vai
trò quan
trọng trong việc
bảo vệ
quyền
lợi
cho
các
doanh
nghiệp.
Nhờ
việc tạo ra
một môi trường
kinh
doanh
bình
đẳng,
tự
do,
pháp
luật
cạnh
tranh
có tác
dụng khuyến
khích các chủ
thể
trên
thị
trường
cạnh
tranh
một cách lành
mạnh
vểi
nhau.
Pháp
luật
cạnh
tranh
duy
trì
trật
tự thị
trường,
giúp
doanh
nghiệp
loại
bỏ các hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh
và hạn
chế cạnh
tranh
của
đổi thủ.
Nếu không có sự
điều chỉnh của
pháp
luật
cạnh
tranh,
tình
trạng
hỗn
loạn
trên
thị
trường có
thể
sẽ
diễn
ra
do
tất
cả các
doanh
nghiệp
đều sử
dụng
các
thủ
đoạn
không lành
mạnh
nhằm
tranh
giành
thị
phần hoặc
trả
đũa
lại
đối
thủ
cạnh
tranh.
Như
vậy,
mặc dù pháp
luật
cạnh
tranh đặt
các chủ
thể kinh
doanh
phải
' Lê
Danh
Vĩnh,
Hoàng Xuân
Bấc,
Nguyễn
Ngọc
Sơn.
"Pháp
luật
cạnh
tranh
tại
Việt
Nam
",
Nxb. Tư pháp
2006.
19
luôn
trong
tình
trạng
nỗ
lực hết
mình để
tồn
tại,
nhưng
cũng
đem
lại
cho họ một
môi
trường
ổn
định,
lành
mạnh
để phát
triển.
Pháp
luật cạnh tranh
đảm bảo
cho
tiến trình toàn
cầu hoa
diễn
ra nhanh chóng
và
hiệu
quả
Pháp
luật
cạnh
tranh với
những
quy định
áp
dụng
cho
tất
cả
các
chố
thể
trên
thị
trường,
không phân
biệt
các
loại
hình
doanh
nghiệp,
đóng
vai
trò
quan
trọng trong
việc
xoa
bỏ rào
cản quốc
gia
và
tạo ra
một
thị
trường
rộng
lớn với
sự
tham
gia
cốa
tất
cả
các
quốc
gia.
Đặc
biệt,
thị
trường
cạnh
tranh
quốc
tế tồn
tại
từ những doanh
nghiệp
sản
xuất
nhỏ
lẻ
nhất
cho
tới
những
tập
đoàn
kinh
doanh
đa
quốc
gia với
thế
lực lớn
mạnh.
Vì
thế,
khó
thể
tránh
khỏi việc
các
tập
đoàn
lớn
này
dùng
thố
đoạn
lạm
dụng
thế
mạnh
tài
chính
để
chiếm
đạt
và
thao
túng
thị
trường
cốa những
nước
có trình
độ
phát
triển
thấp
hơn.
Pháp
luật
cạnh
tranh
điều
chinh
các
hành
vi
này để
bảo
vệ cho các
doanh
nghiệp
vừa
và nhỏ
đồng
thời
cũng
đảm bảo cho
cạnh
tranh
được
thực
sự
diễn
ra
trên
thị
trường.
Như
vậy,
bằng
các quy
định cốa
mình,
pháp
luật
cạnh
tranh
một mặt ống hộ quá
trình
hội
nhập
kinh tế
quốc
tế
diễn
ra nhanh
chóng,
một mặt
đảm
bảo tính
hiệu
quả
cốa
quá
trình
này
thông qua
việc
loại
bỏ các
hành
vi
cạnh
tranh
không lành
mạnh và
phản cạnh
tranh.
c. Nội dung cốa
pháp
luật
cạnh
tranh
Các nước khác
nhau
có
những
hình
thức
biểu
hiện
khác
nhau cốa
pháp
luật
cạnh
tranh.
Một
số
thuật
ngữ được dùng đến
như
luật
chống
độc
quyền,
luật
chống phản
cạnh
tranh ,
nhưng nhìn
chung
pháp
luật
cạnh
tranh
thường
chia
thành
hai
lĩnh
vực lớn
là
pháp
luật
chống cạnh
tranh
không lành
mạnh và
pháp
luật
chống
hạn chế
cạnh
tranh.
Một
số nước tách
riêng
hai
lĩnh
vực
này
thành
hai
bộ
luật,
một
số khác
lại
gộp chúng
vào
một bộ
luật
(như ở
Việt
Nam).
Có
thể
hình
dung
nội
dung cốa
pháp
luật
cạnh
tranh
dưới
sơ đồ
sau:
20